Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (754.52 KB, 80 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ THANH TÙNG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, năm 2018
1


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ THANH TÙNG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành : Chính sách công
Mã số
:
834 04 02


LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS. TS. ĐẶNG NGUYÊN ANH

HÀ NỘI, năm 2018

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình CNH-HĐH, phát triển và hội nhập quốc tế của đất
nước, nông dân nước ta đứng trước nhiều khó khăn, thách thức, một bộ phận
người nông dân ở một số lĩnh vực, khu vực, trong đó có địa bàn nông thôn
mất đất sản xuất, mất việc làm… Thực trạng đó đòi hỏi phải có chính sách
giải quyết việc làm cho nông dân trên cơ sở cơ cấu lại sản xuất NN theo
hướng sản xuất hàng hóa với trình độ khoa học, công nghệ, kỹ thuật tiên tiến,
thích ứng với yêu cầu của thị trường. Để thực hiện mục tiêu đó, cần tăng
cường đào tạo nghề cho nông dân và lao động ở nông thôn.
Do đó đào tạo nghề cho LĐNT là một chính sách lớn của Đảng và Nhà
nước trong phát triển KT-XH của nước ta; là khâu đột phá nhằm thực hiện
chuyển dịch cơ cấu lao động từ sản xuất NN sang sản xuất công nghiệp, dịch
vụ, từng bước nâng cao trình độ cho đội ngũ lao động có trình độ chuyên
môn, kỹ thuật. Chính vì vậy công tác đào tạo nghề cho LĐNT được Đảng và
Nhà nước ta rất quan tâm, ban hành các chính sách thực hiện, đầu tư nâng cao
chất lượng LĐNT, phục vụ yêu cầu phát triển, từng bước hiện đại hoá NN,
nông thôn.
Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 Hội nghị lần thứ 7 BCH TW
Đảng khoá X về NN, nông dân, nông thôn trong phần nhiệm vụ và giải pháp

đã nêu cụ thể: “Giải quyết việc làm cho nông dân là nhiệm vụ ưu tiên xuyên
suốt trong mọi chương trình phát triển KT-XH của cả nước; bảo đảm hài hoà
giữa các vùng, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng, giữa nông thôn
và thành thị. Có kế hoạch cụ thể về đào tạo nghề và chính sách đảm bảo việc
làm cho nông dân, nhất là ở các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất….
Đẩy mạnh xuất khẩu lao động từ nông thôn…. Hình thành CTMT quốc gia về
đào tạo nghề, phát triển nguồn nhân lực, bảo đảm hằng năm đào tạo khoảng 1

3


triệu LĐNT; phấn đấu đến năm 2020 lao động NN còn khoảng 30% lao động
xã hội; tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo đạt trên 50%”[3, tr.2-3].
Để cụ thể hóa Nghị quyết của Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chính
sách về đào tạo nghề, trong đó có chính sách đào tạo nghề cho LĐNT tại
Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27-11-2009 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho LĐNT đến năm 2020” (gọi tắt là Đề án 1956);
Đề án đã nêu rõ: “Đào tạo nghề cho LĐNT là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước,
của các cấp, các ngành và xã hội nhằm nâng cao chất lượng LĐNT, đáp ứng
yêu cầu CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn. Nhà nước tăng cường đầu tư để
phát triển đào tạo nghề cho LĐNT, có chính sách bảo đảm thực hiện công
bằng xã hội về cơ hội học nghề đối với mọi LĐNT; khuyến khích, huy động
và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia đào tạo nghề cho LĐNT” [43, tr.3].
Tuy nhiên, qua thời gian triển khai thực hiện chính sách, bên cạnh
những kết quả, thành công đạt được thì cũng còn bộc lộ nhiều bất cập, có
chính sách chưa phù hợp với điều kiện thực tiễn, việc dạy nghề chủ yếu còn
tập trung ở các đô thị, vùng đồng bằng, vùng trung du; trong khi khu vực
nông thôn, vùng núi, vùng sâu, vùng xa chưa được quan tâm đúng mức, đào
tạo chưa đáp ứng được so với nhu cầu của LLLĐ ở nông thôn; chất lượng
đào tạo nhìn chung còn thấp, quy mô, số lượng đào tạo còn khiêm tốn so với

nhu cầu nguồn nhân lực trong quá trình phát triển đất nước nói chung và của
tỉnh Quảng Nam nói riêng.
Do vậy, tập trung cho công tác đào tạo nghề cho LĐNT hiện nay càng
có ý nghĩa trong bối cảnh cơ cấu lại nền kinh tế, tái cấu trục sản xuất NN
trong quá trình hội nhập. Một mặt, việc cơ cấu lại nền kinh tế, trong đó có
ngành NN và kinh tế ở nông thôn, chuyển mạnh sang phát triển các ngành
nghề mới, dựa trên nền tảng công nghệ ngày càng hiện đại; với định hướng
phát triển NN xuất khẩu nên cần chú trọng đào tạo cho lao động những ngành,
nghề chế biến nông sản phẩm xuất khẩu, nhằm đáp ứng được yêu cầu lao
4


động của các doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp hoạt động ở nông thôn.
Mặt khác, cơ cấu lại nền kinh tế làm giảm thiểu các ngành, nghề và sản phẩm
có hàm lượng lao động cao; từ đó, làm gia tăng sự dôi dư đội ngũ lao động
giản đơn.
Đối với Quảng Nam để thực hiện chủ trương này, Tỉnh ủy Quảng Nam
đã ban hành Chỉ thị số 01-CT/TU ngày 25/10/2010 về tăng cường lãnh đạo,
chỉ đạo tổ chức thực hiện Đề án đào tạo nghề cho LĐNT trên địa bàn tỉnh
[49]; tiếp đó, UBND tỉnh Quảng Nam đã ban hành Quyết định số 494/QĐUBND ngày 15/02/2011 về phê duyệt Đề án Đào tạo nghề cho LĐNT tỉnh
Quảng Nam đến năm 2020 [55]; Quyết định số 09/2011/QĐ-UBND ngày
09/6/2011 về phê duyệt định mức kinh phí dạy nghề cho LĐNT và nhiều văn
bản trong lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện đề án. Năm 2016 để
tiếp tục triển khai thực hiện Đề án trong giai đoạn đến, HĐND tỉnh có Nghị
quyết số 12/2016/NQ-HĐND ngày 19/7/2016 “Về cơ chế hỗ trợ đào tạo lao
động cho chương trình, dự án trọng điểm và các doanh nghiệp trên địa bàn
tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2016-2020” [27]; Quyết định số 3577/QĐ-UBND
ngày 14/10/2016 của UBND tỉnh “Quy định về chính sách hỗ trợ đào tạo lao
động cho chương trình, dự án trọng điểm và các doanh nghiệp trên địa bàn
tỉnh giai đoạn 2016 - 2020“ [60].

