Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA NHTM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.52 KB, 29 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG
THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO
VAY TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA NHTM.
1.1 Hoạt động cho vay của NHTM.
1.1.1 Những vấn đề chung về hoạt động cho vay của NHTM
Trải qua nhiều thế kỉ từ khi xuất hiện đến nay hệ thống các ngân hàng
thương mại với hàng ngàn chi nhánh ở khắp năm châu đã không ngừng thể hiện
tầm quan trọng không thể thiếu của mình đối với sự phát triển nền kinh tế thế giới
nói chung, cũng như đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia riêng biệt.
Chính hệ thống Ngân hàng với những phương tiện giao dịch hiện đại (Ngân hàng
điện tử) đang từng bước xoá bỏ sự ngăn cách về địa lý, không gian và thời gian
làm cho các lục địa xích lại gần nhau hơn.
Ngày nay sản phẩm của ngân hàng không còn chỉ đơn điệu với nhận tiền
gửi, đổi tiền, giữ tiền hộ…mà đã trở nên vô cùng phong phú đa dạng với thẻ ngân
hàng, chuyển tiền điện tử, bao thanh toán, phonebanking,….Tuy nhiên những dịch
vụ hiện đại này mới chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng cơ cấu tài sản của ngân
hàng, còn phần tỷ trọng lớn trong cơ cấu tài sản của ngân hàng vẫn là các dịch vụ
cho vay. Ở hầu hết các nước khả năng cho vay đối với khách hàng chính là lý do
cơ bản để ngân hàng được các cơ quan quản lý có thẩm quyền cấp phép hoạt động.
Mọi người mong muốn các ngân hàng hỗ trợ cho sự phát triển của cộng đồng địa
phương thông qua các hoạt động cho vay đáp ứng nhu cầu tài chính của doanh
nghiệp và của người tiêu dùng với một mức lãi suất hợp lý. Do đó, cho vay được
coi là chức năng kinh tế hàng đầu của các ngân hàng. Hoạt động cho vay cũng có
mối quan hệ mật thiết với tình hình phát triển kinh tế tại khu vực ngân hàng phục
vụ, bởi cho vay thúc đẩy tăng trưởng của các doanh nghiệp, tạo ra sức sống cho
nền kinh tế. Không những vậy thông qua các khoản cho vay của ngân hàng, thị
trường sẽ có thêm những thông tin về chất lượng tín dụng của từng khách hàng và
nhờ đó giúp họ có khả năng nhận thêm các khoản tín dụng mới từ những nguồn
khác với chi phí thấp hơn. Đối với hầu hết các ngân hàng thương mại, đặc biệt ở
các nước đang phát triển thì thu nhập từ cho vay chiếm quá nửa tổng giá trị tổng
nguồn thu của ngân hàng.


Với tầm quan trọng như vậy thì thực chất cho vay vẫn được hiểu là một
giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (Ngân hàng hoặc định
chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác)
trong đó bên vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn
nhất định theo thoả thuận theo nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
Về cách phân loại có rất nhiều cách khác nhau, tuỳ theo mỗi tiêu thức phân
loại và tuỳ theo từng ngân hàng mà hoạt động cho vay được chia ra làm nhiều loại,
nhằm thuận tiện cho quản lý và phù hợp với mục đích vay vốn của khách hàng.
Nếu dựa vào tiêu chí mục đích thì cho vay được chia ra các loại:
- Cho vay kinh doanh bất động sản: bao gồm các khoản cho vay xây dựng
ngắn hạn, giải phóng mặt bằng hay các khoản cho vay dài hạn nhằm mua đất canh
tác, nhà, các trung tâm thương mại…..
- Cho vay công nghiệp và thương mại: nhằm đáp ứng nhu cầu của các
doanh nghiệp trong việc trang trải những khoản chi phí như mua hàng nhập kho,
mua sắm máy móc thiết bị để sản xuất kinh doanh….
