Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Tiểu luận cao học, môn triết học nhung dieu kien tien de ra doi triet hoc mac

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.64 KB, 34 trang )

LỜI NÓI ĐẦU

Triết học Mác – Lênin - một trong ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác, do
Các Mác (1818 – 1883), Phriđích Ăngghen (1820 – 1895) sáng lập và V.I. Lênin
phát triển. Triết học Mác ra đời vào thế kỉ XIX, khi cách mạng tư sản đã hoàn toàn
thắng thế trước chế độ phong kiến và chủ nghĩa tư bản bước vào thời kỳ thịnh
vượng ở một số nước Châu Âu, như Anh, Pháp. Nó làm cho lực lượng sản xuất ngày
càng phát triển, tạo ra một lượng của cải vật chất chưa từng có. Điều này một mặt,
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho con người; mặt khác, nó càng khoét sâu
thêm mâu thuẫn vốn có giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Mâu thuẫn này
biểu hiện về mặt xã hội thành mâu thuẫn giai cấp. Vì vậy, đã xuất hiện nhiều phong
trào đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại sự bóc lột của giai cấp tư sản, nhưng
đều mang tính tự phát. Trong điều kiện kinh tế - xã hội như vậy, đòi hỏi phải có một
lý luận mới ra đời làm “vũ khí tư tưởng” cho phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân và chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng đã ra đời để đáp ứng đòi
hỏi ấy của lịch sử.
Nghiên cứu về những điều kiện, tiền đề trên sẽ giúp chúng ta được hiểu sâu
sắc, thấy được triết học Mác ra đời là tất yếu của lịch sử. Vậy nên, người viết quyết
định chọn đề tài: “Những điều kiện tiền đề ra đời triết học Mác” làm tiểu luận
giữa môn học của mình.

1


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU.................................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG..........................................................................................3
CHƯƠNG I: NHỮNG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ - XÃ HỘI......................3
1.1 Sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa...................3
1.2 Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân......................................5
CHƯƠNG II: NHỮNG TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN...........................................5


2.1 Triết học cổ điển Đức............................................................................5
2.2 Kinh tế chính trị Anh .........................................................................21
2.3 Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp...................................................29
CHƯƠNG III: NHỮNG TIỀN ĐỀ KHOA HỌC TỰ NHIÊN...............33
3.1 Học thuyết tế bào................................................................................33
3.2 Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng...............................34
3.3 Học thuyết tiến hoá.............................................................................35
PHẦN KẾT LUẬN.........................................................................................36
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................37

2


PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG I – NHỮNG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1 Sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
Vào giữa những năm 40 của thế kỉ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa đã thống trị ở nhiều nước châu Âu. Trong khi phong trào cách mạng tư sản
không ngừng tiếp diễn thì kinh tế tư bản chủ nghiữa đã có những bước tiến quan
trọng. Nước Anh vẫn chiếm địa vị hàng đầu trong nền kinh tế thế giới. Từ năm
1830, tốc độ phát triển công nghiệp ngày càng tăng, việc sử dụng máy móc vào sản
xuất ngày càng nhiều. Ngành luyện kim và cơ khí phát triển rất nhanh nhằm đáp
ứng nhu cầu trang bị kĩ thuật toàn bộ nền công nghiệp. Đồng thời, đường sắt tăng
lên nhanh chóng: năm 1830 đường xe lửa đầu tiên nối liền Manchester và Liverpood
được khánh thành và đến năm 1850, nước Anh đã có tới 10.000 km. Điều đó thúc
đẩy sự phát triển của thị trường trong nước và tăng cường mối liên hệ kinh tế giữa
các trung tâm công nghiệp.
Nước Pháp đứng hàng thứ hai trong nền kinh tế thế giới. Cuộc cách mạng
công nghiệp đang trên đà phát triển. Số lượng máy hơi nước được sử dụng tăng lên

nhanh chóng: năm 1820 – 65 cái, 1830 – 616 cái, 1848 – 4852 cái. Sản lượng các
ngành công nghiệp nặng cùng tiến bộ rõ rệt: than năm 1832 là 225 nghìn tấn, đến
1856 lên 373 nghìn tấn. Việc xây dựng đường sắt được đẩy mạnh: từ năm 1831 –
1841 dài 38 – 573 km, đến năm 1845 – 1847 dài 880 – 1852 km. Những tiến bộ đó
làm cho trên toàn lục địa châu Âu, công nghiệp Pháp là nên công nghiệp phát đạt
hơn hết.

3


Trong nhiều nước khác ở châu Âu, tuy chưa tiến hành cách mạng tư sản,
nhưng nhân tố tư bản chủ nghĩa cùng đã nảy nở trong nền kinh tế mỗi nước. Mặc
dầu quan hệ phong kiếm còn chiếm địa vị thống trị, nước Đức cũng đã có một số
chuyển biến nhất định tuy còn chậm chạp so với các nước trên. Quan hệ tư bản chủ
nghĩa phát triển mạnh mẽ nhất ở cùng sông Ranh và Vetxphalen vì ở đó nhân dân
được giải phóng một phần nào khỏi chế độ phong kiến (do ảnh hưởng của cách
mạng tư sản Pháp) và có nhiều nguyên liệu hơn cả Beclin, thủ đô của Phổ. Nó trở
thành một trung tâm công thương nghiệp của nước Đức, tập trung 1/3 sản xuất cơ
khí và vải hoa của cả nước. Tuy nhiên, đến cuối những năm 40, hình thức công
nghiệp phổ biến vẫn là công trường thủ công, các công xưởng lớn còn hiếm hoi. Sự
tiến bộ kĩ thuật thể hiện rõ rệt trong ngành vận tải, tàu thuỷ chạy bằng hơi nước xuất
hiện từ năm 1824 ở sông Ranh và con đường xe lửa đầu tiên được xây dựng năm
1835. Sự tồn tại của chính quyền phong kiến và tình trạng phân cắt đất nước là
nguyên nhân chủ yếu cản trở bước tiến chủ chủ nghĩa tư bản ở Đức.
Như vậy, trong nửa đầu thế kỉ XIX, nhất là trong khoảng 1815 – 1848, cuộc
cách mạng công nghiệp tiếp tục phát triển trong các nước lớn, đẩy nền kinh tế lên
một nức cao. Ở những nước khác, tuy chưa tiến hành cách mạng tư sản, kinh tế tư
bản chủ nghĩa cũng đã bước đầu giành được những thành tựu đáng kể. Tình hình đó
đã tạo nên một nguồn của cải vật chất phong phú và mở ra khả năng sản xuất to lớn.
Đồng thời, nó cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của mâu thuẫn xã hội. Bên cạch

mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản với chế độ phong kiến, đã xuất hiện mâu thuẫn
giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Điều đó tác động quan trọng đến diễn biến
của phong trào cách mạng trong những năm giữa thế kỉ XIX.
1.2. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân
Tình cảnh giai cấp công nhân. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã nâng cao
rõ rệt mức sản xuất trên thế giới. Các trung tâm công thương nghiệp sầm uất mọc
lênvới những bến cảng tấp nập, các thành phố đồ sộ, các đường giao thông thuỷ bộ
4


chẳng chịt và các phương tiện thông tin liên lạc hiện đại. Nhưng cùng với sự phát
triển đó, cảnh tương phản giữa tư sản và công nhân ngày càng bộc lộ rõ rệt. Ở hầu
khắp các nước, công nhân lâm vào tình trạng vô cùng khổ cưc.
Lấy nước Anh là nơi có nền công nghiệp phát triển nhất làm ví dụ. Ngày lao
động kéo dài tới 16 – 18 giờ. Số công nhân lớn tuổi chỉ chiếm cừng 30%, còn lại là
những công nhân chưa đến tuổi trưởng thành. Tiền lương của công nhân, phụ nữ và
trẻ em rẻ mạt hơn lương đàn ông. Trong hai mươi năm từ 1815 – 1835, tiền lương
thực tế giảm sút ba lần. Điều kiện ăn ở vệ sinh rất thấp kém.
Đằng sau bộ mặt lộng lẫy của chủ nghĩa tư bản, toàn bộ sự thực về đời sống
công nhân đã được Ăngghen vạch ra một cách chân thực và sinh động trong tác
phẩm nổi tiếng “Tình cảnh của giai cấp lao động ở Anh”. Sự bóc lột tàn khốc của
chủ nghĩa tư bản làm cho hố ngăn cách giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản ngày
càng sâu sắc và mâu thuẫn xã hội trở nên gay gắt. Cuộc đấu tranh giai cấp giữa tư
sản và vô sản là điều kiện không thể tránh khỏi.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân ra đời và
phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Đời sống của họ
ngày càng khổ cực do sự bóc lột của chủ nghĩa tư bản, nên họ căm thù chế độ đó.
Nhưng trong thời gian đầu, họ thường đi theo giai cấp tư sản để chống lại “kẻ thù
của kẻ thù mình”, tức là chống phong kiến. Sự tham gia tích cực và thái độ kiên
quyết của công nhân trong những cuộc cách mạng tư sản và bằng chứng không thể