Giai đoạn 2013- 2017 cùng với những thành tựu đạt được trên lĩnh vực
KT-XH, thì công tác đào tạo nguồn nhân lực, trong đó có đào tạo nghề cho
LĐNT tỉnh Quảng Nam cũng đạt nhiều kết quả; sau gần 5 năm thực hiện Đề
án kể từ 2013 đến 2017: Tỷ lệ qua đào tạo nghề của tỉnh từ 30% năm 2013 đã
đạt khoảng 55% vào năm 2017, trong đó đào tạo sơ cấp nghề (có cấp chứng
chỉ) từ 3 tháng trở lên đạt 22,5% [38].
Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả đạt được thì công tác đào tạo nghề cho
LĐNT tại tỉnh Quảng Nam trong thời gian qua cũng còn nhiều tồn tại, hạn
chế đó là: Với sự phát triển KT-XH của tỉnh thì nhu cầu nguồn nhân lực, lao
5


động, nhất là lao động qua đào tạo nghề rất lớn và ngày càng tăng; tuy nhiên
với quy mô đào tạo hiện nay thì các cơ sở dạy nghề chưa đáp ứng được, quy
mô đào tạo hàng năm còn nhỏ, mạng lưới cơ sở dạy nghề còn nhiều bất cập,
cơ sở vật chất, thiết bị dạy nghề còn thiếu, nhiều nghề đào tạo chưa đảm bảo
thiết bị tối thiểu theo quy định; đội ngũ giáo viên, giảng viên dạy nghề còn
thiếu cả về số lượng và chất lượng; công tác kết nối giữa các doanh nghiệp và
cơ sở đào tạo nghề trên địa bàn tỉnh để giải quyết việc làm cho người lao động
sau đào tạo thực hiện chưa tốt; trong đào tạo còn tập trung về mặt số lượng,
chưa quan tâm đúng mức đến chất lượng đào tạo, người học ra trường tay
nghề nhìn chung còn thấp, chưa đáp ứng được so với nhu cầu thị trường lao
động (cả về tay nghề và ngành nghề đào tạo). Công tác tuyên truyền, tư vấn
học nghề chưa được thực hiện tốt, dẫn đến một bộ phận người dân, nông dân
chưa nhận thức đúng, đầy đủ về công tác đào tạo nghề; đội ngũ cán bộ chuyên
trách làm công tác dạy nghề ở các địa phương (huyện, xã) chưa được bố trí đầy
đủ và không ổn định, thường xuyên thay đổi nên công tác tham mưu thực hiện
còn gặp nhiều khó khăn; một số chính sách mức hỗ trợ cho LĐNT học nghề
còn thấp, chưa phù hợp với thực tế, điều kiện cụ thể của các địa phương...
Trong thời gian tới để công tác đào tạo nghề cho LĐNT của tỉnh Quảng

Nam tiếp có thể tiếp tục triển khai thực hiện, đạt được những kết quả tốt hơn,
những câu hỏi đặt ra là: Chính sách đào tạo nghề, trong đó có đào tạo nghề
cho LĐNT ở Quảng Nam trong thời gian tới sẽ như thế nào? Chính sách nào
của tỉnh cần tiếp tục duy trì, phát huy; chính sách nào cần sửa đổi, bổ sung,
hoàn thiện (hoặc đề nghị sửa đổi, bổ sung hoàn thiện)? Những chủ trương,
định hướng, nhiệm vụ, giải pháp nào cần phải đặt ra với địa phương trong giai
đoạn tới?
Xuất phát từ những lý do trên và đòi hỏi bức thiết từ thực tiễn của địa
phương, nên tôi mạnh dạn đề xuất đề tài nghiên cứu: “Thực hiện chính sách
đào tạo nghề cho lao động nông thôn từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam”, với
6


mong muốn sẽ góp phần vào việc hoàn thiện chính sách đào tạo nghề cho
LĐNT, nhằm thực hiện mục tiêu giải quyết việc làm, tăng thu nhập, cải thiện
đời sống vật chất và tinh thần cho người dân, nhất là người dân ở các vùng
nông thôn. Bên cạnh đó là việc thực hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
cơ cấu lao động... góp phần thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển KT-XH,
thực hiện thành công công cuộc CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn của đất
nước nói chung và tỉnh Quảng Nam nói riêng trong những năm tới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Kể từ khi đề án đào tạo nghề cho LĐNT và các văn bản hướng dẫn thực
hiện đề án được ban hành, thì công tác đào tạo nghề cho LĐNT được các cấp,
các ngành từ TW đến địa phương, nhất là các cấp chính quyền ở địa phương
quan tâm; đã có nhiều bài báo, nhiều hội thảo, một số luận án Tiến sỹ, Thạc
sỹ bàn về vấn đề đào tạo nghề cho LĐNT, qua đó đã giúp cho chúng ta có cái
nhìn đầy đủ và đa chiều hơn về công tác này.
Những năm vừa qua đã có các công trình nghiên cứu và nhiều bài viết
nhằm tìm hiểu thực trạng công tác đào tạo nghề nói chung, đào tạo nghề cho
LĐNT nói riêng như: “Đào tạo nghề cho LĐNT vùng đồng bằng Sông Hồng

trong thời kỳ CNH-HĐH” của tác giả Nguyễn Văn Đại; “Đào tạo nghề cho
LĐNT ở nước ta hiện nay” của tác giả Nguyễn Việt Quân; “Một số giải pháp
đào tạo nghề cho lao động nông thôn hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Thu
Hoà; “Đào tạo nghề phải gắn với doanh nghiệp”, của Thứ trưởng Bộ Lao
động-TB&XH Lê Quân (Báo Lao động ngày 28/7/2018); “Có nghề nông dân
mới thoát nghèo bền vững”, của Bộ trưởng Bộ Lao động-TB&XH Đào Ngọc
Dung (Báo Dân trí ngày 12/4/2018); “Đào tạo nghề cho nông dân thời kỳ hội
nhập quốc tế”, của Tiến sỹ Nguyễn Tiến Dũng, nguyên Tổng cục trưởng Tổng
cục Dạy nghề, Bộ Lao động -TB&XH... Những bài báo, công trình nghiên
cứu trên đã cung cấp một cái nhìn tổng thể về thực trạng công tác đào tạo
nghề cho LĐNT, thực trạng về việc làm và giải quyết việc làm, cũng như thực
7