- Cho vay nông nghiệp: nhằm hỗ trợ cho người nông dân trong thời điểm
mùa vụ như lúc chuẩn bị gieo trồng, khi bảo quản và chế biến sản phẩm.
- Cho vay các tổ chức tài chính: đây là các khoản tín dụng cung cấp giữa
các tổ chức tài chính với nhau để đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn.
- Cho vay cá nhân: hình thức này nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của cá
nhân như tài trợ cho việc mua sắm ô tô, xe máy, nhà ở….
- Cho thuê: Đây là hình thức mà ngân hàng đứng ra mua sắm máy móc
thiết bị sau đó cấp tín dụng cho khách hàng thông qua việc cho thuê những tài sản
này. Trong suốt thời hạn thuê ngân hàng sẽ nhận được tiền từ người thuê và đến
cuối thời hạn có thể bán lại tài sản cho khách hàng theo hợp đồng thuê mua đã kí
kết.
Nếu dựa vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng cho vay lại được chia
làm hai loại:
- Cho vay không có bảo đảm: là loại cho vay mà ngân hàng không cần sự
thế chấp, cầm cố hay sự bảo lãnh của bên thứ ba.

- Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay mà ngân hàng chỉ cho vay khi khách
hàng có tài sản đủ tiêu chuẩn để thế chấp, cầm cố, hay có sự bảo lãnh của bên thứ
ba.
Nếu dựa vào thời hạn cho vay thì bao gồm:
- Cho vay ngắn hạn;
- Cho vay trung hạn;
- Cho vay dài hạn
Ngoài những căn cứ trên thì còn nhiều cách phân chia nữa của hoạt động
cho vay. Trong đó đối với những ngân hàng phân chia hoạt động cho vay theo tiêu
thức thời gian thì phần cho vay trung và dài hạn thường chiếm tỷ trọng khá cao
trong cơ cấu cho vay
1.1.2 Hoạt động cho vay trung và dài hạn của NHTM
* Khái niệm về cho vay trung và dài hạn của NHTM
Hiện nay giữa các nước khác nhau trên thế giới quan niệm về cho vay
trung và dài hạn không hoàn toàn giống nhau. Tại thị trường tài chính Việt Nam
cho vay trung và dài hạn vẫn được coi là các khoản cho vay có thời hạn trên 1
năm. Trong đó theo qui định cách đây vài năm thì cho vay trung hạn là các khoản
cho vay có thời hạn từ 1 đến 3 năm và cho vay dài hạn là những khoản cho vay có
thời hạn trên 3 năm. Nhưng hai năm trở lại đây NHNN Việt Nam đã qui định thời
hạn của khoản cho vay trung hạn là từ 1 đến 5 năm và dài hạn là trên 5 năm để
nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của các doanh nghiệp vì thông thường tài sản hình
thành từ khoản vay trung dài hạn của doanh nghiệp có thời gian sử dụng tương đối
dài.
* Mục đích đi vay trung dài hạn của các doanh nghiệp:
Các doanh nghiệp đi vay trung và dài hạn chủ yếu nhằm đáp ứng nhu cầu
mua sắm tài sản cố định mới, phương tiện vận tải mới, đổi mới trang thiết bị công
nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư xây dựng các dự án mới về nhà ở, các
xí nghiệp - nhà máy sản xuất, các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng qui mô vừa và
lớn…..ở mọi lĩnh vực của nền kinh tế.
* Lý do lựa chọn phương án vay trung và dài hạn của khách hàng:

Ngoài nguồn vốn chủ sở hữu, đi vay trung và dài hạn từ các định chế tài
chính và phát hành trái phiếu trên thị trường chứng khoán là hai nguồn tài trợ dài
hạn chủ yếu của các khách hàng doanh nghiệp. Chính bởi vậy mà có nhiều lý do
để các khách hàng lựa chọn nguồn vốn vay trung và dài hạn từ các ngân hàng.
