Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Tiểu luận cao học, quản lý báo chí truyền thông, mô HÌNH QUẢN lý của đài PT TH ĐỒNG NAI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.53 KB, 34 trang )

I- Một số khái niệm cơ bản:
- Truyền thông có thể được hiểu là quá trình liên tục trao đổi thông tin, tư tưởng,
tình cảm,....chia sẻ kỹ năng và kinh nghiêm giữa hai hoặc nhiều người với nhau, nhằm
thay đổi nhận thưc, thái độ và hành vi phù hợp với nhu cầu phát triển1.
- Tiếp cận từ kênh truyền dẫn, có thể hiểu Truyền thông đai chúng (TTĐC) là hệ
thống các kênh truyền thông hướng thông điệp tác động vào đông đảo công chúng xã
hội, nhằm lôi kéo và tập hợp, giáo dục, thuyết phục và tổ chức đông đảo nhân dân tham
gia giải quyết các nhiêm vụ chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hôi đã và đang đặt ra.
- Báo chí là môt bộ phận của truyền thông đại chúng, nhưng là bộ phận chiếm vị
trí trung tâm, vai trò nền tảng và có khả năng quyết định tính chất, khuynh hướng, chi
phối năng lực và hiệu quả tác động của TTĐC. Do đó, trong nhiều trường hợp, có thể
dùng báo chí để chỉ truyền thông đại chúng; và ngược lại, nói đến TTĐC - trước hết
phải nói đến báo chí.
Báo chí trong trường hợp này đươc dùng, đươc hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm
báo in, báo chí phát thanh, báo chí truyền hình, báo mạng điện tử (“phát hành” trên
mạng internet) và hãng thông tấn. Báo chí theo nghĩa hẹp, là bao gồm báo, tạp chí và
bản tin thời sự.
Báo chí là hiện tượng xã hội đa nghĩa, phức tạp và có nhiều cách tiếp cận không
giống nhau trong các xã hôi có thể chế chính trị khác nhau.
- Khái niệm báo chí tiếp cận từ quan điểm hệ thống. Khi nhìn nhận xã hội như
một hệ thống trong tổng thể đang vận hành, báo chí cũng cần được tiếp cận từ quan
điểm hệ thống; nhìn nhận báo chí như một tiểu hệ thống cấu thành hệ thống xã hội nói
chung; trong đó, báo chí là một bộ phận cấu thành và chịu sự chi phối của hệ thống lớn
cũng như sự tác động của các tiểu hệ thống (hoặc hệ thống con ).
- khái niệm hoạt động báo chí có nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho
rằng đây là hoạt động sản xuất ra sản phẩm báo chí. Do đó, hoạt động báo chí như hoạt
động hàng hóa dịch vụ. Trong khi đó, quan điểm của nhà nước ta, báo chí là một hoạt

1



động tư tưởng văn hóa. Báo chí là một bộ phận của công tác tư tưởng. Mà công tác tư
tưởng là 1 trong 3 hoạt động của Đảng: tổ chức, tư tưởng, kiểm tra.
1.1 Đặc điểm của báo chí, truyền thông.
Báo chí có những tính chất và đặc điểm riêng biệt: Báo chí mang tính lịch sử;
tính quần chúng, báo chí mang tính tư tưởng, báo chí mang tính chính trị, báo chí mang
tính kinh tế, dịch vụ.
Báo chí xuất phát từ nhu cầu thông tin của xã hội nên việc trao đổi thông tin
mang tính hàng hoá. Việc sản xuất ra sản phẩm báo chí để phục vụ cho nhu cầu thông
tin của công chúng tạo ra một mối quan hệ đặc biệt giữa công chúng và cơ quan báo
chí. Báo chí được coi như một loại hàng hoá đặc biệt cho nên việc biến thông tin thành
một thứ sản phẩm đặc sắc, hấp dẫn và đáp ứng nhu cầu thông tin của công chúng là một
việc không máy dễ dàng. Chính vì vậy mà công tác lãnh đạo, quản lý báo chí cũng có
những đặc điểm riêng biệt.
Tính kế thừa: kế thừa lịch sử và phá huy những thành tựu sẵn có của tờ báo là
yêu cầu khách quan đặt ra đối với một lãnh đạo quản lý báo chí.
Tính tư tưởng: Lãnh đạo cơ quan báo chí, truyền thông phải có sự định hướng rõ
ràng về tư tưởng đối với cơ quan báo chí của mình. Một hệ tư tưởng thể hiện rõ nét
trong từ bài viết và trong sản phẩm báo chí.
Tính chính trị trong công tác lãnh đạo quản lý cơ quan báo chí và trong công tác
chỉ đạo của người lãnh đạo quản lý.
1.2 Bản chất của họat động báo chí, truyền thông.
Thứ nhất, là họat động thông tin – giao tiếp xã hội;
Thứ hai, là họat động liên kết (kết nối) xã hội;
Thứ ba, là họat động can thiệp xã hội.
Thứ tư, là họat động chính trị - xã hội.
Thứ năm, là hoạt động kinh tế - dịch vụ xã hội
- Quản lý báo chí có thể phân chia thành hai cấp độ: quản lý vi mô và quản lý vĩ
mô. Quản lý vi mô là quản lý tòa soạn báo chí. Ở cấp độ này, có thể gọi là quản trị tòa
soạn báo chí. Quản lý vĩ mô là quản lý nhà nước về báo chí.



