Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Những vấn đề lý luận chung về chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay trung và dài hạn của NHTM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.94 KB, 25 trang )

Những vấn đề lý luận chung về chất lượng thẩm định
tài chính dự án trong hoạt động cho vay trung và dài hạn
của NHTM
1.Hoạt động cho vay của NHTM
1.1Hoạt động cho vay của NHTM.
Trải qua nhiều thế kỉ từ khi xuất hiện đến nay hệ thống các ngân hàng
thương mại với hàng ngàn chi nhánh ở khắp năm châu đã không ngừng thể hiện
tầm quan trọng không thể thiếu của mình đối với sự phát triển nền kinh tế thế
giới nói chung, cũng như đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia riêng
biệt. Chính hệ thống Ngân hàng với những phương tiện giao dịch hiện đại
(Ngân hàng điện tử) đang từng bước xoá bỏ sự ngăn cách về địa lý, không gian
và thời gian làm cho các lục địa xích lại gần nhau hơn.
Ngày nay hoạt động ngân hàng không còn chỉ đơn điệu với những nghiệp
vụ đơn giản như nhận tiền gửi, đổi tiền…mà đã trở nên vô cùng phong phú đa
dạng với homebanking, thẻ ngân hàng, chuyển tiền điện tử,….Tuy nhiên những
khoản dịch vụ hiện đại này mới chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng cơ cấu
tài sản của ngân hàng, còn phần tỷ trọng lớn trong cơ cấu tài sản của ngân hàng
vẫn là các dịch vụ cho vay. Ở hầu hết các nước khả năng cho vay đối với khách
hàng chính là lý do cơ bản để ngân hàng được các cơ quan quản lý có thẩm
quyền cấp phép hoạt động. Mọi người mong muốn các ngân hàng hỗ trợ cho sự
phát triển của cộng đồng địa phương thông qua các hoạt động cho vay đáp ứng
nhu cầu tài chính của doanh nghiệp và của người tiêu dùng với một mức lãi suất
hợp lý. Do đó, cho vay được coi là chức năng kinh tế hàng đầu của các ngân
hàng. Hoạt động cho vay cũng có mối quan hệ mật thiết với tình hình phát triển
kinh tế tại khu vực ngân hàng phục vụ, bởi cho vay thúc đẩy tăng trưởng của
các doanh nghiệp, tạo ra sức sống cho nền kinh tế. Không những vậy thông qua
các khoản cho vay của ngân hàng, thị trường sẽ có thêm những thông tin về chất
lượng tín dụng của từng khách hàng và nhờ đó giúp họ có khả năng nhận thêm
các khoản tín dụng mới từ những nguồn khác với chi phí thấp hơn. Đối với hầu
hết các ngân hàng thương mại, đặc biệt ở các nước đang phát triển thì thu nhập
từ cho vay chiếm quá nửa tổng giá trị tổng nguồn thu của ngân hàng.


Với tầm quan trọng như vậy thì thực chất cho vay vẫn được hiểu là một
giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (Ngân hàng hoặc
định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể
khác) trong đó bên vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời
hạn nhất định theo thoả thuận theo nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
Về cách phân loại có rất nhiều cách khác nhau, tuỳ theo mỗi tiêu thức
phân loại và tuỳ theo từng ngân hàng mà hoạt động cho vay được chia ra làm
nhiều loại, nhằm thuận tiện cho quản lý và phù hợp với mục đích vay vốn của
khách hàng.
Nếu dựa vào tiêu chí mục đích thì cho vay được chia ra các loại:
- Cho vay bất động sản;
- Cho vay công nghiệp và thương mại;
- Cho vay nông nghiệp;
- Cho vay các định chế tài chính;
- Cho vay cá nhân;
- Cho thuê;
Nếu dựa vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng cho vay lại được chia
làm hai loại:
- Cho vay không có bảo đảm;
- Cho vay có bảo đảm;
Nếu dựa vào thời hạn cho vay thì bao gồm:
- Cho vay ngắn hạn;
- Cho vay trung hạn;
- Cho vay dài hạn
Ngoài những căn cứ trên thì còn nhiều cách phân chia nữa của hoạt động
cho vay. Trong đó đối với những ngân hàng phân chia hoạt động cho vay theo
tiêu thức thời gian thì phần cho vay trung và dài hạn thường chiếm tỷ trọng khá
cao trong cơ cấu cho vay
1.2 Hoạt động cho vay trung và dài hạn của NHTM
* Khái niệm:

Hiện nay giữa các nước khác nhau trên thế giới quan niệm về cho vay
trung và dài hạn không hoàn toàn giống nhau. Tại thị trường tài chính Việt Nam
cho vay trung và dài hạn vẫn được coi là các khoản cho vay có thời hạn trên 1
năm. Trong đó:
Cho vay trung hạn là các khoản cho vay có thời hạn từ 1 đến 3 năm
Cho vay dài hạn là những khoản cho vay có thời hạn trên 3 năm.
* Lý do lựa chọn phương án vay trung và dài hạn của khách hàng:
Ngoài nguồn vốn chủ sở hữu, đi vay trung và dài hạn từ các định chế tài
chính và phát hành trái phiếu trên thị trường chứng khoán là hai nguồn tài trợ
dài hạn chủ yếu của các khách hàng doanh nghiệp. Chính bởi vậy mà có nhiều
lý do để các khách hàng lựa chọn nguồn vốn vay trung và dài hạn từ các ngân
hàng.
Trước hết là do các doanh nghiệp nhỏ bị hạn chế về khả năng tìm nguồn
vốn trên thì trường, họ không thể có đủ các điều kiện để có thể huy động vốn
trung và dài hạn cho mình thông qua thị trường chứng khoán. Vì vậy khi nhu
cầu vốn phát sinh họ phải đi vay ở các ngân hàng thương mại và các định chế
tài chính khác.
Thứ hai đó là, trong nhiều trường hợp khách hàng thấy vay trung dài hạn
tốt hơn phát hành chứng khoán. Bởi so với phát hành trái phiếu, đi vay mượn
các doanh nghiệp có thể có điều kiện vay muợn thích hợp hơn cho nhu cầu của
mình. Sau khi nhận tiền vay họ vẫn có thể thương lượng với người cho vay một
số điều kiện đã được xác định ban đầu. Hơn nữa đi vay họ sẽ không phải tốn
thêm những chi phí về bảo lãnh, đăng ký, phát hành…..
Thứ ba là, trong nhiều trường hợp doanh nghiệp không muốn phát hành
chứng khoán để thu hút vốn vì ngại phải công bố thông tin về mình hoặc đang ở
trong điều kiện thị trường không thuận lợi cho việc phát hành.
Và thứ tư đó là, cho vay trung dài hạn sẽ buộc các doanh nghiệp nhỏ phải
tích luỹ vốn từ lợi nhuận để lại, cho dù doanh nghiệp có quan hệ mật thiết với
ngân hàng. Điều này sẽ có lợi cho doanh nghiệp về sau này.
Với những lý do trên cho thấy đi vay trung dài hạn tại các định chế tài chính