Trước hết là do các doanh nghiệp nhỏ bị hạn chế về khả năng tìm nguồn
vốn trên thị trường, họ không thể có đủ các điều kiện để có thể huy động vốn trung
và dài hạn cho mình thông qua thị trường chứng khoán. Vì vậy khi nhu cầu vốn
phát sinh họ phải đi vay ở các ngân hàng thương mại và các định chế tài chính
khác.
Thứ hai đó là, trong nhiều trường hợp khách hàng thấy vay trung dài hạn
tốt hơn phát hành chứng khoán. Bởi so với phát hành trái phiếu, đi vay mượn các
doanh nghiệp có thể có điều kiện vay muợn thích hợp hơn cho nhu cầu của mình:
Sau khi nhận tiền vay họ vẫn có thể thương lượng với người cho vay một số điều
kiện đã được xác định ban đầu. Hơn nữa đi vay họ sẽ không phải tốn thêm những
chi phí về bảo lãnh, đăng ký, phát hành…, không phải cân nhắc là liệu các cổ
phiếu, trái phiếu doanh nghiệp phát hành ra có được nhà đầu tư chấp nhận hay
không (bởi nó còn phụ thuộc vào sự phát triển của thị trường chứng khoán, tâm lý
của nhà đầu tư, và quan trọng là uy tín của doanh nghiệp).
Thứ ba là, trong nhiều trường hợp doanh nghiệp không muốn phát hành
chứng khoán để thu hút vốn vì ngại phải công bố thông tin về mình hoặc đang ở
trong điều kiện thị trường không thuận lợi cho việc phát hành.
Và thứ tư đó là, cho vay trung dài hạn sẽ buộc các doanh nghiệp nhỏ phải
tích luỹ vốn từ lợi nhuận để lại, cho dù doanh nghiệp có quan hệ mật thiết với ngân
hàng. Điều này sẽ có lợi cho doanh nghiệp về sau này.
Với những lý do trên cho thấy đi vay trung dài hạn tại các tổ chức tài chính
thực sự là một kênh không thể thiếu của các khách hàng doanh nghiệp. Nhu cầu
lớn nên loại hình cho vay này cũng có nhiều hình thức khác nhau cho khách hàng
lựa chọn để phù hợp với mình. Như:
Cho vay mua sắm thiết bị trả góp
Cho vay kỳ hạn

Tài trợ theo dự án
Cho vay hợp vốn
Cho thuê tài chính
Forfaiting (một hình thức cấp tín dụng người bán trong các giao dịch mua
bán hàng trả chậm và không truy đòi đối với người bán mà thu tiền thẳng từ người
mua).
1.2 Thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay trung và dài hạn của
NHTM.
1.2.1 Khái niệm về thẩm định tài chính dự án.
Đối với bất kỳ một dự án nào khi được đưa vào xem xét để thực hiện thì
vấn đề được quan tâm hàng đầu là tính khả thi của dự án. Tính khả thi của dự án sẽ
được thể hiện thông qua sự phù hợp về mặt kỹ thuật, mặt kinh tế và tài chính của
dự án đối với nền kinh tế, với sự quản lý của nhà nước, với nhà đầu tư và với chủ
dự án. Trong đó tuỳ theo từng dự án được thiết kế phục vụ cho các mục đích khác
nhau (như dự án vì cộng đồng, dự án đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, dự án
xây dựng nhà máy mới...) mà những tiêu chí về kinh tế, về kĩ thuật hay về tài chính
sẽ được đề cao. Tuy nhiên cho dù đề cao tiêu chí nào đi chăng nữa thì sự xem xét
thẩm định về mặt tài chính của một dự án trước khi đưa vào thực thi là không thể
coi nhẹ. Và cũng bao hàm những vấn đề cơ bản của công tác thẩm định, “Thẩm
định tài chính dự án chính là sự rà soát đánh giá một cách khoa học, toàn diện
mọi khía cạnh tài chính của dự án trên giác độ của nhà đầu tư bao gồm doanh
nghiệp, các tổ chức kinh tế khác và các cá nhân”.