chối cãi được. Nhưng do nhược điểm vầ mặt ý thức và trình độ tổ chức của công
nhân, nên giai cấp tư sản thường cướp đoạt mọi thành quả cách mạng.
Sự xuất hiện của máy móc không cải thiện đời sống công nhân, thậm chí nhờ
đó mà bọn chủ tăng cường bóc lột, thải thợ ra khỏi xưởng, nạn thất nghiệp lan tràn.
Tưởng rằng máy móc là nguồn gốc của tình trạng đó, công nhân nhiều nơi tiếnh
hành đấu tranh bằng cách đập phá máy móc. Tất nhiên cuộc đấu tranh đó không
đem lại kết quả gì ngoài sự tăng cường đàn áp của giai cấp thống trị. Qua kinh
5


nghiệm của nhiều lần thất bại và sự sự trưởng thành về ý thức, phong trào đấu tranh
của công nhân ngày càng được nâng cao.
Trong những năm 20 – 30 của thế kỉ XIX, công nhân Anh đấu tranh đòi
giành quyền tuyển cử. Đặc điểm của phong trào này là nó tiến hành đồng thời với
cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản công thường nghiệp đòi tham gia vào chính
quyền mà từ sau năm 1688 tầng lớp quý tộc mới chiếm ưu thế. Giai cấp tư sản khôn
khéo lợi dụng phong trào công nhân để làm áp lực với chính quyền. Năm 1832, dưới
áp lực của quần chúng, Quốc hội Anh đã phải thông qua đạo luật cải cách tuyển cử.
Theo đó, điều kiện tài sản của cử tri được hạ thấp đến mức tầng lớp tư bản hạng lớn
có thể tham gia bầu cử. Còn công nhân, tiểu tư sản và tư sản hạng trung vẫn không
được hưởng quyền lợi gì.
Ở Pháp, cuộc khởi nghĩa Lyông có ảnh hưởng lớn đầu tiên của công nhân
Pháp. Năm 1831, công nhân dệt đứng dật khởi nghĩa nhân việc bọn chủ khước từ
yêu sách đòi tăng lương. Họ nêu khẩu hiệu: “sống có việc làm hay chết trong chiến
đấu”. Sau những trận kịch chiến trên đường phố, họ làm chủ thành phố trong ba
ngày liền. Nhưng do trình độ còn non kém, họ không biết phải tiếp tục làm gì, nên
bị quân đội trở lại đàn áp nhanh chóng. Cuộc khởi nghĩa lần thứ hai xảy ra vào năm
1834 còn nên khẩu hiệu chính trị trên những lá cờ đỏ: “cộng hoà hay là chết”, chứng
tỏ bước trưởng thành của giai cấp công nhân. Cả hai cuộc khởi nghĩa Lyông đều bị
thất bại, nhưng nó đánh dấu sự lớn mạnh của công nhân Pháp, lần đầu tiê bước lên

vũ đài chính trị với tư thế của một giai cấp độc lập, chống trực tiếp kẻ thù của mình
là giai cấp tư sản bằng biện pháp bạo lực. Nhưng nó cũng để lộ ra nhược điểm về
trình độ giác ngộ và tổ chức, thiếu vai trò của lý luận tiên phong và đảng tiên phong
của giai cấp. Cuộc khởi nghĩa Lyông được công nhân ở các trung tâm công nghiệp
khác nổi dậy, tuy lẻ tẻ nhưng kéo dài suốt những năm 30 – 40 của thế kỉ XIX.
Ở Anh, sau cuộc cải cách tuyển cử năm 1832, giai cấp tư sản có phần thoả
mãn, rời bỏ cuộc đấu tranh, còn giai cấp vô sản chưa được hưởng một chút quyền
6


chính trị nào thì vẫn không ngừng đấu tranh cho việc tham gia tuyển cử. Phong trào
Hiến chương phát triển trong những năm 30 – 40 của thế kỉ XIX đánh dấu một bước
phát triển quan trọng của công nhân Anh và có ảnh hưởng tới phong trào công nhân
châu Âu và Bắc Mỹ.
Tổ chức lãnh đạo phong trào Hiến chương là Hội Công nhân Luân Đôn thành
lập năm 1836 do một người thợ thủ công là Lôvét đứng đầu. Tháng 5/1838, Hội
công bố bản Hiến chương 6 điểm đòi: 1. Thực hiện quyền phổ thông đầu phiếu (đối
với nam giới 21 tuổi trở lên), 2. Phân chia khu vực bầu cử bình đẳng, 3.Bỏ phiến
kín, 4. Xoá bỏ mọi hình thức thuế đối với điều kiện ứng cử nghị viện, 5. Trả lương
cho nghị viên, 6. Hàng năm bầu cử quốc hội.
Đó là cương lĩnh cải cách dân chủ của công nhân. Tuy không bao hàm những
yêu cầu kinh tế xã hội nhưng nó được sự ủng hộ của đông đảo quần chúng công
nhân, vì nếu thực hiện được thì nó tạo điều kiện nhất định cho việc cải thiện đời
sống. Nhiều cuộc mít tinh khổng lồ diễn ra ở cách trung tâm công nghiệp để thảo
luận hiến chương.
Cao trào Hiến chương lần thứ nhất diễn ra vào tháng 5/1839. Bản kiến nghị
mang 1.125.000 chữ kí được đệ trình lên nghị viện. Công nhân chủ thường đấu
tranh bằng hoà bình nếu có thể được, bằng vũ lực nếu không còn cách nào khác.
Nghị viện đã bác bỏ kiến nghị, quần chúng công nhân chuyển sang đấu tranh bao
lực. Một cuộc khởi nghĩa bùng nổ ở Bơcminham ngày 15 tháng 6 nhưng bị đàn áp.

Trước tình hình đó, Hiệp hội kêu họi tổng bãi công khổng lồ trong toàn quốc vào
ngày 12/8 được gọi là “Thánh thiêng liêng”. Nhưng cách hữu đã bác bỏ quyết nghị
đó, kêu gọi công nhân chỉ nên mít tinh và biểu tình một cách hoà bình thôi. Sự phân
hoá tư tưởng trong giới lãnh đạo gây ảnh hưởng tai hại cho phong trào và đến mùa
thu, Hiệp hội đã từng bước thừa nhận là kẻ dẫn đầu cuộc đấu tranh, tuyên bố giải
tán.