thực sự là một kênh không thể thiếu của các khách hàng doanh nghiệp. Nhu cầu
lớn nên loại hình cho vay này cũng có nhiều hình thức khác nhau cho khách
hàng lựa chọn để phù hợp với mình.Như:
Cho vay mua sắm thiết bị trả góp
Cho vay kỳ hạn
Tài trợ theo dự án
Cho vay hợp vốn
Cho thuê tài chính
Forfaiting (một hình thức cấp tín dụng người bán trong các giao dịch mua bán
hàng trả chậm và không truy đòi đối với người bán mà thu tiền thẳng từ người
mua).
1.2 Thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay trung và dài
hạn của NHTM.
1.2.1 Khái niệm về thẩm định tài chính dự án.
*Khái niệm:
Đối với bất kỳ một dự án nào khi được đưa vào xem xét để thực hiện thì
vấn đề được quan tâm hàng đầu là tính khả thi của dự án. Tính khả thi của dự án
sẽ được thể hiện thông qua sự phù hợp về mặt kỹ thuật, mặt kinh tế và tài chính
của dự án đối với nền kinh tế, với sự quản lý của nhà nước,với nhà đầu tư và với
chủ dự án. Trong đó tuỳ theo từng dự án được thiết kế phục vụ cho các mục
đích khác nhau (như dự án vì cộng đồng, dự án đầu tư mở rộng sản xuất kinh
doanh,...) mà những tiêu chí về kinh tế, về kĩ thuật hay về tài chính sẽ được đề
cao. Tuy nhiên cho dù đề cao tiêu chí nào đi chăng nữa thì sự xem xét thẩm định
về mặt tài chính của một dự án trước khi đưa vào thực thi là không thể coi nhẹ.
Và cũng bao hàm những vấn đề cơ bản của công tác thẩm định, “ thẩm định tài
chính dự án chính là sự rà soát đánh giá một cách khoa học, toàn diện mọi
khía cạnh tài chính của dự án trên giác độ của nhà đầu tư bao gồm doanh
nghiệp, các tổ chức kinh tế khác và các cá nhân”.
Trong hoạt động cho vay của mình các ngân hàng thương mại chính là
các nhà tài trợ vốn. Ngoài những dự án ngân hàng cho vay theo chỉ định của

chính phủ nhằm phục vụ cộng đồng yếu tố lợi nhuận không được đặt nên hàng
đầu, còn lại hầu hết cho vay các dự án khác đều nhằm mục đích tạo thu nhập
cho ngân hàng. Vì vậy việc thẩm định tài chính dự án là vô cùng quan trọng
trong hoạt động cho vay của ngân hàng.
1.2.2Sự cần thiết của công tác thẩm định tài chính trong hoạt động cho vay
trung dài hạn của NHTM.
Để cho một lượng vốn lớn được bỏ ra hiện tại có thể được thu hồi dần
trong tương lai xa, thì trước khi chi vốn vào các dự án, các nhà đầu tư đều tiến
hành soạn lập chương trình cụ thể, chi tiết theo tính chất của từng dự án. Những
công việc này hết sức phức tạp liên quan đến nhiều vấn đề, đòi hỏi phải có sự
phối hợp hoạt động của nhiều người. Thực tế những giải trình từ phía doanh
nghiệp đối với ngân hàng về dự án cần vay vốn thường rất sơ sài, đôi khi có số
liệu không đủ căn cứ để chứng minh tính sát thực Do đó phải rà soát, điều chỉnh
lại.
 Đối với ngân hàng, để ngăn chặn sự đổ bể, sự lãng phí vốn khi muốn
tài trợ hay cho vay vốn vào dự án thì cần phải thẩm định lại tính hiệu quả của
dự án, đặc biệt sự hiệu quả về mặt tài chính. Điều này đảm bảo cho chính bản
thân sự tồn tại của một ngân hàng. Bởi nều để xảy ra bất kỳ rủi ro nào dẫn đến
sự không thu hồi được vốn của ngân hàng sẽ ảnh hưởng lớn đến thu nhập của
ngân hàng, nhất là khi đó là các dự án lớn.
 Đối với xã hội, mỗi một dự án khi thực hiện không chỉ có ảnh hưởng
đến chủ dự án, ngân hàng (hay các nhà đầu tư khác) mà còn chứa đựng cả
những ảnh hưởng đối với người dân nơi thực hiện dự án, đến nguồn tài nguyên
đất nước sẽ được sử dụng, đến các ngành nghề khác liên quan….Vì vậy ngân
hàng cần phải tiến hành thẩm định lại dự án để xem xét một cách toàn diện khi
có chi phí xã hội dự án, hiệu quả tài chính của dự án còn được đảm bảo không,
có phù hợp với mục tiêu và chiến lược phát triển của vùng, của địa phương hay
không.
 Đối với chủ dự án, khi ngân hàng tiến hành thẩm định lại dự án chính
là dịp để khẳng định tính đúng đắn trong quyết định đầu tư của chủ dự án. Đồng