(Nguồn: sách thẩm định tài chính dự án – NXB tài chính – 2004)
Trong hoạt động cho vay của mình các ngân hàng thương mại chính là các
nhà tài trợ vốn. Ngoài những dự án ngân hàng cho vay theo chỉ định của chính phủ
nhằm phục vụ cộng đồng yếu tố lợi nhuận không được đặt nên hàng đầu, còn lại
hầu hết các dự án khác được ngân hàng cho vay đều nhằm mục đích tạo thu nhập
cho ngân hàng. Vì vậy việc thẩm định tài chính dự án là vô cùng quan trọng trong
hoạt động cho vay của ngân hàng.
1.2.2 Sự cần thiết của công tác thẩm định tài chính trong hoạt động cho vay

trung dài hạn của NHTM.
Để cho một lượng vốn lớn được bỏ ra ở hiện tại có thể được thu hồi dần
trong tương lai xa, thì trước khi chi vốn vào các dự án, các nhà đầu tư đều tiến
hành soạn lập chương trình cụ thể, chi tiết theo tính chất của từng dự án. Những
công việc này hết sức phức tạp liên quan đến nhiều vấn đề, đòi hỏi phải có sự phối
hợp hoạt động của nhiều người. Thực tế những giải trình từ phía doanh nghiệp đối
với ngân hàng về dự án cần vay vốn thường rất sơ sài, đôi khi có số liệu không đủ
căn cứ để chứng minh tính sát thực, do đó phải rà soát, điều chỉnh lại.
 Đối với ngân hàng, để ngăn chặn sự đổ bể, sự lãng phí vốn khi muốn tài
trợ hay cho vay vốn vào dự án thì cần phải thẩm định lại tính hiệu quả của dự án,
đặc biệt sự hiệu quả về mặt tài chính. Điều này đảm bảo cho chính bản thân sự tồn
tại của một ngân hàng. Bởi nếu để xảy ra bất kỳ rủi ro nào dẫn đến sự không thu
hồi được vốn của ngân hàng sẽ ảnh hưởng lớn đến thu nhập của ngân hàng, nhất là
khi đó là các dự án lớn.
 Đối với xã hội, mỗi một dự án khi thực hiện không chỉ có ảnh hưởng
đến chủ dự án, ngân hàng (hay các nhà đầu tư khác) mà còn chứa đựng cả những
ảnh hưởng đối với người dân nơi thực hiện dự án, đến nguồn tài nguyên đất nước
sẽ được sử dụng, đến các ngành nghề khác liên quan….Vì vậy ngân hàng cần phải
tiến hành thẩm định lại dự án để xem xét một cách toàn diện khi có chi phí xã hội
dự án, hiệu quả tài chính của dự án còn được đảm bảo không, có phù hợp với mục
tiêu và chiến lược phát triển của vùng, của địa phương hay không.
 Đối với chủ dự án, khi ngân hàng tiến hành thẩm định lại dự án chính là
dịp để khẳng định tính đúng đắn trong quyết định đầu tư của chủ dự án. Đồng thời
giúp chủ dự án tránh được những sai sót có thể không nhận thấy khi tiến hành lập
dự án, làm cho dự án hoàn thiện hơn, tránh lãng phí vốn của chính chủ dự án.
Với sự cần thiết như vậy thì khi thực hiện nội dung thẩm định tài chính dự án sẽ
bao gồm những nội dung cơ bản sau.
1.3 Nội dung công tác thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay
trung và dài hạn của NHTM.