trạng về thực hiện các chính sách đào tạo nghề cho LĐNT hiện nay.
Các bài báo, công trình này hầu hết đã chỉ ra được các tồn tại, hạn chế
trong công tác đào tạo nghề cho LĐNT như: Công tác đào tạo nghề cho
LĐNT ở nước ta vừa qua chưa được quan tâm đúng mức; nhiều cơ quan, bộ
ngành, nhiều địa phương và xã hội nhận thức chưa đầy đủ về công tác đào tạo
nghề, trong đo có đào tạo nghề cho LĐNT; xem công tác này chỉ là nhiệm vụ
nhất thời, giai đoạn, chưa phải là công việc thường xuyên, được tổ chức một
cách liên tục và có hệ thống; việc thực hiện còn cầm chừng, chưa có sự vào
cuộc quyết liệt của các cấp, các ngành, các địa phương. Ngoài ra, bản thân
người dân và người nông dân nhận thức chưa đầy đủ về tầm quan trọng của
công tác đào tạo nghề dẫn đến thái độ không mặn mà, thậm chí còn thờ ở với
công tác này. Công tác tuyên truyền của các cấp, các ngành, các cơ quan thực
hiện chưa tốt; công tác điều tra, khảo sát và dự báo nhu cầu về đào tạo còn
gặp nhiều khó khăn đã làm cho công tác đào tạo nghề, trong đó có đào tạo
nghề LĐNT thời gian qua chưa thực sự hiệu quả.
Bên cạnh đó, các công trình, bài viết cũng đã nêu lên được thực trạng

của chính sách đào tạo nghề cho LĐNT ở nước ta hiện nay, qua đó đề xuất
nhiều giải pháp, cách làm nhằm giúp cho chính sách đào tạo nghề cho LĐNT
ngày càng hoàn thiện hơn. Các tác giả đều nhất trí cho rằng để hoạt động đào
tạo nghề cho LĐNT ngày càng đi vào thực tiễn, mang lại hiệu quả thiết thực
cho người dân, cần phải có sự vào cuộc mạnh mẻ của cả hệ thống chính trị từ
trung ương đến địa phương, nhất là các cấp chính quyền ở địa phương từ tỉnh
đến xã và nhu cầu đào tạo nghề phải xuất phát từ yêu cầu thực tế của người
dân, người nông dân, từ tình hình phát triển KT-XH của đất nước, của từng
địa phương và của các doanh nghiệp… thì việc triển khai, tổ chức thực hiện
mới có hiệu quả được…

8


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu cơ sở lý luận của chính sách đào tạo nghề cho
LĐNT, đề tài đánh giá thực trạng việc thực hiện chính sách đào tạo nghề cho
LĐNT tại tỉnh Quảng Nam một cách toàn diện; qua đó, đề xuất các giải pháp
hợp lý, sát thực để hoàn thiện chính sách, nâng cao hiệu quả thực hiện chính
sách đào tạo nghề cho LĐNT tại tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận về chính sách đào tạo nghề, trong đó có đào
tạo nghề cho LĐNT ở nước ta hiện nay, tìm hiểu kinh nghiệm quốc tế và một
số địa phương trong nước để làm cơ sở cho việc phân tích, đưa ra những đánh
giá thực trạng về việc thực hiện chính sách đào tạo nghề cho LĐNT trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam.
Phân tích, đánh giá các giải pháp thực hiện chính sách đào tạo nghề,
trong đó có chính sách đào tạo nghề cho LĐNT tại tỉnh Quảng Nam.
Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp để tiếp tục thực hiện, hoàn

thiện chính sách đào tạo nghề cho LĐNT, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác này tại tỉnh Quảng Nam trong những năm tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là việc thực hiện chính sách đào tạo
nghề cho LĐNT tại tỉnh Quảng Nam. Việc thực hiện chính sách đào tạo nghề
được xem xét từ góc nhìn công tác xã hội nhằm đánh giá và đề xuất được các
giải pháp để thực hiện hiệu quả các chính sách đào tạo nghề cho LĐNT, nhóm
đối tượng đang gặp nhiều khó khăn hiện nay tại tỉnh Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Chủ yếu giai đoạn 2013-2017; tuy nhiên trong quá trình
nghiên cứu có đề cập một số tình hình, kết quả thực hiện giai đoạn 20109


2015, giai đoạn 2016-2020 theo nhiệm kỳ Đại hội Đảng các cấp và chiến lược
phát triển KT-XH của tỉnh Quảng Nam cũng như của Việt Nam.
Về không gian: Nghiên cứu tập trung trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được viết dựa trên cơ sở nền tảng lý luận của chủ nghĩa MácLêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, chủ trương, đường lối của
Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về đào tạo nghề, trong đó có
đào tạo nghề cho LĐNT; trên cơ sở kế thừa các kết quả nghiên cứu, công
trình khoa học có liên quan đến nội dung của luận văn này.
Ngoài ra, luận văn còn được viết dựa trên cơ sở các Nghị quyết, chủ
trương, quyết định, các báo cáo tổng kết, điều tra, thống kê, các chính sách...
về đào tạo nghề, trong đó có đào tạo nghề cho LĐNT của tỉnh Quảng Nam
giai đoạn 2010-2015, giai đoạn 2016-2020 và định hướng đến năm 2030.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác nhau;
phương pháp thu thập thông tin được sử dụng để thu thập, phân tích và khai

thác thông tin từ các nguồn tài liệu có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu
như: Các văn kiện, tài liệu, báo cáo, nghị quyết, quyết định... của Đảng và
Nhà nước, các bộ, ngành TW; các tài liệu, hồ sơ báo cáo, điều tra, thống kê...
của chính quyền địa phương các cấp liên quan đến công tác đào tạo nghề;
ngoài ra luận văn còn sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, đối chiếu dựa
trên những tài liệu chính thức của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan
đến việc xây dựng và thực thi chính sách đào tạo nghề, đào tạo nghề cho
LĐNT ở nước ta và của tỉnh Quảng Nam; bên cạnh đó, đề tài còn thu thập,
tham khảo các tài liệu của các tổ chức, các học giả, tác giả có liên quan đến
nội dung của đề tài.

10


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn nghiên cứu, làm rõ thêm một số vấn đề về lý luận của chính
sách đào tạo nghề cho LĐNT từ thực tiễn của tỉnh Quảng Nam; làm rõ thêm
một số xu hướng trong đào tạo nghề lao động nông thôn trong cơ chế, điều
kiện KT-XH hiện nay của nước ta và của tỉnh Quảng Nam.
Kết quả của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan
chuyên môn, các sở, ban, ngành liên quan đến việc hoạch định chính sách,
chiến lược đào tạo nghề LĐNT tại tỉnh Quảng Nam cũng như vận dụng cho
các địa phương khác một cách hợp lý. Đề xuất những định hướng, giải pháp
để tiếp tục thực hiện và hoàn thiện chính sách đào tạo nghề cho LĐNT tại tỉnh
Quảng Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài phân tích, đánh giá, làm rõ thêm một số vấn đề về thực tiễn đặt
ra trong việc thực hiện chính sách đào tạo nghề, đào tạo nghề cho LĐNT ở
nước ta nói chung và tỉnh Quảng Nam nói riêng. Luận văn đề xuất được một

số định hướng và giải pháp khả thi nhằm giải quyết việc làm cho LĐNT ở
Quảng Nam trong những năm tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, phụ lục và danh mục tài liệu
tham khảo, luận văn được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về chính sách và thể chế chính sách
đào tạo nghề cho lao động nông thôn.
Chương 2: Thực trạng việc thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao
động nông thôn tại tỉnh Quảng Nam.
Chương 3: Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính
sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn tại tỉnh Quảng Nam.