7


Cao trào Hiến chương lần thứ hai diễn ra năm 1842 là năm nên kinh tế Anh bị
sa sút, đời sống quần chúng khổ cực, có tới hơn một triệu người thất nghiệp. Ngày 2
tháng 5, một bản kiến nghị mới được đệ trình lên nghị viện với 3.315.752 chữ kí.
Kiến nghị đề cập tới những vấn đề xã hội, vạch trần chế độ chính trị ở Anh là “một
bên thì độc đoán, còn bên kia là nô lệ nhục nhã”, nêu lên tình trạng khốn cùng trong
đời sống công nhân. Kiến nghị đòi thủ tiêu ách áp bức bóc lột của giai cấp tư sản dối
với nhân dân Anh và Ailen. Một lần nữa nghị viện bác bỏ kiến nghị. Đáp lại thái độ
đó, phong trào bãi công bắt đầu từ các xưởng dệt ở Manchester lan ra các trung tâm
công nghiệp và dần dần mang tính chất tổng bãi công đòi thực hiện Hiến chương.
Cuộc bãi công thể hiện rõ tinh chất chính trị và nâng phong trào công nhân lên mức
khởi nghĩa vũ trang. Chính phủ tiến hành đàn áp, bất vở đến dập tắt phong trào. Tuy
vậy, cao trào Hiến chương của quần chúng cũng buộc nghị viện phải thông qua đạo
luật rút ngày lao động của công nhân xuống 10 giờ. Đó là sự lùi bước đầu tiên về
nguyên tắc và trên thực tế của giai cấp tư sản trước cuộc tấn công của công nhân.
Năm 1848, do hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế mấy năm trước và ảnh
hưởng của cao trào cách mạng châu Âu, những người thuộc phái Hiến chương lại
tiến hành cuộc đấu tranh lần thứ ba. Mặc dầu chính phủ ngăn cấm, công nhân vẫn
biểu tình ngày 10/4 để đưa lên Quốc hội bản kiến nghị mới gồm hơn 5 triệu chữ kí.
Nhưng công nhân đã bị đàn áp.
Trong điều kiện lịch sử lúc đó, phong trào Hiến chương là “một phong trào

cách mạng vô sản to lớn đầu tiên thực sự có tính chất quần chúng và có hình thức
chính trị”
Ở Đức, cùng với sự phát triển của công nghiệp, giai cấo công nhân Đức ngày
càng lớn mạnh về cả số lượng và ý thức giác ngộ. Năm 1800 có chừng 85 nghìn
công nhân, năm 1830 lên 450 nghìn và năm 1848 là 900 nghìn, trong đó có khoảng
180 nghìn phụ nữa và 100 nghìn trẻ em. Phần lớn công nhân Đức còn làm việc trong
những xưởng nhỏ nửa thủ công hay các công trường thủ công. Điều đó hạn chế mức
8


phát triển về ý thức giai cấp và trình độ chính trị của công nhân. Hơn nữa, chịu sự
kiểm soát khắt khe của nhà nước quý tộc cảnh sát, những nhà cách mạng đều buộc
phảu bỏ ra nước ngoài để hoạt động. Năm 1836, họ thành lập “Đồng minh những
người chính nghĩa” mang nhiều quan điểm không tưởng và nguyên tắc tổ chức còn
chịu ảnh hưởng của lối hoạt động âm mưu của Blăngki
Người hoạt động nổi bất của Đồng minh khi đó là Vinhem Vaitơlinh (1808 –
1871). Ông xuất thân từ một gia đình thợ may và bản thân ông cũng từng làm việc
trong xưởng may. Vaitơlinh chủ trương thiết lập xã hội mới bằng những cuộc bạo
động của quần chúng bị áp bức nói chung, chứ không phải bằng cách giành chính
quyền về tay giai cấp công nhân. Người đóng góp vai trò quan trọng trong những
cuộc bạo động là quần chúng nghèo khổ nhất, thất vọng nhất, kể cả bọn côn đồ, lưu
manh. Ông không hiểu được rằng chỉ có giai cấp vô sản được tổ chức thành chính
đảng và được trang bị bằng những quan điểm khoa học về chủ nghĩa công sản mới
có thể hoàn thành được sứ mạnh giải phóng loài người khỏi ách áp bức.
Đời sống của công nhân Đức vô cùng khổ cực. Ngoài ách bóc lột tư bản chủ
nghĩa, giai cấp công nhân Đức vẫn phải chịu đeo trên vai mình gánh nặng của ách
thống trị phong kiến. Vì vậy công nhân đã nhiều lần đứng dậy đấu tranh, nổi bật
nhất là cuộc khởi nghĩa của thợ dệt Sơlêđiên năm 1844. Mùa hè năm đó, công nhân
nhiều xưởng và công trường thủ công dệt ở vùng Sơlêđiên đấu tranh đòi tăng lương,
phá huỷ nhà cửa của bọn tư sản. Chính quyền địa phương kéo quân lính đến đàn áp

và đập tan cuộc khởi nghĩa. Tuy thất bại, sự kiện Sơlêdiên chứng tỏ rằng giai cấp
công nhân ở Đức cũng như ở Anh và Pháp đã bước đầu tiến hành đấu tranh cho
quyền lợi giai cấp mình. Cuộc khởi nghĩa Sơlêdiên được sự đồng tình của công nhân
các quốc gia Đức, Tiệp và nhiều nơi khác. Nó có tác dụng góp phần vào việc làm
thức tỉnh và đoàn kết giai cấp công nhân Đức.
CHƯƠNG II: NHỮNG TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1 Triết học cổ điển Đức
9


Bằng thiên tài của mình, Mác và Ăngghen đã kế thừa những thành tựu lớn lao
của tư tưởng nhân loại: triết học cổ điển Đức, chủ nghĩa xã hội không tưởng Anh,
Pháp và kinh tế chính trị học cổ điển Anh.
Đối với triết học cổ điển Đức, đó là sự kế thừa các học thuyết, tư tưởng của
Hegel và Feubach.
G. V. P. Hegel là nhà biện chứng lỗi lạc, bậc tiền bối của triết học macxít.
Ông là nhà triết học duy tâm khách quan, đại biểu tiêu biểu của nền Triết học cổ
điển Đức. Ph.Engel coi ông "không chỉ là một thiên tài sáng tạo mà còn là một nhà
bác học có tri thức bách khoa, nên những phát biểu của ông tạo thành thời đại"
Hegel xuất thân trong một gia đình quý tộc Phổ ở Xtutgat. Thời trẻ, ông chủ
yếu quan tâm nghiên cứu các vấn đề lịch sử, pháp quyền và tôn giáo.
Từ 1800-1807 chịu ảnh hưởng của Senlinh, ông bắt đầu say mê các vấn đề
triết học. Ông có các tác phẩm lớn như "hiện tượng học tinh thần" (l807). Tác phẩm
này đánh dấu sự kết thúc quá trình hình thành thế giới quan triết học của Hegel thời
kỳ đầu, đồng thời cũng cho thấy sự bất đồng nhất định giữa Hegel và Senlinh trong
việc lý giải các vấn đề triết học.
Hegel viết tác phẩm lớn thứ hai của mình: "khoa học logic" (l812-1816).
Và tác phẩm lớn thứ 3 của ông "bách khoa toàn thư của các khoa học triết
học" năm 1817. Và nhiều tác phẩm khác về lịch sử tôn giáo, lịch sử triết học, thẩm
mỹ học...

Sau đây là một số quan điểm cơ bản trong hệ thống triết học của Hegel:
Hiện tượng học tinh thần. Hiện tượng học tinh thần" (1807) đánh dấu sự chín
muồi trong thế giới quan triết học của ông: về cơ bản, ông đã thoát khỏi ảnh hưởng
của Senlinh và trên cơ sở kế thừa những tư tưởng hợp lý của Senlinh, ông bắt đầu đề
ra những nguyên lý cơ bản nhằm xây dựng hệ thống triết học độc lập của mình. Mác
gọi Hiện tượng học tinh thần là cội nguồn và bí mật của triết học Hegel.
Tinh thần tuyệt đối (hay còn gọi là ý niệm tuyệt đối, tinh thần thế giới, ý thức
thượng đế..) là điểm xuất phát và nền tảng trong quan niệm về hiện thực.Tiếp thu
10


những quan niệm của Senlinh về cái Tuyệt đối, Hegel coi nền tảng thế giới quan
triết học của mình là tinh thần tuyệt đối được hiểu như đấng tối cao sáng tạo ra giới
tự nhiên và con người. Đối với ông, tư duy (tinh thần tuyệt đối, lý tính tuyệt đối) là
nguồn gốc duy nhất của mọi cái đang tồn tại. Thế giới tự nhiên là tư duy đã tha hoá,
là tư duy tồn tại dưới dạng vật chất. Ông nhấn mạnh rằng, tư duy là tiền đề của mọi
sự vật hiện tượng. Và trong mỗi sự vật có sự đồng nhất giữa tư duy và tồn tại, trong
đó tư duy là bản chất còn tồn tại chỉ là "ngoại tại hoá" của tư duy.
Tư duy không phải là một bản nguyên bất động, mà là một quá trình nhận
thức không ngừng phát triển từ thấp đến cao. Vì vậy, nó không chỉ là khởi nguyên,
mà còn là chính cái nội dung phát triển của tất cả những cái hiện tồn. Theo Hegel,
thế giới vật chất chính là con người vô cơ, con người còn ở giai đoạn chưa hình
thành, còn con người chúng ta bằng xương bằng thịt là con người đã phát triển đầy
đủ, là con người trở về chính bản thân nó với tất cả những đặc tính vốn có của mình.
Giai đoạn phát triển cao nhất của tư duy (tinh thần tuyệt đối) là tư duy con người, là
lịch sử nhân loại.
Như vậy điểm xuất phát của triết học Hegel là “ý niệm tuyệt đối”, là sự đồng
nhất (thống nhất) giữa tư duy và tồn tại một cách duy tâm. Ông quy mọi quá trình
của hiện thực về quá trình tư duy, quy lịch sử hiện thực về lịch sử nhận thức. Ngay
cả hoạt động vật chất thực tiễn của con người cũng bị quy về quá trình tự ý thức, tự