1.3.1 Thẩm định dự toán đầu tư và nguồn tài trợ.

Mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp và nhà đầu tư về ngắn hạn là tối đa
hoá vốn chủ sở hữu, còn về dài hạn chính là tối đa hoá giá trị doanh nghiệp. Để đạt
được mục tiêu này thì vấn đề quan trọng đưa ra đối với doanh nghiệp là không
ngừng đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Và để đầu tư được người ta đưa ra câu hỏi
về vốn đầu tư. Dưới giác độ của dự án thì vốn đầu tư chính là tổng số tiền được chi
tiêu để hình thành nên các tài sản cố định, tài sản lưu động cần thiết và vốn dự
phòng.
Trong đó vốn đầu tư vào tài sản cố định thường chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng vốn đầu tư của dự án, đặc biệt là các dự án sản xuất. Và là phần để mua sắm,
cải tạo, mở rộng tài sản cố định (như: máy móc thiết bị sản xuất, nhà xưởng, đất
đai, phương tiện vận chuyển…). Phần vốn đầu tư còn lại được đầu tư vào tài sản
lưu động ròng. Đó là nguồn vốn để hình thành nên các tài sản lưu động ròng cần
thiết để thực hiện dự án (như: nguyên vật liệu, nhiên liệu, tiền thuê nhân công, chi
phí quản lý…). Lượng vốn lưu động ròng lớn hay nhỏ phụ thuộc vào đặc điểm của
mỗi dự án; Ngoài hai phần vốn chính này là phần vốn dự phòng để kịp thời cung
cấp khi có phát sinh những chi phí ngoài dự kiến hay khi xảy ra rủi ro dự kiến.
Để xác định được lượng vốn cho dự án các nhà lập dự án tiến hành dự toán
vốn. Thông thường các nhà thẩm định và các nhà lập dự án sẽ căn cứ vào năm tiêu
chí cơ bản là: chính sách kinh tế, tình hình thị trường và sự cạnh tranh, chi phí tài
chính, tiến bộ khoa học kỹ thuật, khả năng tài chính của doanh nghiệp. Những tiêu
chí này được sử dụng trong các phương pháp dự toán vốn như dự báo theo tỷ phần
doanh thu, dự toán tổng thể. Nhà thẩm định sẽ xem xét toàn bộ quá trình lập dự
toán vốn này để biết được mức vốn chính xác cần thiết cho dự án.
Và:
Tổng vốn đầu
tư của dự án
=
Vốn cố
định
+

Vốn lưu
động
+
Vốn dự
phòng
Tổng vốn đầu tư được xác định là vậy nhưng sẽ tài trợ bằng nguồn vốn
nào? Đây là câu hỏi không chỉ nhà thẩm định mà chính chủ thực hiện dự án sẽ đặt
ra đầu tiên. Về mặt lý thuyết và cả thực tế thì mỗi dự án có nhiều hình thức tài trợ
vốn khác nhau:
Trước hết dự án có thể được tài trợ bằng vốn tự có: Loại vốn này có được
từ bốn nguồn: từ phát hành cổ phiếu thường, từ thặng dư vốn và từ lợi nhuận giữ
lại, phát hành cổ phiếu ưu đãi.
Cổ phiếu thường có nhiều ưu thế trong việc phát hành ra công chúng và
trong quá trình lưu hành trên thị trường chứng khoán. Như sau khi phát hành
doanh nghiệp có thể tạm thời mua lại, doanh nghiệp có thể dễ dàng phát hành thêm
khi cần thiết….Nên loại này cũng được sử dụng để tài trợ cho dự án, đặc biệt là các
dự án qui mô lớn.
Nguồn thặng dư vốn: Đây chính là phần vốn có được từ chênh lệch giữa
giá thị trường của cổ phiếu thường và mệnh giá của nó tại thời điểm phát hành.
Tuỳ theo sự đánh giá của thị trường về trị giá của cổ phiếu của doanh nghiệp mà
phần vốn này thu được là lớn hay nhỏ so với phần vốn doanh nghiệp dự tính có
được từ phát hành cổ phiếu thường.