thời giúp chủ dự án tránh được những sai sót có thể không nhận thấy khi tiến
hành lập dự án, làm cho dự án hoàn thiện hơn, tránh lãng phí vốn của chính chủ
dự án.
Với sự cần thiết như vậy thì khi thực hiện nội dung thẩm định tài chính dự án sẽ
bao gồm những nội dung cơ bản gì?
1.3 Nội dung công tác thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho
vay trung và dài hạn của NHTM.
1.3.1 Thẩm định dự toán đầu tư và nguồn tài trợ.
Mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp và nhà đầu tư về ngắn hạn là tối đa
hoá vốn chủ sở hữu, còn về dài hạn chính là tối đa hoá giá trị doanh nghiệp. Để
đạt được mục tiêu này thì vấn đề quan trọng đưa ra đối với doanh nghiệp là
không ngừng đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Và để đầu tư được người ta đưa ra
câu hỏi về vốn đầu tư. Dưới giác độ của dự án thì vốn đầu tư chính là tổng số
tiền được chi tiêu để hình thành nên các tài sản cố định, tài sản lưu động cần
thiết và vốn dự phòng.
Trong đó vốn đầu tư vào tài sản cố định thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
vốn đầu tư của dự án, đặc biệt là các dự án sản xuất. Và là phần để mua sắm, cải
tạo, mở rộng tài sản cố định (như: máy móc thiết bị sản xuất, nhà xưởng,
phương tiện vận chuyển…). Phần vốn đầu tư còn lại được đầu tư vào tài sản
lưu động ròng. Đó là nguồn vốn để hình thành nên các tài sản lưu động ròng cần
thiết để thực hiện dự án (như: nguyên vật liệu, nhiên liệu, tiền thuê nhân công,
chi phí quản lý…). Lượng vốn lưu động ròng lớn hay nhỏ phụ thuộc vào đặc
điểm của mỗi dự án; Ngoài hai phần vốn chính này là phần vốn dự phòng để kịp
thời cung cấp khi có phát sinh những chi phí ngoài dự kiến hay khi xảy ra rủi ro
dự kiến.
Để xác định được lượng vốn cho dự án các nhà lập dự án tiến hành dự
toán vốn. Thông thường các nhà thẩm định và các nhà lập dự án sẽ căn cứ vào
năm tiêu chí cơ bản là: chính sách kinh tế, tình hình thị trường và sự cạnh tranh,
chi phí tài chính, tiến bộ khoa học kỹ thuật, khả năng tài chính của doanh
nghiệp. Những tiêu chí này được sử dụng trong các phương pháp dự toán vốn

như dự báo theo tỷ phần doanh thu, dự toán tổng thể. Nhà thẩm định sẽ xem xét
toàn bộ quá trình lập dự toán vốn này để biết được mức vốn chính xác cần thiết
cho dự án.
Và:
Tổng vốn đầu
tư của dự án
=
Vốn cố
định
+
Vốn lưu
động
+
Vốn dự
phòng
Tổng vốn đầu tư được xác định là vậy nhưng sẽ tài trợ bằng nguồn vốn
nào? Đây là câu hỏi không chỉ nhà thẩm định mà chính chủ thực hiện dự án sẽ
đặt ra đầu tiên. Về mặt lý thuyết và cả thực tế thì mỗi dự án có nhiều hình thức
tài trợ vốn khác nhau:
Trước hết dự án có thể được tài trợ bằng vốn tự có: Loại vốn này có được
từ bốn nguồn: từ phát hành cổ phiếu thường, từ thặng dư vốn và từ lợi nhuận
giữ lại, phát hành cổ phiếu ưu đãi.
Cổ phiếu thường có nhiều ưu thế trong việc phát hành ra công chúng và
trong quá trình lưu hành trên thị trường chứng khoán. Như sau khi phát hành
doanh nghiệp có thể tạm thời mua lại, doanh nghiệp có thể dễ dàng phát hành
thêm khi cần thiết….Nên loại này cũng được sử dụng để tài trợ cho dự án, đặc
biệt là các dự án qui mô lớn.
Nguồn thặng dư vốn: Đây chính là phần vốn có được từ chênh lệch giữa
giá thị trường của cổ phiếu thường và mệnh giá của nó tại thời điểm phát hành.
Tuỳ theo sự đánh giá của thị trường về trị giá của cổ phiếu của doanh nghiệp mà