nhận thức. Quan niệm này được trình bày khá rõ trong "Hiện tượng học tinh thần"
và được triển khai trong toàn bộ hệ thống triết học của Hegel. Vì vậy, "Hiện tượng
học tinh thần" được coi là cội nguồn của triết học Hegel.
Tác phẩm này cũng được coi là bí mật của triết học Hegel. Điều bí mật này
được hàm chứa trong một phương pháp triết học mới so với các hệ thống triết học
trước đó: phương pháp biện chứng lần đầu tiên được trình bày trong "Hiện tượng
học tinh thần". Nguyên lý sau đây sẽ cho thấy điều đó
Nguyên lý phát triển. Nguyên lý khẳng định tinh thần tuyệt đối là điểm xuất
phát và nền tảng của hiện thực gắn liền với nguyên lý phát triển. Khác với các nhà
siêu hình, Hegel coi sự phát triển không chỉ là sự tăng, giảm đơn thuần về lượng,
11


hay sự dịch chuyển vị trí của vật về không gian. Ông hiểu sự phát triển là một quá
trình phủ định biện chứng, trong đó liên tiếp diễn ra sự thay thế cái cũ bằng cái mới,
đồng thời kế thừa những yếu tố tích cực của cái cũ mà vẫn có khả năng thúc đẩy
phát triển: "cái nụ hoa biến mất khi hoa nở, và có thể nói rằng nó bị hoa phủ định;
và tương tự như vậy có thể nói khi quả xuất hiện thì sự tồn tại của hoa bị coi là vô
lý, thay thế cho sự hợp lý trước đây của hoa thì giờ đây là quả. Những hình thái trên
đây không chỉ khác nhau mà còn bài trừ không dung hợp nhau. Tuy nhiên bản chất
sống động làm chúng trở thành những yếu tố của một chỉnh thể hữu cơ, trong đó
chúng không những không mâu thuẫn nhau mà cái này cũng tất yếu như cái kia. Và
chỉ có tính tất yếu như nhau đó mới tạo nên cuộc sống của chỉnh thể" (G.V.Ph.
Hegel "Hiện tượng học tinh thần" các tác phẩm. Tiếng nga. Matxcơva. 1959,
t.4.tr.2). Đó là thực chất của sự phát triển theo quan niệm của Hegel. Chính ở tác
phẩm này đã hình thành tư tưởng của Hegel cho rằng không thể hình dung (hiểu
được) kết quả của sự phát triển nếu thiếu lịch sử của nó.
Xuất phát từ quan niệm phát triển như một quá trình vận động liên tục theo
quy luật phủ định của phủ định, Hegel cố gắng luận chứng rằng: cơ sở sâu xa nhất
của mọi sự vật là ý niệm tuyệt đối (tinh thần tuyệt đối) phát triển theo nguyên tắc

tam đoạn thức: chính đề - phản đề - hợp đề, trong đó giữa các yếu tố đều có mối liên
hệ hữu cơ, chuyển hoá lẫn nhau.
Theo Hegel, trên thế gian này, ngoài tinh thần tuyệt đối và các hình thức biểu
hiện cụ thể của nó ra thì không còn gì khác cả.
Ý thức con người là sản phẩm của lịch sử: Trong "Hiện tượng học tinh thần"
Hegel đã tiếp cận được quan niệm coi nhân cách, ý thức con người là sản phẩm của
lịch sử (cố nhiên lịch sử theo quan điểm duy tâm của ông). Sự phát triển của lịch sử
luôn mang tính kế thừa, mỗi thời đại lịch sử là kết quả của cả một tiến trình phát
triển trước đó. Vì vậy, quá trình phát triển ý thức của mỗi người là sự khái quát lại,
sự "đi tắt" (lặp lại và thu gọn) toàn bộ những gì mà lịch sử ý thức nhân loại đã trải
qua. Hoạt động của con người càng phát triển bao nhiêu thì ý thức càng mang bản
chất xã hội bấy nhiêu. Ở đây, Hegel đã tiến dần đến quan niệm về bản chất xã hội
12


của ý thức, vai trò của lao động trong việc hình thành ý thức. Ông nhận thấy rằng sự
phát triển của ý thức diễn ra thông qua ý thức của nô lệ chứ không phải qua ý thức
ông chủ.
Mác nhìn thấy tầm vóc của "Hiện tượng học tinh thần" của Hegel ở chỗ nhà
triết học đã "tóm được bản chất của lao động", hiểu con người "như là sản phẩm của
lao động của chính mình".
Khoa học logic. Logic học là bộ phận quan trọng nhất của hệ thống Hegel bởi
đối tượng của nó là ý niệm tuyệt đối ở giai đoạn sơ khai nhất, nhưng là điểm xuất
phát và nền tảng của toàn bộ hệ thống. Thế giới quan duy tâm là cơ sở để Hegel giải
quyết các vấn đề trong logic học của ông.
Logíc là khoa học về tư duy, về những phạm trù và quy luật của tư duy. Từ
quan điểm xuất phát về sự đồng nhất giữa tư duy và tồn tại, Hegel coi logic học là
bộ phân quan trọng nhất trong hệ thống triết học của ông bởi ông cho rằng quy luật
của tư duy mà logic học nghiên cứu cũng chính là quy luật đích thực của tồn tại: của
giới tự nhiên, của lịch sử nhân loại và của cả nhận thức.

Tư duy với tư cách là đối tượng của khoa học logic được Hegel hiểu là tư
tưởng thuần túy, là tinh thần tuyệt đối hay dưới khía cạnh tôn giáo đó là Chúa.
Hegel không hiểu tư duy theo nghĩa hẹp, bó gọn trong phạm vi ý thức cá nhân như
một khả năng nhận thức chủ quan của con người mà theo nghĩa rộng. Đó là tinh
thần tuyệt đối sáng tạo ra cả giới tự nhiên và con người. Tư duy con người là giai
đoạn phát triển cao nhất, trong đó tinh thần tuyệt đối có khả năng ý thức được bản
thân nó.
Mặc dù có sự khác nhau nhất định giữa "Hiện tượng học tinh thần" (1807) và
"Khoa học logic" (1812-1816) trong việc xây dựng hệ thống, nhưng chủ yếu logic
học của Hegel được xây dựng trên những nguyên lý cơ bản đã được khởi thảo trong
hiện tượng học tinh thần.
Gắn liền với mâu thuẫn là quan niệm của ông về phủ định. Hegel phân biệt
phủ định trừu tượng (phủ định sạch trơn) với phủ định cụ thể. Phủ định cụ thể không
chỉ đơn giản xoá bỏ cái cũ mà còn giữ lại những yếu tố mầm mống, tạo khả năng
13


sống cho sự vật, tức là phủ định có kế thừa và chọn lọc. Hegel gọi sự phủ định như
thế là sự vượt bỏ và cho rằng, sự phát triển tất yếu đưa tới phủ định bởi phủ định
không phải là sự gán ghép từ bên ngoài mà là kết quả của quá trình phát triển tất yếu
của sự vật. Chính sự phủ định đó là một nấc thang trong quá trình phát triển nên bản
thân nó cũng phải chịu sự phủ định trong tiến trình tiếp theo của sự vật. Đó chính là
phủ định của phủ định mà kết quả dường như quay về cái cũ nhưng trên cơ sở mới
cao hơn. Bản thân sự giải quyết mâu thuẫn cũng chính là sự phủ định của cái mới
đối với cái cũ, là sự phá vỡ độ dẫn đến sự hình thành chất mới.
Với những nghiên cứu về các quy luật chung nhất của sự biến đổi và phát
triển của mọi sự vật, Hegel đã giáng một đòn nặng nề vào quan niệm siêu hình về
tính bất biến của mọi sự vật. Ông khẳng định quá trình phát triển là sự biến đổi
không chỉ về bề ngoài, mà cả bên trong, không chỉ về hiện tượng mà cả về bản chất
với tất cả những tính quy luật vốn có của nó (nguyên nhân, kết quả, tất yếu, ngẫu