Nguồn vốn từ thu nhập giữ lại được tài trợ cho dự án chỉ khi quá trình hoạt
động sản xuất của doanh nghiệp có hiệu quả. Tài trợ bằng thu nhập giữ lại là một
phương thức tạo nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn của các doanh nghiệp
do doanh nghiệp giảm được chi phí, giảm được sự phụ thuộc vào bên ngoài.
Tài trợ cho dự án bằng nợ: phần vốn này doanh nghiệp có thể có từ nguồn
tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại và vay thông qua phát hành trái phiếu.
Trái phiếu thực chất là một loại giấy vay nợ trung và dài hạn. Trên thị trường
thường lưu hành nhiều loại trái phiếu doanh nghiệp khác nhau (trái phiếu có lãi

suất cố định, trái phiếu có lãi suất thay đổi, trái phíếu có thể thu hồi, trái phiếu có
thể chuyển đổi). Việc doanh nghiệp lựa chọn loại trái phiếu nào để tài trợ cho dự
án còn tuỳ thuộc vào những vấn đề liên quan đến chi phí trả lãi, cách thức trả lãi,
khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái phiếu.
Tài trợ cho dự án bằng hình thức Leasing: thực chất đây là hình thức tài trợ
dự án thông qua cho thuê các loại tài sản. Doanh nghiệp có thể thuê ngắn hạn tài
sản hoặc thuê dài hạn tài sản. Đây là hình thức tài trợ rất phổ biến do nó có nhiều
ưu điểm so với các hình thức tài trợ khác đối với cả người cho thuê, người đi thuê
và với nền kinh tế.
Tài trợ bằng hình thức kết hợp: Đó là cách mà nguồn vốn cho dự án hình
thành từ sự kết hợp theo một tỷ lệ nhất định giữa vốn vay, vốn chủ sở hữu; Ứng
với mỗi hình thức tài trợ doanh nghiệp sẽ phải chịu một khoản chi phí vốn nhất
định. Nhất là trong hình thức tài trợ hỗn hợp chi phí vốn của dự án được đặc biệt
quan tâm. Bởi từ đó mà nhà soạn lập xác định nên đi vay bao nhiêu, nên dùng vốn
chủ bao nhiêu sao cho có được cơ cấu vốn tối ưu.
Nếu gọi T là thuế suất thu nhập doanh nghiệp.
K
e
: Chi phí thực của vốn chủ sở hữu
K
d
: Chi phí của vốn vay
W
e
: Tỷ trọng của vốn chủ sở hữu trong tổng vốn
W
d
: Tỷ trọng của vốn vay trong tổng vốn
Ta có công thức xác định chi phí vốn trung bình của dự án:
WACC = W

e
.k
e
+ W
d
.(1 – T).k
d
Nhiệm vụ của nhà thẩm định trong giai đoạn này là xác định xem nguồn vốn của
dự án được tài trợ bằng hình thức nào, cơ cấu như thế nào, có hợp lý so với thực tế
không, chi phí vốn dự tính có phù hợp không…. Chẳng hạn như khách hàng cơ
cấu dự định 50% vốn của dự án là vốn chủ sở hữu, thì cán bộ thẩm định phải xác
định xem khách hàng có đủ khả năng để cung cấp vốn đúng như vậy không - hay
nói cách khác là phải xem xét năng lực tài chính của khách hàng.
1.3.2 Thẩm định kế hoạch doanh thu – chi phí – lợi nhuận hàng năm của dự
án.
Khi thực hiện công tác thẩm định về doanh thu của dự án điểm xuất phát
đầu tiên của nhà thẩm định là tìm hiểu về thị trường sản phẩm của dự án. Cán bộ
thẩm định sẽ phải thu thập thông tin về giá cả sản phẩm đã có hay sản phẩm tương
tự của đối thủ cạnh tranh trên thị trường hiện tại là bao nhiêu? Nhu cầu về sản
phẩm này hiện tại và xu hướng trong tương lai. Rồi đặc tính sản phẩm của dự án
có khả năng chiếm lĩnh thị trường hay không? Công suất dự tính của dự án sẽ là
bao nhiêu …. Từ đó dự tính doanh thu hàng năm của dự án.