11


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH VÀ THỂ CHẾ
CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN
1.1. Cơ sở lý luận của chính sách đào tạo nghề cho lao động nông
thôn
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
Theo Điều 5, Luật Dạy nghề số 76/2006/QH11 năm 2006 thì “Đào tạo
nghề” được hiểu: “là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng
và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học nghề để có thể tìm được việc
làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khoá học” [34, tr.1].
Như vậy, đào tạo nghề có những đặc trưng cơ bản sau:
- Đào tạo nghề bao gồm hai quá trình có quan hệ hữu cơ với nhau, đó là
dạy nghề và học nghề.
+ Dạy nghề: “Là quá trình giáo viên truyền bá những kiến thức về lý
thuyết và thực hành để các học viên có được một trình độ, kỹ năng, kỹ xảo, sự

khéo léo, thành thục nhất định về nghề nghiệp” [34, tr.1].
+ Học nghề: “Là quá trình tiếp thu những kiến thức về lý thuyết và
thực hành của người lao động để đạt được một trình độ nghề nghiệp nhất
định” [34, tr.1].
+ Đào tạo nghề cho người lao động là giáo dục kỹ thuật sản xuất cho
người lao động để họ nắm vững nghề nghiệp, chuyên môn bao gồm đào tạo
nghề mới, đào tạo nghề bổ sung, đào tạo lại nghề.
Các hình thức đào tạo nghề gồm có: Hình thức kèm cặp trong sản xuất,
hình thức mở các lớp nghề tại doanh nghiệp, cơ sở sản xuất và hình thức đào
tạo tại cơ cơ sở đào tạo nghề tập trung.
Sự khác nhau giữa khái niệm “Đào tạo nghề” và “Đào tạo nghề cho lao
động nông thôn” là ở đối tượng đào tạo nghề; là những người thuộc lao động
12


ở vùng nông thôn và những điều kiện gắn với quá trình đào tạo nghề đó. Từ
sự phân tích trên, ta có thể đưa ra khái niệm:
- Đào tạo nghề cho LĐNT: Là quá trình giảng viên truyền bá những
kiến thức về lý thuyết và thực hành để những người lao động ở nông thôn có
được một trình độ, kỹ năng, kỹ xảo, sự khéo léo, thành thục nhất định về nghề
nghiệp, đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH nông thôn.
- Chính sách đào tạo nghề cho LĐNT: Là chính sách của nhà nước các
cấp phục vụ cho hoạt động đào tạo nghề LĐNT, nhằm thực hiện chuyển dịch
cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế, đáp ứng yêu cầu về phát triển KT-XH trong
thời kỳ CNH-HĐH, góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho người dân.
1.1.2. Quan điểm, mục tiêu của chính sách đào tạo nghề cho lao
động nông thôn
Đào tạo nghề nói chung và đào tạo nghề cho LĐNT cũng như chính
sách đào tạo nghề cho LĐNT nói riêng luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc
biệt quan tâm. Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 của BCH TW Đảng

khóa X về “nông nghiệp, nông thôn, nông dân” đã nêu rõ quan điểm, định
hướng, mục tiêu của Đảng ta trong chiến lược phát triển đất nước đó là:
“…CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu
của quá trình CNH-HĐH hoá đất nước. Một trong những giải pháp và nhiệm
vụ quan trọng của Nghị quyết là việc thực hiện đào tạo nghề, giải quyết việc
làm cho LĐNT; với mục tiêu Nghị quyết phấn đấu đến năm 2020 lao động
NN còn khoảng 30% trên tổng lao động xã hội, tỉ lệ LĐNT qua đào tạo đạt
trên 50%, bảo đảm phát triển hài hòa, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các
vùng, miền, giữa thành thị và nông thôn” [3, tr.2].
Để triển khai thực hiện Nghị quyết của Đảng, Chính phủ đã ban hành
Chương trình hành động tại Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP ngày 28/10/2008;
trong đó việc xây dựng CTMT quốc gia về đào tạo nguồn nhân ở nông thôn là
một trong những Chương trình quan trọng của Nghị quyết, với mục tiêu: “Tập
13


trung đào tạo nguồn nhân lực nông thôn, chuyển một bộ phận lao động NN và
dịch vụ, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập của LĐNT tăng lên 2,5 lần so
với hiện nay; tập trung xây dựng kế hoạch, đề ra các giải pháp để đào tạo con
em nông dân có đủ trình độ, năng lực để vào làm việc trong các cơ sở sản
xuất công nghiệp, cơ sở dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp; đối với bộ phận nông
dân còn tiếp tục sản xuất NN thì tiến hành đào tạo, trang bị kiến thức, kỹ năng
cho họ, để nâng cao trình độ, nắm bắt được kỹ thuật, công nghệ sản xuất mới;
bên cạnh đó tập trung đào tạo nhằm nâng cao trình độ cho cán bộ quản lý, các
bộ cơ sở” [14, tr.3].
Đề án 1956 của Thủ tướng Chính phủ thể hiện rõ quan điểm “Đào tạo
nghề cho LĐNT là sự nghiệp của Đảng và Nhà nước, của các ngành, các cấp
và của toàn xã hội nhằm đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn lao động nông
thôn, phục vụ cho yêu cầu CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn”; thể hiện các
chính sách về đào tạo nghề LĐNT của Nhà nước, là cơ sở để huy động các

nguồn lực thực hiện nhằm tăng cường, nâng cao số lượng và chất lượng đào
tạo nguồn nhân lực LĐNT theo mục tiêu đề ra. Với thời gian thực hiện trong
11 năm (2010-2020), mục tiêu của Đề án là: “Dạy nghề cho khoảng 10,6 triệu
LĐNT, trong đó hỗ trợ dạy nghề cho 6,54 triệu người theo chính sách của Đề
án; bình quân hàng năm đào tạo nghề cho khoảng 1 triệu LĐNT, trong đó đào
tạo, bồi dưỡng 100 ngàn lượt cán bộ, công chức xã; đến năm 2020, lao động ở
nông thôn còn khoảng dưới 30% lao động xã hội, tỷ lệ qua đào tạo đạt trên
50%, tỷ lệ có việc làm sau khi học nghề tối thiểu đạt 80%”[43].
1.1.3. Ý nghĩa của chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn
Chính sách đào tạo nghề cho LĐNT có vai trò đặc biệt quan trọng đối
với việc phát triển nguồn vốn con người, nguồn nhân lực trong tăng trưởng
kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. Đào tạo nghề là một
trong những giải pháp đột phá của chiến lược phát triển KT-XH, nhằm đào
tạo nguồn nhân lực, phát triển nhanh đội ngũ lao động kỹ thuật trực tiếp, phục
14