nhiên..). Ông giải thích quá trình đó một cách duy tâm, coi quá trình phát triển của
mọi sự vật là sự phát triển của tư duy, của ý niệm tuyệt đối, của khái niệm.
Học thuyết về khái niệm là nội dung thứ ba, kết thúc logic học của Hegel. Ở
đây, Hegel hiểu khái niệm là hình thức thể hiện tinh thần tuyệt đối. Với tư cách là sự
thống nhất giữa cái chung, cái riêng và cái đặc thù, khái niệm được triển khai trong
các dạng phán đoán và suy lý khác nhau. Trong khi chúng ta coi khái niệm là hình
thức thể hiện tư duy lý luận, được coi như sự phản ánh, nhận thức thế giới khách
quan, thì Hegel coi sự triển khai khái niệm trong các dạng phán đoán và suy lý như
sự bộc lộ sức mạnh sáng tạo vốn có của khái niệm với tư cách là cơ sở bên trong của
tất thảy mọi vật trong tự nhiên cũng như trong xã hội.
Hegel chia khái niệm thành: khái niệm chủ quan; khái niệm khách quan và
khái niệm tuyệt đối (ý niệm)
Trong phần khái niệm tuyệt đối, Hegel cũng đã đặt vấn đề về mối quan hệ
thống nhất và tác động lẫn nhau giữa nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn. Theo
ông, logic cũng xét đến vấn đề đời sống vì những hình thức của logic đều có nội
14


dung. Lênin nhận xét, Mác đã gắn bó trực tiếp với nhà triết học duy tâm Đức khi
ông đưa tiêu chuẩn thực tiễn vào lý luận nhận thức.
Lênin đánh giá cao phần kết này của logic học Hegel (bút ký triết học) bởi ở
đây, Hegel đặt ra một loạt các vấn đề như: vai trò của thực tiễn đối với nhận thức,
tuy quan niệm macxit về thực tiễn đối lập với quan niệm của Hegel, bởi vì ở nhà
duy tâm, thì thực tiễn, các hoạt động chính trị, tôn giáo... kể cả các hoạt động sản
xuất vật chất cho xã hội rốt cuộc cũng chỉ là các dạng hoạt động tinh thần, là hoạt
động của ý niệm tuyệt đối, là quá trình vận động và tự nhận thức chính bản thân
mình của ý niệm tuyệt đối.
Tóm lại, logic học của Hegel là logic biện chứng trong đó nhà triết học Đức
dưới hình thức duy tâm trình bày các quy luật và các cặp phạm trù cơ bản của phép
biện chứng một cách đầy đủ, minh bạch và rõ ràng nhất. Cố nhiên, những luận điểm

về phép biện chứng được Hegel trình bày trong cả ba phần nhưng trong logic thể
hiện rõ nhất, quan trọng nhất. Phép biện chứng của Hegel là một thành tựu vĩ đại
của triết học cổ điển Đức. Hegel là người có công trong việc phê phán tư duy siêu
hình và ông là người đầu tiên trình bày toàn bộ giới tự nhiên lịch sử và tư duy dưới
dạng một quá trình, nghĩa là trong sự vận động, biến đổi và phát triển không ngừng.
Đó cũng chính là "ý nghĩa thật sự và tính chất cách mạng của triết học Hegel". "Đối
với triết học biện chứng của Hegel, không có gì là tối hậu, là tuyệt đối, là thiêng
liêng cả. Nó chỉ ra tính chất quá độ của một sự vật. Đối với nó, không có gì tồn tại
ngoài quá trình không ngừng của sự hình thành và của sự tiêu vong, của sự tiến triển
vô cùng tận từ thấp đến cao".
Trong logic học của mình, Hegel không chỉ trình bày các phạm trù như chất,
lượng, độ, phủ định, mâu thuẫn... mà còn nói đến cả các quy luật như "quy luật
lượng đổi dẫn đến chất đổi và ngược lại", "phủ định của phủ định", và phần nào về
quy luật mâu thuẫn. Nhưng tất cả chỉ là những quy luật vận động, phát triển của tư
duy, của khái niệm. Đó là phép biện chứng duy tâm - tức là phép biện chứng về sự
phát triển của các khái niệm được ông đồng nhất với bản chất sự vật. Vì vậy, Lênin
nói, muốn thấy được giá trị đích thực của phép biện chứng của Hegel, phải nghiên
15


cứu triết học của ông trên tinh thần duy vật - nghĩa là phải luôn luôn lật ngược lại
vấn đề: biện chứng của tự nhiên sản sinh ra biện chứng tư duy.
Triết học tự nhiên của Hegel. Triết học tự nhiên, theo Hegel, là sự nghiên cứu
lý luận về giới tự nhiên được hiểu như sự tồn tại của tinh thần dưới dạng các sự vật
vật chất. Vì vậy, quá trình hình thành giới tự nhiên đồng thời cũng là quá trình tinh
thần ngày càng biểu hiện ra thành giới tự nhiên.
Giới tự nhiên, theo cách hiểu của Hegel, là một chỉnh thể thống nhất trong đó
mọi sự vật đều có mối liên hệ hữu cơ với nhau, đều không ngừng vận động và phát
triển. Sự phát triển của giới tự nhiên diễn ra dưới nhiều cấp độ khác nhau về chất
như cơ học, vật lý, hoá học, địa chất, sự sống... với bản chất và đặc tính vận động

tương ứng. Phê phán quan niệm cơ học về thế giới thống trị trong khoa học tự nhiên
thời đó, Hegel khẳng định đặc thù riêng của từng giai đoạn phát triển của tự nhiên.
Vì vậy, để nhận thức đúng về giới tự nhiên cần phải xem xét sự vật phù hợp với tính
chất của từng giai đoạn phát triển của nó.
Triết học pháp quyền và triết học lịch sử. Các quan niệm chính trị - xã hội và
lịch sử của Hegel được trình bày trong "Hiện tượng học tinh thần", trong "Bách
khoa toàn thư các khoa học triết học" và đặc biệt trong triết học lịch sử và triết học
pháp quyền.
Hegel khẳng định con người là chủ thể, đồng thời là kết quả quá trình lao
động của mình. Ông đã tiếp cận được tư tưởng đề cao vai trò tích cực của hoạt động
thực tiễn và nền tảng kinh tế đối với sự phát triển của đời sống xã hội cũng như tiến
trình lịch sử. Ông đã thấy được vai trò của phân công lao động xã hội cũng như tính
xã hội của lao động. Tuy nhiên, thứ nhất, dưới góc độ duy tâm, bản thân hoạt động
thực tiễn của con người thực chất vẫn bị Hegel coi là dạng hoạt động tinh thần. Thứ
hai, do chưa thoát khỏi lập trường giai cấp của mình, ông chưa đánh giá đúng mức
vai trò sản xuất vật chất của quần chúng đối với sự phát triển xã hội, mặc dù khẳng
định hoạt động thực tiễn cao hơn lý luận.
Khẳng định "lịch sử toàn thế giới là sự tiến bộ trong ý thức tự do" Hegel coi
sự phát triển về tự do là chuẩn mực cơ bản đánh giá sự ưu việt của thời đại này so
16


với thời đại khác. Trên cơ sở đó ông chia lịch sử thế giới thành 4 thời kỳ: tiền sử,
Phương đông cổ đại, Hy lạp - La mã cổ đại và nước Đức cơ đốc giáo trung và cận
đại. Chỗ hợp lý của quan điểm này là nó coi trình độ phát triển của tư duy nhân loại,
cũng như sự giải phóng của con người là tiêu chí đánh giá lịch sử song hạn chế của
nó là ở chỗ tiêu chí đó không thể coi là cơ sở duy nhất để phân kỳ và đánh giá sự
tiến bộ lịch sử. Hơn thế nữa Hegel hiểu tự do dưới góc độ duy tâm, coi đó là sự
nhận thức và thực hiện những quy luật tất yếu của tự nhiên với tư cách là hiện thân
của ý niệm tuyệt đối, hay dưới góc độ tôn giáo, "tự do con người thể hiện trong sự