phần vốn này thu được là lớn hay nhỏ so với phần vốn dự tính có được từ phát
hành cổ phiếu thường.
Nguồn vốn từ thu nhập giữ lại được tài trợ cho dự án chỉ khi quá trình
hoạt động sản xuất của doanh nghiệp có hiệu quả. Tài trợ bằng thu nhập giữ lại
là một phương thức tạo nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn của các
doanh nghiệp do doanh nghiệp giảm được chi phí, giảm được sự phụ thuộc vào
bên ngoài.
Tài trợ cho dự án bằng nợ: phần vốn này doanh nghiệp có thể có từ
nguồn tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại và vay thông qua phát hàng trái
phiếu.
Trái phiếu thực chất là một loại giấy vay nợ trung và dài hạn.Trên thị trường
thường lưu hành nhiều loại trái phiếu doanh nghiệp khác nhau (trái phiếu có lãi
suất cố định, trái phiếu có lãi suất thay đổi, trái phíếu có thể thu hồi, trái phiếu
có thể chuyển đi).Việc doanh nghiệp lựa chọn loại trái phiếu nào để tài trợ cho
dự án còn tuỳ thuộc vào những vấn đề liên quan đến chi phí trả lãi, cách thức trả
lãi, khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái phiếu.
Tài trợ cho dự án bằng hình thức Leasing: thực chất đây là hình thức tài
trợ dự án thông qua cho thuê các loại tài sản. Doanh nghiệp có thể thuê ngắn
hạn tài sản hoặc thuê dài hạn tài sản. Đây là hình thức tài trợ rất phổ biến do nó
có nhiều ưu điểm so với các hình thức tài trợ khác đối với cả người cho thuê,
người đi thuê và với nền kinh tế.
Tài trợ bằng hình thức kết hợp: Đó là cách mà nguồn vốn cho dự án hình
thành từ sự kết hợp theo một tỷ lệ nhất định giữa vốn vay, vốn chủ sở hữu.
Trong hình thức tài trợ này chi phí vốn của dự án được đặc biệt quan tâm. Bởi
từ đó mà nhà soạn lập xác định nên đi vay bao nhiêu, nên dùng vốn chủ bao
nhiêu sao cho có được cơ cấu vốn tối ưu.
Nếu gọi T là thuế suất thu nhập doanh nghiệp.
K
e
: Chi phí thực của vốn chủ sở hữu

K
d
: Chi phí của vốn vay
W
e
: Tỷ trọng của vốn chủ sở hữu trong tổng vốn
W
d
: Tỷ trọng của vốn vay trong tổng vốn
Ta có công thức xác định chi phí vốn trung bình của dự án:
WACC = W
e
.k
e
+ W
d
.(1 – T).k
d
1.3.2 Thẩm định kế hoạch doanh thu – chi phí – lợi nhuận hàng năm của dự
án.
Khi thực hiện công tác thẩm định về doanh thu của dự án điểm xuất phát
đầu tiên của nhà thẩm định là tìm hiểu về thị trường sản phẩm của dự án. Cán
bộ thẩm định sẽ phải thu thập thông tin về giá cả sản phẩm đã có hay sản phẩm
tương tự của đối thủ cạnh tranh trên thị trường hiện tại là bao nhiêu? Nhu cầu về
sản phẩm này hiện tại và xu hướng trong tương lai. Rồi đặc tính sản phẩm của
dự án có khả năng chiếm lĩnh thị trường hay không? Công suất dự tính của dự
án sẽ là bao nhiêu …. Từ đó dự tính doanh thu hàng năm của dự án.
Doanh thu mỗi
năm của dự án
=