vụ cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, góp phần đảm bảo an sinh xã hội và
sự phát triển bền vững của đất nước. Việc đào tạo nghề cho LĐNT có ý nghĩa
rất lớn trong việc góp phần chuyển dịch lao động, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ở nông thôn, thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước ta là thực hiện
giảm nghèo bền vững, từng bước giảm bớt sự chênh lệch giàu nghèo giữa
thành thị và nông thôn. Vì vậy đào tạo nghề và nâng cao chất lượng đào tạo
nghề cho lao động nói chung và LĐNT nói riêng có một ý nghĩa rất lớn, là
yêu cầu cần thiết và cấp bách, là chính sách hàng đầu trong phát triển KT-XH
của nước ta trong thời gian qua cũng như trong giai đoạn đến.
1.1.4. Vấn đề chính sách đào tạo nghề cho LĐNT
Chính sách đào tạo nghề cho LĐNT được triển khai nhất quán từ TW
đến các địa phương, trên cơ sở các văn bản về chủ trương của Đảng và chính
sách cụ thể của nhà nước như: Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5/8/2008 của

BCH Trung ương Đảng, Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/12/2009 của
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đào tạo nghề cho LĐNT đến năm 2020,
Quyết định số 800/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 04/6/2010 phê
duyệt “Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn
2010 -2020”; đây là chương trình tổng thể về xây dựng nông thôn mới với các
nhiệm vụ, mục tiêu trên tất cả các lĩnh vực về kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh
quốc phòng...; trong đó có việc tập trung đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực ở nông thôn, chuyển dịch cơ cấu lao động ở vùng nông thôn... [44].
Do đó, vấn đề đào tạo nghề cho LĐNT và chính sách đào tạo nghề cho
LĐNT thực hiện những năm vừa qua cũng như trong thời gian đến là hết sức
cần thiết, nhằm cụ thể hóa những chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà
nước đã ban hành về nội dung này; bên cạnh đó, xuất phát từ thực trạng
LĐNT hiện nay như:
- Số lượng nguồn LĐNT chiếm tỷ trọng lớn, nhưng tỷ lệ qua đào tạo
còn thấp; chất lượng qua đào tạo chưa cao; thu nhập trong sản xuất NN làm ra
15


của lao động ở nông thôn không đủ bù chi phí bỏ ra; thu nhập bình quân đầu
ở nông thôn còn thấp, đời sống vật chất còn nhiều khó khăn, mức chênh lệch
giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn còn cao…
- Tình trạng thiếu việc làm ở bộ phận LĐNT, nhất là số thanh niên
trong độ tuổi lao động còn phổ biến; hoặc có việc làm nhưng không ổn định;
một số hộ nằm trong diện có ruộng, đất bị nhà nước thu hồi được hưởng số
tiền đền bù theo chính sách quy định; khi đất sản xuất không còn, cơ hội tìm
kiếm việc làm khó khăn, sẽ nảy sinh ra các tệ nạn xã hội như cờ bạc, rượu
chè, nghiện hút, chích... dẫn đến các hệ lụy, tình trạng tiêu cực xã hội ở nông
thôn; nên thực hiện tốt chính sách đào tạo nghề, giải quyết việc làm, sẽ góp
phần giải quyết được tình trạng này.
Theo xu thế phát triển, nông thôn sẽ từng bước được đô thị hóa, các

khu đô thị, khu công nghiệp, sản xuất tập trung được hình thành, kéo theo các
công ty, doanh nghiệp sản xuất ra đời, với nhu cầu rất lớn về nguồn lao động,
mà chủ yếu là lao động giản đơn, tay nghề thấp, thậm chí lao động không đòi
hỏi tay nghề kỹ thuật. Do đó, việc ban hành và thực hiện các chiến lược,
chính sách đào tạo nghề LĐNT sẽ góp phần tạo ra nguồn lao động có tay nghề
phục vụ trong sản xuất công nghiệp, NN, phi NN ngay tại địa phương, cũng
như phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá.
1.1.5. Thế chế chính sách đào tạo nghề cho LĐNT
Hiến pháp Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã
hiến định quyền của mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật về quyền lợi
và nghĩa vụ; Điều 59 Hiến pháp có ghi: “Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để
công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội, có
chính sách trợ giúp người cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo và người có
hoàn cảnh khó khăn” [28, tr.10].
Đối với công tác đào tạo nghề và tạo việc làm, Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định việc thực hiện tốt các chính sách về lao
16


động, việc làm, tiền lương, thu nhập sẽ khuyến khích và phát huy cao nhất
năng lực của người lao động; bên cạnh đó cần tăng cường đẩy mạnh đào tạo
nghề và tạo việc làm, hỗ trợ học nghề và tạo việc làm cho các đối tượng chính
sách, người nghèo, LĐNT và vùng đô thị hóa... Nghị quyết số 26-NQ/TW của
BCH TW Đảng khóa X về “Nông nghiệp, nông thôn, nông dân” cũng đã đề ra
mục tiêu phấn đấu đến năm 2020: “... Lao động NN còn khoảng 30% lao
động xã hội, tỉ lệ LĐNT qua đào tạo đạt trên 50%; số xã đạt tiêu chuẩn nông
thôn mới khoảng 50%” [3, tr.2].
Đề án 1956 của Thủ tướng Chính phủ là chính sách đầy đủ và toàn diện
phục vụ cho hoạt động đào tạo nghề LĐNT trên phạm vi cả nước, với mục
tiêu: “Đến năm 2020 sẽ đào tạo hơn 10 triệu lao động nông thôn và tỷ lệ có

việc làm qua đạo tạo đạt trên 80%...” [43, tr.2]; đến nay việc thực hiện đề án
đã thu được một số kết quả quan trọng.
1.1.6. Nội dung cơ bản của chính sách đào tạo nghề cho LĐNT
1.1.6.1. Xác định nhu cầu sử dụng lao động qua đào tạo nghề và nhu
cầu học nghề của người lao động
Để xác định được nhu cầu sử dụng lao động qua đào tạo và nhu cầu học
nghề của người lao động cần phải triển khai các hoạt động điều tra, khảo sát
nhu cầu sử dụng nguồn nhân lực qua đào tạo trong các ngành kinh tế, vùng
kinh tế và ở từng địa phương một cách khoa học, đầy đủ; đồng thời với việc
nắm thông tin nhu cầu về sử dụng lao động, cần phải khảo sát nhu học nghề
của đối tượng, hơn nữa cũng cần khảo sát đặc điểm và thói quen canh tác, sản
xuất của người nông dân ở các vùng miền khác nhau để có thể có các hình
thức đào tạo phù hợp.
1.1.6.2. Xác định ngành nghề đào tạo cho lao động nông thôn
Dựa trên kết quả điều tra nhu cầu sử dụng LĐNT qua đào tạo nghề và
nhu cầu của các đối tượng LĐNT học nghề, trên cơ sở phân tích các yếu tố về
KT-XH, đặc điểm của LĐNT theo từng vùng miền và từng thời điểm khác
17