hiểu biết và làm theo ý Chúa".
Nhìn chung triết học pháp quyền và triết học lịch sử của Hegel, bên cạnh
những hạn chế bởi lập trường duy tâm và tính giai cấp hẹp hòi, chứa đựng nhiều tư
tưởng sâu sắc về sự phát triển xã hội cũng như tiến trình lịch sử, làm nền tảng cho
quan niệm duy vật về lịch sử sau này của Mác coi sự phát triển xã hội như một quá
trình lịch sử tự nhiên. Cũng vì vậy, Ăngghen đánh giá công lao của Hegel ở chỗ đã
vạch ra rằng: Sự phát triển của lịch sử là hợp quy luật, sự phát triển của lịch sử
không phải tuần hoàn và luôn luôn đi lên (tuy quan điểm này của Hegel chưa thật
triệt để),mỗi thời đại lịch sử đều có những đặc điểm riêng, quá trình phát triển của
lịch sử có sự liên hệ, kế thừa, giữa các giai đoạn trước và sau không tách rời.
Cũng như triết học Kant, triết học Hegel có ảnh hưởng lớn tới tiến trình lịch
sử tư tưởng nhân loại.Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã kế tục được
phương pháp biện chứng- di sản quý báu nhất của triết học Hegel.
L. Phơ-bách (1804-1872) sinh ra trong một gia đình luật sư khá nổi tiếng.
Ông học ở Đại học Berlin, tham gia phái Heghen trẻ. Trong suốt quãng đời của
mình ông xuất bản nhiều tác phẩm nổi tiếng: “Bàn về sự chết và sự bất tử”, “Phê
phán Triết học Hêghen (1839), Bản chất đạo thiên chúa (1841), Đề cương mở đầu
cho cải cách Triết Học (1843),....Ông là nhà duy vật lớn nhất trước Mác.
Sau đây là một số quan điểm cơ bản trong hệ thống triết học của Phơ -bách:

17


Đầu tiên, ông phê phán tôn giáo. Theo ông, “nhân loại có 2 sợi dây thắt cổ,
một trong số đó là tôn giáo”. Ông phản đối luận điển cho rằng Thượng đế sinh ra
con người, ngược lại, ông cho rằng chính con người sinh ra Thượng đế. Tôn giáo ra
đời không phải ngẫu nhiên mà có nguyên nhân khách quan của đời sống con người:
do con người ngu dốt mà nảy sinh, do con người sợ sệt, do con người khổ ải mà đến
với tôn giáo. nhưng con người hoàn chỉnh”.
Sau đó, ông phê phán chủ nghĩa duy tâm. Với chủ nghĩa duy tâm khách quan,

ông chủ yếu phê phán tư tưởng của Hegel. Ông chứng minh sự giống nhau giữa tôn
giáo và chủ nghĩa duy tâm đều tách rời tư duy với tồn tại, cho tinh thần có trước vật
chất. Phơ - bách cho rằng 2 thứ này liên minh với nhau. Tôn giáo luôn bào chưa cho
chủ nghiữa duy tâm và ngược lại, chủ nghĩa duy tâm là cơ sở cho tôn giáo. Ông phê
phán “tinh thần tuyệt đối” của Hegel: chẳng có gì thần bí cả, là tinh thần của con
người nhưng bị Hegel trừu tượng hoá đi và tách khỏi con người. Ông tiếp tục phản
đối quan điểm của Hegel cho triết học của mình là đạt đến chân lý tuyệt đối: “chỉ có
thể coi triết học là tuyệt đối khi coi thời gian là đứng im”, “làm thế nào mà toàn bộ
loài người lại thực hiện trong 1 cá nhân, nghệ thuật trong 1 nghệ sỹ, và triết học
trong 1 triết gia”. Với chủ nghĩa duy tâm chủ quan, ông phê phán “cái tôi” thuần tuý
của Phích-tơ và vô lý vì Phích-tơ cho “cái tôi” sinh ra mọi cái không phải tôi. Theo
suy luận của Phích-tơ, thì nếu tất cả xung quanh ta đều là cảm giác thì con người
chẳng bao giờ đói khát, nhưng thực tế con người cần ăn, uống, nếu như không có
người đem lại cho nó những thức đó thì nó sẽ chết. Bách kết luận: giới tự nhiên có
thật, tồn tại độc lập với con người, cảm giác con người chỉ là phản ánh thế giới đó
thôi.
Quan điểm về tự nhiên. Phơ-bách cho rằng triết học phải liên hệ chặt chẽ với
tự nhiên. Mối quan hệ giữa triết học và thần học chỉ là gò ép. Vật chất, giới tự nhiên
tồn tại vĩnh viễn trong thời gian và vô tận trong không gian. Không gian và thời gian
là hình thức tồn tại của vật chất. Vật chất có những thuộc tính không tách rời: quán
tính, sức nặng, hình dạng, tính không thểm thấm, không động,...Ông giải quyết mối
18


quan hệ giữa tồn tại và ý thức trên quan điểm duy vật: thế giới vật chất,giới tự nhiên
là tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý thức hay bất cử thứ triết học nào; triết
học là cơ sở, con người là một bộ phận với giới tự nhiên; tự nhiên tồn tại tự nó,
không do ai sáng tạo ra; trong mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại thì tồn tại là
nguyên nhân của ý thức, ý thức là phản ánh tồn tại. Giới tự nhiên có sự tồn tại từ vô
cơ sang hữu cơ, từ vật chất đến ý thức. Phơ - bách khẳng định ý thức là sản phẩm

của bộ óc con người: “người ta chỉ có thể nghĩ bằng đầu óc tồn tại 1 cách cảm tính
của mình, lý trí có ở trong đầu óc, trong bộ não, trong vị trí tập trung của các giác
quan, 1 cơ sở cảm tính vững chắc”.
Về lý luận nhận thức, Ông cho rằng nhận thức con người có 2 trình độ là cảm
tính và lý tinh. Ông đề cao kinh nghiệm, coi tư duy lấy nguyên lý phạm trù trong
kinh nghiệm.
Quan điểm về đạo đức, Ông dựa trên chủ nghĩa nhân bản. Khát vọng hạnh
phúc là cơ sở mọi hành vi của con người. Con người cố gắng đạt tới cái tốt tránh cái
xấu, đối với họ vì đạt được điều tốt thì tình cảm của họ được vui sướng, hoan hỉ, còn
cái xấu đem lại cái xấu xa,...Cảm giác là biểu hiện đầu tiên của cảm giác: “tiếng nói
của cảm giác đó là mệnh lệnh tuyệt đối đầu tiên, ở đâu mà không có cảm giác thì ở
đó không có sự khác nhau vui sướng và bất hạnh, hạnh phúc và đau khổ”
2.2 Kinh tế chính trị cổ điển Anh
Đối với những tư tưởng về kinh tế chính trị Anh, C.Mác và Ăngghen kế thừa
quan điểm của Adam Smith và Ricardo.
Học thuyết kinh tế của Adam Smith (1723-1790). A.Smith là con một viên
chức ngành thuế. Sau khi tốt nghiệp đại học, 13 năm ông giảng dạy văn học, logic
triết học và đạo đức, năm 1763 ông ngừng giảng dạt đi du lịch các nước châu Âu. Ở
Pháp ông gặp nhiều nhà trọng nông (đề cao vai trò của ngành nông nghiệp). Sau đó,