Lượng hàng
dự tính tiêu
thụ mỗi năm
X
Giá bán dự tính
của một đơn vị
sản phẩm
Về chi phí của dự án: Thông thường phần vốn cố định chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng vốn của dự án. Nên những phần vốn chi cho xây dựng cơ sở vật chất,
mua sắm máy mọc thiết bị sản xuất thường được thẩm định kĩ lưỡng. Cán bộ
thẩm định phải xem xét giá cả nguyên – nhiên vật liệu cho phần xây dựng cũng
như giá cả máy móc sản xuất của dự án bao nhiêu là phù hợp với thị trường của
khu vực, chất lượng máy móc ra sao…nhằm đánh giá chính xác cho phần vốn
cần bỏ ra ban đầu. Và khi dự án đi vào hoạt động thì những chi phí về nguyên
nhiên vật liệu, đơn giá tiền công, khấu hao... hình thành nên giá thành sản phẩm
sẽ là bao nhiêu có phù hợp với dây truyền sản xuất, với thị trường hiện tại
không? Phương pháp khấu hao như thế nào cũng đặc biệt được quan tâm bởi nó
ảnh hưởng khá lớn đến dòng tiền ròng của dự án. Những chi tiết này sẽ được
cán bộ thẩm định làm rõ trên cơ sở những nguyên tắc kế toán nhất định để xác
định chi phí hợp lý cho từng năm của dự án.
Từ xác định doanh thu và chi phí hàng năm của dự án nhà thẩm định sẽ
xác định được lợi nhuận hàng năm của dự án, từ đó dự tính được dòng tiền của
dự án. Đây là phần chính yếu để nhà thẩm định biết được tính khả thi của dự án
cũng như khả năng thu hồi nợ từ kết quả hoạt động của dự án.
1.3.3 Thẩm định dòng tiền hàng năm của dự án
Theo quan niệm chung hiện nay của các nhà kinh tế, dòng tiền của một
dự án là các khoản chi và thu được kì vọng xuất hiện tại các mốc thời gian khác
nhau trong suốt thời gian tồn tại của dự án. Trong dòng tiền của dự án có dòng
tiền ra, dòng tiền vào và dòng tiền ròng (chênh lệch giữa dòng tiền vào và dòng
tiền ra của dự án). Tuy nhiên dòng tiền ròng được coi là con số chính để xác

định giá trị hay hiệu quả trực tiếp của dự án. Khi xác định dòng tiền các nhà
phân tích và thẩm định có những nguyên tắc nhất định. Đó là :
Loại bỏ chi phí chìm ra khỏi phân tích: Chi phí chìm là những chi phi mà
doanh nghiệp - chủ dự án vẫn phải bỏ ra cho dù dự án có được chấp nhận và
thực hiện hay không (chẳng hạn như chi phí tư vấn về dự án, chi phí thiết kế dự
án, …). Chi phí này là một khoản chi tất yếu do đó không được đưa vào phần
chi đầu tư của dự án.
Chi phí cơ hội sẽ được đưa vào để phân tích chi phí của dự án: Có những
dự án được thiết kế trong đó có sử dụng một số yếu tố đầu vào sẵn có của doanh
nghiệp. Mà đáng lẽ ra nếu không sử dụng vào dự án thì nó sẽ được sử dụng vào
việc khác và đem lại nguồn thu cho doanh nghiệp. Khi sử dụng vào dự án doanh

×