nhau để xác định ngành nghề đào tạo cho phù hợp. Xuất phát từ đặc điểm của
người nông dân và lao động ở nông thôn nước ta như tính cần cù, chịu khó,
sẵn sàng tiếp thu kiến thức mới, giúp ích cho hoạt động của mình..., bên cạnh
đó đặc điểm của LĐNT còn có tính manh mún, tập quán làm việc theo cảm
tính, ý thức tổ chức kỷ luật không cao, trình độ văn hoá thấp...; để phù hợp
với những điều kiện, đặc điểm trên của LĐNT và để công tác tổ chức đào tạo
có hiệu qủa thì một số ngành nghề được xác định trong đào tạo LĐNT bao
gồm: May công nghiệp; Cơ điện nông thôn; Quản lý điện nông thôn; Lắp đặt
điện dân dụng; Kỹ thuật gò, hàn nông thôn; Sửa chữa điện thoại di động; Sửa
chữa xe gắn máy; Kỹ thuật trồng trọt; Kỹ thuật chăn nuôi; Sửa chữa và bảo trì

tủ lanh điều hoà nhiệt độ; Kỹ thuật sửa chữa ô tô; Kỹ thuật trồng cây cao su;
Sửa chữa điện và điện lạnh ô tô; Sửa chữa hệ thống cấp nước gia đình v.v...
Đây là những ngành nghề thiết thực, phù hợp với lao động ở nông
thôn. Việc lựa chọn ngành nghề đào tạo cho LĐNT là một trong những nội
dung quan trọng góp phần thực hiện thành công chính sách đào tạo nghề cho
lao động ở nông thôn.
1.1.6.3. Lựa chọn phương thức đào tạo nghề cho lao động nông thôn
Để nâng cao hiệu quả đào tạo, việc tổ chức các khóa học với hình thức
và phương thức khác nhau đối với LĐNT rất quan trọng. Hiện nay trong đào
tạo có các phương thức sau: Phương thức đào tạo tập trung tại các cơ sở dạy
nghề; mở các lớp nghề tại doanh nghiệp, cơ sở sản xuất; đào tạo theo đơn đặt
hàng của các công ty, doanh nghiệp, tập đoàn sản xuất; đào tạo lưu động tại
các địa phương xã, thôn, bản; đào tạo nghề gắn với các vùng chuyên canh, với
các làng nghề... Phương thức đào tạo cũng cần phải đa dạng, phù hợp với
từng nhóm đối tượng và điều kiện của từng vùng, miền... như tổ chức đào tạo
tập trung tại cơ sở dạy nghề đối với những nông dân chuyển đổi nghề nghiệp
(tại trung tâm dạy nghề, các trường trung cấp, cao đẳng, các trường đại học,
các cơ sở khác có tham gia dạy nghề); đào tạo nghề lưu động cho nông dân
18


tại cơ sản xuất, tại các địa bàn xã, thôn, bản...; do vậy, lựa chọn phương thức
đào tạo nghề cho LĐNT, đáp ứng nhu cầu lao động, việc làm của các nhóm
đối tượng học nghề là một trong những nội dung quan trọng trong đào tạo
nghề cho LĐNT.
1.1.6.4. Chủ thể chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn
Các chủ thể tham gia vào chính sách đào tạo nghề cho LĐNT gồm có:
Các cơ quan Đảng, nhà nước, chính quyền các cấp từ trung ương đến địa
phương (là cơ quan lãnh, chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức, triển khai…thực hiện
chính sách); các cơ sở dạy nghề là chủ thể trực tiếp triển khai thực hiện chính

sách; gắn với các doanh nghiệp trong quá trình thực hiện chính sách (đào tạo
và giải quyết việc làm sau đào tạo).
Do đào tạo nghề cho LĐNT là một đề án, chương trình quốc gia lớn,
cho nên các cấp ủy Đảng, chính quyền từ TW đến địa phương đều tham gia,
với nhiệm vụ trực tiếp chỉ đạo, điều hành, quản lý, thực hiện công tác kiểm
tra, giám sát…Với hình thức tổ chức: UBND các cấp (tỉnh, thành, huyện, thị)
thành lập các Ban chỉ đạo gồm các thành viên của các cơ quan liên quan như:
Văn phòng UBND, Lao động - TB&XH, Nội vụ, Tài chính, Kế hoạch - Đầu
tư, GD&ĐT, Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn…; các tổ chức đoàn thể
như: Đoàn Thanh niên, Nông dân, Phụ nữ, Ngân hàng Chính sách Xã hội...
Các cơ quan, đơn vị này cử người tham gia Ban Chỉ đạo; Ban Chỉ đạo hoạt
động, làm việc theo chế độ kiêm nhiệm.
Người lao động tham gia học nghề là chủ thể chính, là đối tượng trực
tiếp tham gia và thụ hưởng chính sách đào tạo nghề của Nhà nước, là nhân tố
quan trọng quyết định sự thành công của công tác đào tạo nghề nên trình độ
văn hóa, sự hiểu biết, nhận thức, ý thức, tâm lý cá nhân, cá tính… của người
lao động đều có ảnh hưởng đến chính sách đào tạo nghề, trong đó có đào tạo
nghề cho LĐNT.

19


1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách đào tạo
nghề cho lao động nông thôn
Chính sách đào tạo nghề cho LĐNT chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố
khác nhau, nhưng xem xét trên một số mặt, một số khía cạnh nhất định, thì
chính sách này chịu ảnh hưởng của một số yếu tố chính như sau:
1.2.1. Điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên các vùng có tác động đến sự phân bố lao động, chất
lượng lao động, từ đó sẽ ảnh hưởng đến công tác đào tạo nghề. Điều kiện tự