19


ông về nước và viết các tác phẩm nổi tiếng của đời ông là “Nghiên cứu về bản chất
và nguồn gốc của cải của các dân tộc” (1776).
Tư tưởng tự do kinh tế của A.Smith. Điểm xuất phát trong phân tích kinh tế
của ông là nhân tố “con người kinh tế”. Theo ông, loài người là một liên minh trao
đổi. Thiên hướng trao đổi là đặc tính vốn có của con người. Nó tồn tại vĩnh viễn,
cũng như loài người tồn tại vĩnh viễn. Trong khi trao đổi sản phẩm và lao động cho
nhau, phục vụ lẫn nhau thì con người bị chi phối bởi lợi ích cá nhân. Mỗi người chỉ

biết tư lợi, vì tư lợi và làm theo tư lợi. Song, khi chạy theo tư lợi, thì có một “bàn tay
vô hình” buộc “người kinh tế” đồng thời thực hiện một nhiệm vụ không nằm trong
dự kiến, là đáp ứng lợi ích xã hội và đôi khi, họ còn đáp ứng lợi ích xã hội tốt hơn,
ngay cả khi họ không có ý định làm điều đó. “Bàn tay vô hình” đó chính là các quy
luật kinh tế khách quan tự phát hoạt động, chi phối hành động của con người. Ông
gọi là hệ thống các quy luật kinh tế khách quan đó là “trật tự tự nhiên”. Ông chỉ ra
các điều kiện cần thiết để cho các quy luật kinh tế khách quan hoạt động là: phải có
sự tồn tại và phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá, nền kinh tế phải phát triển
trên cơ sở tự do kinh tế, tự do mậu dịch. Ông cho rằng nhà nước không nên can
thiệp vào kinh tế.
Lý thuyết giá trị-lao động. So với W.Petty trong phái trọng nông, lý thuyết giá
trị - lao động A.Smith có bước tiến đáng kể. Trước hết, ông chỉ ra rằng, tất cả các
loại lao động sản xuất đều tạo ra giá trị; lao động là thước đo cuối cùng của giá trị.
Ông phân biệt rõ sự khác nhau giữa giá trị sự dủng và giá trị trao đổivà khẳng định,
giá trị sử dụng không quyết định giá trị trao đổi. Khi phân tích giá trị hàng hoá, ông
còn cho rằng, giá trị được biểu hiện ở giá trị trao đổi của hàng hoá trong quan hệ số
lượng với hàng hoá khác, còn trong nền sản xuất hàng hoá phát triển, nó được biểu
hiện ở tiền. Ông chỉ ra lượng giá trị hàng hoá đó là hao phí lao động trung bình cần
thiết quyết định. Trong cùng một thời gian, lao động phức tạp sẽ tạo ra một lượng
giá trị nhiều hơn lao động giản đơn. Từ đây, ông nêu lên hai định nghĩa: Thứ nhất,
giá trị là lao động hao phí để sản xuất hàng hóa quyết định. Lao động là thứơc đo
20


thực tến của giá trị. Với định nghiữa này, ông là người đứng vững trên cơ sở lý
thuyết giá trị lao động. Thứ hai, ông cho rằng, giá trị là do lao động mà người ta có
thể mua được. Bằng hàng hoá quyết định. Từ định nghĩa này, ông suy ra giá trị do
lao động tạo ra chỉ dúng trong nền kinh tế hàng hoá giản đơn. Còn trong nên kinh tế
tư bản chủ nghĩa, giá trị do các nguồn thu nhập tạo thành, nó bằng tiền lương cộng
với lợi nhậu và địa tô. Ông viết: “tiền lương, lợi nhuận, địa tô là 3 nguồn fốc đầu

tiên của mọi thu nhập cũng như là của bất kỳ giá trị trao đổi nảo”.
Lý thuyết về phân công lao động. A.Smith bằt đầu tác phẩm nổi tiếng của
mình bằng việc phân tích phân công lao động. Theo ông, sự giàu có của xã hội phụ
thuộc vào hai yếu tố chủ yếu. Một là, tỷ lệ lao động làm việc trong nền sản xuất vật
chất. Hai là, trình độ phát triển của phân công lao động. Ông cho rằng, phân công
lao động có tác dụng to lớn rong việc chuyên môn hoá sản xuất, tiết kiện thời gian di
chuyển từ việc này sang viuệc khác, dễ dàng áp dụng máy móc. Tuy nhiên, ông
chưa phân biệt phân công lao động xã hội và phân công lao động. Song khi phân
công lao động phát triển, nó lại đẩy mạnh mẽ hoạt động trao đổi.
Lý thuyết tiền tệ. Trong quá trình trao đổi, tiền tệ đóng vai trọ quan trọng. Do
kết quả tự phát triển lâu dài của sản xuất và lưu thông hào hoá, nên tiền tệ đã tách ra
khỏi thế giới hàng hoá. Nó trở thành công cụ thuận tiện cho lưu thông và trao đổi
hàng hoá. Ông gọi nó là “Phương tiện kỹ thuật”, và “bánh xe vĩ đại” của lưu thông.
Ông tiếp tục ủng hộ quan điểm của W.Petty về quy luật lưu thông tiền tệ. Ông chỉ ra
việc thay thế tiền vàng và tiền bạc bằng tiền giấy và phát hành tiền giất cần phải do
ngân hàng đảm nhiệm. Ông đánh giá cao vai trò của tín dụng và cho rằng đó là
phương tiện làm cho tư bản năng động hơn.
Lý thuyết về thu nhập. A.Smith cho rằng, trong giá trị hàng hoá do người
công nhân tạo ra, anh ta chỉ nhận được một phần tiền lương, phần còn lại là địa tô và
lợi nhuận của tư bản. Lý thuyết tiền lương, lợi nhuận và địa tô của ông được xây
dựng trên cơ sở lý thuyết giá trị - lao động. Theo ông, địa tô là khoản khấu trừ thứ
21


nhất vào sản phẩm lao động. Về mặt lương, nó là số dôi ra ngoài tiền lương công
nhân và lợi nhuận của tư bản. Về mặt chất, nó là phản ánh quan hệ bóc lột. Tuy
nhiên, ông còn cho rằng, sở dĩ nông nghiêp có địa tô, vì lao động nông nghiệp có
năng suất lao động cao hơn công nghiệp và ông phủ nhận địa tô tuyệt đối. Vì theo
ông, nếu thừa nhận địa tô tuyệt đối thì vi phạm quy luật giá trị.
Nếu như địa tô là khoản khấu trừ thứ nhất, thì lợi nhuận (P) là khoản khấu trù

thứ hai và sản phẩm của người lao động, chúng đều có nguồn gốc là lao động không
được trả công của công nhân. Ông chỉ ra lợi tức là một bộ phận của lợi nhuận mà
nhà tư bản hoạt đọng đi vay phải trả cho chủ nó để được sở hữu tư bản. Ông đã nhìn
thấy xu hướng bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận và xu hướng tỷ suất lợi nhuận giảm
sút do khối lượng tư bản ban đầu tăng lên.
Theo ông, khi sở hữu tư bản chủ nghĩa xuất hiện, người công nhân trở thành
lao động làm thuê, thì tiền lương của họ không phải là toàn bộ giá trị sản phẩm lao
động của họ sản xuất ra nữa, mà chỉ là một bộ phận giá trị đó. Cơ sở tiền lương là
giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết để nuôi sống công nhân và con cái anh ta để tiếp tục
đưa ra thay thế trên thị trường lao động. A.Smith là người ủng hộ trả tiền lương cao.
Theo ông, tiền lương cao sẽ tạo khả năng tăng trưởng kinh tế và mức lương cao hơn
tương đối là nhân tố kích thích công nhân tăng năng suất lao động. Điều đó tạo ra
điều kiện răng tích luỹ tư bản và tăng nhu cầu về lao động. Tuy nhiên, trong lý
thuyết về tiền lương, A.Smith cũng như các nhà kinh tế học tư bản trước và sau đều
cho rằng tiền lương là giá cả của lao động.
Lý thuyết về tư bản. A.Smith coi tư bản là điều kiện vật chất cần thiết cho sản
xuất của mọi xã hội. Nó tồn tại vĩnh viễn, ông cho rằng, mọi ngành sản xuất đều có
tư bản cố định và tư bản lưu động. Song, do không phân biệt tư bản sản xuất cà tư
bản lưu thông, nên ông nhầm lẫn trong việc xác định các yếu tố của tư bản cố định
và tư bản lưu động. Đăc biệt, khi phân tích tư bản lưu động, ông đã bỏ qua bộ phận
tiền lương công nhân.
22


Điều quý giá trong lý thuyết tư bản của A.Smith là quan điểm tiết kiệm. Ông
cho rằng, muốn có tư bản phải tiết kiệm. Nhà tư bản phải dành một phần thu nhập
của mình để mở rộng sản xuất, tạo thêm công việc làm cho công nhân. Điều này xét
đến cùng sẽ tạo khả năng tăng của cải quốc dân. Ông ca ngợi tiết kiệm và lên án sự
lãng phí. Ông nói: “Mỗi kẻ hoang phí là kẻ thù của sự giàu có của xã hội, còn mỗi
người tiết kiệm là người làm giàu cho xã hội”.