Về chi phí của
dự án: Thông thường phần vốn cố định chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn của dự
án. Nên những phần vốn chi cho xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm máy móc thiết
bị sản xuất thường được thẩm định kĩ lưỡng. Cán bộ thẩm định phải xem xét giá cả
nguyên – nhiên vật liệu cho phần xây dựng cũng như giá cả máy móc sản xuất của
dự án bao nhiêu là phù hợp với thị trường của khu vực, chất lượng máy móc ra
sao…nhằm đánh giá chính xác cho phần vốn cần bỏ ra ban đầu. Và khi dự án đi
vào hoạt động thì những chi phí về nguyên nhiên vật liệu, đơn giá tiền công, khấu

hao... hình thành nên giá thành sản phẩm sẽ là bao nhiêu có phù hợp với dây truyền
sản xuất, với thị trường hiện tại không? Phương pháp khấu hao như thế nào cũng
Doanh thu mỗi
năm của dự án
=
Lượng hàng
dự tính tiêu
thụ mỗi năm
X
Giá bán dự tính
của một đơn vị
sản phẩm
đặc biệt được quan tâm bởi nó ảnh hưởng khá lớn đến dòng tiền ròng của dự án.
Cán bộ thẩm định cần xem xét phương pháp khấu hao mà doanh nghiệp sử dụng là
phương pháp nào: khấu hao đường thẳng, khấu hao giảm dần,… có phù hợp với
loại tài sản và với qui định của nhà nước hay không. Những chi tiết này sẽ được
cán bộ thẩm định làm rõ trên cơ sở những nguyên tắc kế toán nhất định để xác định
chi phí hợp lý cho từng năm của dự án.
Từ xác định doanh thu và chi phí hàng năm của dự án nhà thẩm định sẽ
xác định được lợi nhuận hàng năm của dự án, từ đó dự tính được dòng tiền của dự
án. Đây là phần chính yếu để nhà thẩm định biết được tính khả thi của dự án cũng
như khả năng thu hồi nợ từ kết quả hoạt động của dự án.
1.3.3 Thẩm định dòng tiền hàng năm của dự án
Theo quan niệm chung hiện nay của các nhà kinh tế, dòng tiền của một dự
án là các khoản chi và thu được kì vọng xuất hiện tại các mốc thời gian khác nhau
trong suốt thời gian tồn tại của dự án. Trong dòng tiền của dự án có dòng tiền ra,
dòng tiền vào và dòng tiền ròng (chênh lệch giữa dòng tiền vào và dòng tiền ra của
dự án). Trong đó dòng tiền ròng được coi là con số chính để xác định giá trị hay
hiệu quả trực tiếp của dự án. Khi xác định dòng tiền các nhà phân tích và thẩm
định có những nguyên tắc nhất định.

Nguyên tắc xác định dòng tiền:
Loại bỏ chi phí chìm ra khỏi phân tích: Chi phí chìm là những chi phi mà
doanh nghiệp - chủ dự án vẫn phải bỏ ra cho dù dự án có được chấp nhận và thực
hiện hay không (chẳng hạn như chi phí tư vấn về dự án, chi phí thiết kế dự án, …).
Chi phí này là một khoản chi tất yếu do đó không được đưa vào phần chi đầu tư
của dự án.
Chi phí cơ hội sẽ được đưa vào để phân tích chi phí của dự án: Có những
dự án được thiết kế trong đó có sử dụng một số yếu tố đầu vào sẵn có của doanh
nghiệp. Mà đáng lẽ ra nếu không sử dụng vào dự án thì nó sẽ được sử dụng vào
việc khác và đem lại nguồn thu cho doanh nghiệp. Khi sử dụng vào dự án doanh

×