nhiên, thời tiết, khí hậu tạo ra các đặc điểm con người khác nhau giữa các địa
phương, vùng, miền dẫn đến những đặc điểm khác nhau giữa lao động các
vùng, miền như lao động thuộc các dân tộc khác nhau, lao động ở các vùng
sinh thái khác nhau, lao động ở đồng bằng và miền núi, hải đảo đều có những
đặc trưng về tập quán, phương thức sản xuất khác nhau. Khí hậu, thời tiết
giữa các vùng khác nhau dẫn đến hệ sinh thái khác nhau, cây trồng, con vật
nuôi khác nhau, tạo ra cách thức sản xuất, cách thức canh tác khác nhau của
người lao động. Vùng đồng bằng người dân thường giỏi về nghề trồng lúa,
người dân ở vùng ven biển thường giỏi nghề thủy sản, người dân vùng miền
núi, trung du lại giỏi về nghề trồng cây công nghiệp, lâm nghiệp…
Điều kiện về khí hậu, thời tiết cũng tạo ra tính chất mùa vụ khác nhau
dẫn đến công việc và thời gian của lao động làm nghề nông cũng khác nhau.
Điều kiện khí hậu, thời tiết làm cho một số vùng thường xuyên gặp bão lụt,
dẫn đến sản xuất của người dân hay gặp rủi ro... Tất cả các yếu tố về điều kiện
tự nhiên đều ảnh hưởng đến việc xây dựng kế hoạch, lựa chọn hình thức, danh
mục nghề đào tạo cho lao động nông thôn.
1.2.2. Quy mô và chất lượng của lực lượng lao động nông thôn
Để chính sách đào tạo nghề cho LĐNT thực hiện đạt hiệu quả, thì
ngươi lao động cần phải có trình độ học vấn nhất định. Điều kiện này có sự
khác biệt giữa các ngành nghề đào tạo mà người lao động mong muốn học
20


nghề cho bản thân; như đối với đào tạo nghề trong lĩnh vực NN thì điều kiện
học vấn của người lao động chỉ cần ở mức tốt nghiệp THCS (chiếm khoảng
64%); nhưng đối với ngành công nghiệp và dịch vụ thì điều kiện về học vấn
cao hơn, tối thiểu người lao động phải tốt nghiệp THPT (chiếm khoảng 61%),
còn đối với việc làm trong ngành dịch vụ thì đòi hỏi người lao động phải có
học vấn cao hơn (gần 80% yêu cầu tối thiểu tốt nghiệp THPT).
Quy mô và chất lượng của LLLĐ phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó

yếu tố đào tạo là rất quan trọng và trong thực tế mỗi ngành nghề hoạt động nhu
cầu về trình độ chuyên môn, kỹ thuật, tay nghề của lao động khác nhau; do đó,
trong quá trình tư vấn cho người lao động tham gia học nghề cũng cần chú ý
đến trình độ, khả năng để người lao động học các nghề nào là phù hợp thì mới
phát huy được khả năng, tay nghề sau đào tạo; bên cạnh đó, chính sách đào tạo
nghề cho các đối tượng cũng khác nhau thì mới mang lại hiệu quả.
1.2.3. Đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý và cơ sở vật chất trong dạy
nghề
Đội ngũ nhà giáo có trình độ chuyên môn, có kỹ năng, kinh nghiệm và
nhiệt huyết trong dạy nghề, truyền nghề sẽ góp phần rất lớn trong việc nâng
cao chất lượng đào tạo. Bên cạnh đó đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý trong
dạy nghề được xác định là chủ thể trong quá trình dạy nghề, truyền nghề;
trong quản lý, sử dụng phương tiện, thiết bị, cơ sở vật chất giảng dạy; trong
xây dựng chương trình, giáo trình phục vụ giảng dạy…; do đó, đội ngũ nhà
giáo, cán bộ quản lý là một trong những yếu tố quan trọng quyết định chất
lượng dạy nghề cũng như sự thành công trong việc thực hiện chính sách đào
tạo nghề, trong đó có đào tạo nghề cho LĐNT.
Theo chương trình đào tạo nghề, bên cạnh học lý thuyết thì việc thực
hành rèn luyện tay nghề và rèn luyện kỹ năng cho người học là chủ yếu (thời
gian thực hành chiếm trên 70% chương trình đào tạo) [7]; do đó, cơ sở vật
chất, trang thiết bị phục vụ giảng dạy, nhất là vật tư phôi liệu sử dụng trong
21


quá trình thực hành là những yếu tố, điều kiện cần thiết liên quan đến chất
lượng đào tạo, liên quan đến việc thực hiện thành công các mục tiêu của chính
sách đào tạo nghề đề ra.
1.2.4. Tác động của chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH ở nước ta có tác
động đến việc thực hiện chính sách đào tạo nghề cho LĐNT trên các mặt sau:

- Đối với lĩnh vực NN và phi NN: Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII của Đảng đã nêu: “...Nông nghiệp có bước phát triển theo
hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững, nhiều sản phẩm có giá trị gia tăng cao;
chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động;... tạo môi
trường thuận lợi để khai thác mọi khả năng đầu tư vào NN và nông thôn, nhất
là đầu tư của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thu hút nhiều lao động nông
thôn...; cơ cấu lại NN gắn với xây dựng nông thôn mới...” [24, tr.4]. Chủ
trương này tác động rất lớn đến việc thực hiện chính sách đào tạo nghề cho
LĐNT, do có sự chuyển đổi nghề nên một bộ phận LĐNT rất lớn cần phải
được đào tạo phục vụ cho quá trình đô thị hoá ở nông thôn.
Chiến lược dạy nghề cùng lúc phải đáp ứng hai yêu cầu vừa là đào tạo
mới, chuyển đổi ngành nghề đối với lao động trước đây họ là nông dân, để
cung ứng cho các nhà máy, cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp,
đồng thời phải đào tạo đội ngũ lao động có trình độ cao để đáp ứng, tiếp cận
các ngành nghề mới xuất hiện áp dụng công nghệ sinh học, các loại giống mới
để nâng cao năng suất lao động và phục vụ cho xuất khẩu lao động.
- Đối với lĩnh vực công nghiệp: Trong chiến lược phát triển KT-XH
giai đoạn 2011 - 2020 đã nêu: “Chú trọng phát triển công nghiệp phục vụ NN
nông thôn, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo và vật liệu mới đi đôi với áp
dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng, nguyên liệu. Từng bước phát triển công
nghiệp sinh học và công nghiệp môi trường. Tiếp tục phát triển phù hợp các
ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động nông thôn” [46, tr.3].
22


Chiến lược dạy nghề của Chính phủ đã từng bước làm thay đổi căn bản
xu hướng phát triển, từng bước thay đổi cơ cấu lao động ở nông thôn hiện
nay; khi sản phẩm công nghiệp do gia công, sử dụng nhiều lao động nông
thôn hoặc sản phẩm công nghiệp xuất khẩu thô trong tương lai không phải là
ưu thế vì tính hiệu quả kinh tế và tính cạnh tranh rất thấp trên thị trường thế