Lý thuyết tái sản xuất. Ông cho rằng, giá trụ của từng hàng hoá cũng như của
tổng sản phẩm bao gồm tiền lương, lợi nhuận và địa tô. Điều này có nghĩa là, ông bỏ
qua yếu tố tư bản bất biến trong giá trị hàng hoá. Ông giải thích như sau: nếu trong
giá cả hàng hoá có nhân tố nào đó chưa được phân giải thành thu nhập một cách trực
tiếp, thì suy đến cùng, nó cũng là thu nhập nào đó của các giai đoạn trước hợp
thành, vì vậy, giá trị tổng sản phẩm, theo ông, là toàn bộ thu nhập gồm tiền lương,
lợi nhuận, địa tô.
Việc A.Smith bỏ qua yếu tố tư bản bất biến (c) trong khi phân tích tái sản xuất tư
bản xã hội được C.Mác gọi đó là: “tín điều khổng lồ” của A.Smith. “Tín điều” này
được các nhà kinh tế học tư bản kế tục ông tiếp tục phát triển.
Học thuyết kinh tế của Đavit Ricácđô (1772-1823)
Đ.Ricacđô sinh ra trong một gia đình thương gia đông con, Năm 12 tuổi ông
vào học ở trường trung học thương nghiệp hai năm, làm việc trong lĩnh vực buôn
bán chứng khoán. Nhờ có tài trong công việc này, ông trở nên giàu có nhanh chóng.
Ông nghiên cứu nhiều lĩnh vực như toán học, lý học, hoá học, là một trong
những người sáng lập ra ngành địa chất. Tuy nhiên, sở trường của ông là kinh tế
chính trị học. Ông cho xuất bản nhiều tác phẩm, nổi tiếng nhất là “Những nguyên lý
cơ bản của chính sách kinh tế và thuế khoá” hay “Những quyên lý của kinh tế chính
trị học” (1871). Theo C.Mác: “A.Smith là nhà kinh tế của thời kỳ công trường thủ
công còn Đ.Ricacđô là nhà tư tưởng của thời đại cách mạng công nghiệp.
23


Lý thuyết giá trị - lao động. Trong lý thuyết này, Ricacđô dứa vào lý thuyết
của Smit, kế thừa và phát triển tư tưởng của A.Smith. Ông phân biệt rõ hai thuộc
tính của hàng hoá là giá trị sử dụng và giá trị trao đổi, chỉ rõ giá trị sử dụng là điều
kiện cần thiết cho giá trị trao đổi, nhưng không phải là thước đo của nó. Trừ một số
ít hàng hoá khan hiếm thì giá trị sử dụng quyết định giá trị trao đổi, còn đại đa số
hàng hoá khác, giá trị do lao động quyết định.
Đ.Ricacđo xem xét lại lý luận giá trị của Smith, gạt bỏ những chỗ thừa và

mâu thuẫn trong lý thuyết kinh tế của Smith. Ông cho rằng, trong hai định nghĩa về
giá trị của Smit thì định nghĩa đầu tiên là đúng, còn định nghĩa thứ 2 là sai. Theo
Ricacđo, không phải chỉ trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn mà ngay cả trong nền
sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa, giá trị vẫn do lao động quyết định. Ông chỉ ra rằng,
trong cơ cấu giá trị hàng hoá phải bao gồm ba bộ phận là: Giá trị những tư liệu sản
xuất đã hao phí khi tham gia vào quá trình sản xuất ra sản phẩm như: máy móc, thiết
bị, giá trị sức lao động của công nhân bỏ vào quá trình sản xuất và phần giá trị do
lao động thặng dư tạo ra, chứ không thể loại phần giá trị tư liệu sản xuất (c) ra khỏi
giá trị sản phẩm như A.Smit đã làm. Tuy nhiên, opong chưa phân tích được sự
chuyển dịch (c) vào sản phẩm mới diễn ra như thế nào. Ông cho rằng lao động xã
hội cần thiết quyết định lượng giá trị hàng hoá. Nhưng lao động xã hội cần thiết là
do điều kiện sản xuất xấu nhất quyết định.
Phương pháp nghiên cứu giá trị hàng hoá của ông còn có tính siêu hình. Ông
coi giá trị là phạm trù vĩnh viện, là thuộc tính của mọi sự vật. Ông không thấy được
mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị, vì chưa biết tính chất hai mặt của lao động
sản xuất hàng hoá.
Lý thuyết về tiền lương, lợi nhuận và địa tô. Lý thuyết này được ông xây
dựng trên cơ sở lý thuyết giá trị - lao động.
Về tiền lương, xuất phát từ chỗ coi lao động là hàng hoá, ông cho rằng, tiền
lương là giá cả của lao động, được xác định trên cơ sở giá cả tự nhiên và xoay quanh
24


nó. Từ chỗ thựa nhận giá cả tự nhiên của hoàng hoá, lao động là giá trị những tư liệu
sinh hoạt nuôi sống người công nhân và gia định anh ta, ông đã chỉ ra cấu thành tư
liệu sinh hoạt của người công nhân phụ thuộc vào yếu tố lịch sử, truyền thống dân
tộc, song ông lại chủ trương những tư liệu sinh hoạt đó chỉ ở mức tối thiểu. Hay nói
một cách khác, ông ủng hộ lý thuyết “quy luật sắt về tiền lương”.
Về lợi nhuận, Ricacđô cho rằng lợi nhuận là số còn lại ngoài tiền lương mà
nhà tư bản trả cho công nhân. Ông đã thấy xu hướng giảm sút tỷ suất lợi nhuận. Ông

cho rằng, do quy luật màu mỡ đất đai ngày càng giả, giá cả nông phẩm tăng lên làm
cho tiền lương công nhân tăng và địa tô răng lên, còn lợi nhuận không tăng. Như
vậy, địa chủ là người có lợi, công nhân không có lợi cũng không bị hại, còn nhà tư
bản có hại, vì tỷ suất lợi nhuận giảm xuống.
Về địa tô, điểm nổi bật của lý thuyết địa tô của Ricacđo là ông phân tích lý
thuyết này trên cơ sở lý thuyết giá trị - lao động. Ông lập luận rằng, do “đất đai canh
tác hạnh chế”, độ màu mỡ đất đai giảm sút, “răng suất đầu tư bất tương xứng”, trong
khi đó, dân số tăng nhanh làm cho nạn khan hiếm tư liệu sinh hoạt là phổ biến trong
mọi xã hội. Điều này buộc xã hội phải canh tác trên ruộng đất xấu. Vì giá trị nông
sản phâm do hao phí lao động trên ruộng đất xấu nhất quyết định, nên ở những
ruông đất tốt, trung bình, sẽ thu được lượng sản phẩm lớn hơn so với ruông đất xấu.
Khoản chênh lệch đó trả cho địa chủ gọi là địa tô. Vậy ông đã nghiên cứu rõ về địa
tô chênh lệch I, nhưng không biết địa tô chênh lệch II và không thừa nhận địa tô
tuyệt đố. Ông cho rằng, nếu thừa nhận địa tô tuyệt đối là vi phạm quy luật giá trị.
Lý luận tư bản. Ricacđô cho rằng tư bản là những tư liệ sản xuất và vật phẩm
tiêu dùng, Đó là một bộ phẩn của cải quốc gia dùng vào sản xuất, như cơm ăn, áo
mặc, nàh xưởng, máy móc. Ông chia tư bản thành hai bộ phậm. Một là, bộ phân ứng
trước để mua công cụ lao động. Hai là, bộ phận ứng ra để thuê nhân công. Ông gọi
bộ phận thứ nhất là tư bản cố định, bộ phận thứ hai là tư bản lưu động. Như vậy, sự
phân biệt tư bản của Ricacđo là không rõ ràng giữa tư bản bất biến, tư bản khả biến
25


×