giới; do vậy, một mặt phải nâng cao chất lượng các ngành công nghiệp có lợi
thế cạnh tranh, sử dụng nhiều lao động như: chế biến nông, lâm, thuỷ sản,
may mặc, giày da, đồ nhựa…, mặt khác đi nhanh vào một số ngành, lĩnh vực
có công nghệ hiện đại, công nghệ cao, sử dụng nhiều vốn. Những ảnh hưởng
về công nghiệp như trên sẽ tác động trực tiếp đến công tác đào nghề và chính
sách đào tạo nghề cho LĐNT.
1.2.5. Hệ thống cơ chế chính sách
Cơ chế chính sách của Nhà nước các cấp là yếu tố quan trọng nhất, có
ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển đào tạo nghề, đến việc thực hiện chính
sách đào tạo nghề cho LĐNT cả về quy mô, cơ cấu và chất lượng đào tạo.
Các chính sách khuyến khích phát triển hệ thống đào tạo nghề chủ yếu tác
động vào các mặt, những nội dung trọng yếu tạo ra khuôn khổ pháp lý, môi
trường KT-XH, khuyến khích các lực lượng xã hội tham gia vào hoạt động
phát triển dạy nghề. Hệ thống chính sách đồng bộ sẽ là căn cứ, cơ sở pháp lý
quan trọng để tổ chức thực hiện thành công chiến lược phát triển nguồn nhân
lực cho đất nước.
Do đào tạo nghề cần phải có nguồn lực lớn, hiệu quả kinh tế mang lại
phải có thời gian mới thấy được, vì vậy chính sách đào tạo nghề, trong đó có
đào tạo nghề cho LĐNT cần phải có các chính sách đầu tư, xã hội hóa, thu hút
các nguồn bên ngoài (ngoài nguồn ngân sách nhà nước) một cách rộng rãi, lâu
dài; đồng thời phải có hệ thống văn bản đồng bộ, nhằm tạo hành lang pháp lý,
tạo môi trường thuận lợi để khuyến khích đào tạo nghề phát triển.
Luật Dạy nghề ra đời năm 2006 đã tạo hành lang pháp lý quan trọng cho
23


việc ra đời hàng loạt chính sách mới liên quan đến người lao động nói chung và
LĐNT nói riêng; các chính sách liên quan đến công tác dạy nghề, học nghề
cũng được hình thành như: Chính sách đối với giáo viên, giảng viên và cán bộ
quản lý trong các cơ sở dạy nghề; Chính sách đối với người học nghề, trong đó

có người học nghề thuộc đối tượng LĐNT; các chính sách của Đề án 1956 đến
năm 2020; dự án CTMT tiêu quốc gia về dạy nghề và việc làm các giai đoạn;
Chính sách miễn, giảm học phí cho học sinh, sinh viên học nghề...
Kết quả của việc thực hiện các chính này trong thời gian qua đã hình
thành nên hệ thống cơ sở dạy nghề rộng khắp trên cả nước, với đội ngũ nhà
giáo và quản lý dạy nghề tăng lên cả về số lượng và chất lượng, cơ sở vật
chất, trang thiết bị giảng dạy được đầu tư ngày càng nhiều hơn...
Hiện nay, Luật GDNN ra đời (thay thế Luật Dạy nghề năm 2006) và
chính thức đi vào thực hiện từ đầu năm 2017 [35], tiếp đó hàng loạt các văn
bản hướng dẫn dưới Luật được ban hành, đã tạo ra hành lang, cơ sở pháp lý
đồng bộ để triển khai thực hiện công tác GDNN trên cả nước, trong đó có
công tác đào tạo nghề cho LĐNT.
1.3. Kinh nghiệm của một số địa phương trong nước và các nước
trên thế giới trong thực hiện chính sách đào tạo nghề cho LĐNT
1.3.1. Kinh nghiệm một số địa phương trong nước
Kinh nghiệm của tỉnh Nghệ An: Nghệ An là một tỉnh có diện tích tự
nhiên 16.487 km2, dân số 3.003.000 người, trong đó LLLĐ từ 15 tuổi trở lên
là 1.477.687 người, đa số là lao động khu vực nông thôn với 1.335.473 người,
chiếm khoảng 90% LLLĐ của tỉnh (số liệu đến 31/12/2012).
Trong quá trình phát triển KT-XH, Nghệ An luôn quan tâm và xác định
đào tạo nghề và đào tạo nghề cho LĐNT là một trong những nội dung quan
trọng, góp phần tích cực phát triển KT-XH của tỉnh. Từ năm 2006 Nghệ An
đã triển khai các chương trình phát triển KT-XH, chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
lồng ghép các chương trình, dự án đầu tư phát triển các loại hình doanh
24


nghiệp... đạt nhiều kết quả. Để thực hiện, Nghệ An đã triển khai đồng bộ các
nhóm giải pháp, trong đó có công tác đào tạo nghề, đào tạo nghề cho LĐNT
là một trong những nhiệm vụ quan trọng, được các cấp, các ngành của Nghệ

An quan tâm chỉ đạo, tổ chức thực hiện quyết liệt.
Thực hiện chính sách Đề án 1956 của Thủ tướng Chính phủ, Nghệ An
được phê duyệt theo lộ trình từ năm 2010 đến năm 2020 nguồn kinh phí hơn
800 tỷ đồng; thời gian triển khai từ tháng 10/2010 đến nay, tuy chưa lâu
nhưng với sự chỉ đạo quyết liệt từ tỉnh đến huyện, xã, sự vào cuộc của các tổ
chức, đoàn thể nên đã có những kết quả bước đầu đáng ghi nhận.
Năm 2010, toàn tỉnh có 66.000 lượt người được đào tạo nghề, trong đó
có 5.600 lượt LĐNT được đào tạo theo Đề án 1956. Năm 2011, có 70.000
lượt người tham gia các lớp học nghề; trong đó, kết quả đào tạo nghề theo Đề
án 1956 là 7.980 người với 266 lớp (nông nghiệp: 166 lớp với 4.980 người;
phi nông nghiệp: 100 lớp với 3.000 người). Tỷ lệ lao động nông thôn có việc
làm sau đào tạo nghề là 75%. Với cách làm sáng tạo, tổ chức dạy nghề cho
nông dân thông qua một số mô hình hiệu quả như nuôi lợn siêu nạc tại xã
Thanh Lĩnh, huyện Thanh Chương; Chăn nuôi vịt bầu Quỳ Châu tại huyện
Quế Phong; Trồng rau cao sản ở xã Quỳnh Lương, huyện Quỳnh Lưu,... Chăn
nuôi trâu, bò hàng hóa tại xã Thanh Dương, huyện Thanh Chương đã giúp các
học viên vừa nắm vững được lý thuyết, vừa học tập được kinh nghiệm của các
mô hình hiệu quả. Để triển khai đào tạo nghề cho LĐNT, toàn tỉnh đã huy
động 48 cơ sở đào tạo nghề bao gồm các trường dạy nghề công lập, các trung
tâm dạy nghề của huyện và các cơ sở ngoài công lập.
Qua 2 năm thực hiện Đề án "Đào tạo nghề cho LĐNT" theo Đề án
1956, Nghệ An đã thực hiện cơ bản các yêu cầu, nhiệm vụ theo Quyết định
của Chính phủ đề ra. Đề án đã góp phần nâng cao chất lượng tay nghề cho
LĐNT, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức xã đủ tiêu chuẩn phục vụ cho
CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn; tạo việc làm, chuyển đổi nghề, tăng thu
25


×