QUẢN LÝ TÒA SOẠN
MÔ HÌNH QUẢN LÝ CỦA ĐÀI PT-TH ĐỒNG NAI
SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ĐÀI PTTH ĐỒNG NAI
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Đài PT-TH Đồng Nai
Sau ngày giải phóng miền Nam 30/4/1975, các phóng viên của Thông tấn xã
Giải phóng khu Đông Nam bộ do đồng chí Trịnh Yến phụ trách vẫn bám sát tình hình
Đồng Nai để thông tin kịp thời các mặt hoạt động, ổn định tình hình an ninh chính trị,
giữ vững thành quả cách mạng của Đồng Nai ra cả nước.
Chỉ một tuần sau đó, Khu ủy miền Đông quyết định xuất bản số báo đầu tiên của
tỉnh Biên Hòa: tờ báo Biên Hòa. Từ đó, Đài Truyền thanh Biên Hòa được gấp rút xây
dựng với máy phát 300W. Cũng trong thời gian này, Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy xây dựng
phương án trình Thường vụ Tỉnh ủy cho xuất bản tờ báo mang tên Đồng Nai do Ban
Tuyên huấn quản lý. Cùng với việc phát hành báo Đồng Nai, Tỉnh ủy chỉ đạo xây dựng
một Đài phát thanh để phủ sóng toàn tỉnh. Đài Đồng Nai giai đoạn đầu tập trung tuyên
truyền việc khôi phục sản xuất, ổn định tình hình đời sống nhân dân, bảo vệ chính
quyền; khắc phục hậu quả thiên tai, kêu gọi toàn dân, toàn dân dồn sức để bảo vệ biên
giới Tây Nam, biên giới phía Bắc, nêu những biện pháp tháo gỡ khó khăn; ủng hộ các
biện pháp, nỗ lực bung ra tìm các mô hình làm ăn mới trong công nghiệp, nông nghiệp
để giữ vững sản xuất, vượt qua khủng hoảng.
Năm 1989, Đài chính thức đổi tên thành Đài PT-TH Đồng Nai. Nhưng trước đó,
tổ truyền hình thuộc Đài với 2 máy quay phim 16 ly mang từ chiến khu ra và do Ty văn
hóa – thông tin chuyển giao năm 1981, với 7 cán bộ, phóng viên đã luôn có mặt ở
những điểm nóng để quay phim, dàn dựng và đưa phát trên Đài Truyền hình thành phố
Hồ Chí Minh. Do yêu cầu của sự phát triển, BCH Tỉnh ủy có nghị quyết về việc xây
dựng Đài Truyền hình. Sau một thời gian chuẩn bị, đến ngày 26/01/1995 sóng truyền
hình Đồng Nai đã được phát thử nghiệm trên kênh 12 VHF, đưa hình ảnh của các hoạt


động kinh tế - văn hóa - xã hội - an ninh quốc phòng của tỉnh, đến nhân dân trong tỉnh

và khu vực.
Hiện nay, Đài PT-TH Đồng Nai đã có nhiều đợt cải tiến chương trình phát thanh
- truyền hình nâng cao chất lượng, phục vụ ngày càng tốt hơn các yêu cầu của Đảng của
Nhà nước. Giai đoạn cuối thập niên 90 (cuối thế kỷ 20), phát thanh Đồng Nai có sự
chuyển biến về chất nhờ tiếp cận công nghệ làm phát thanh mới. Đến tháng 1/1/2000,
đợt cải tiến toàn diện chương trình phát thanh, truyền hình đã được thực hiện cho đến
nay.
Chức năng của Đài PT-TH Đồng Nai : là thu thập và xử lý, cung cấp thông tin
để đáp ứng nhu cầu công chúng xã hội, tham gia vào quá trình phát triển của tỉnh nói
riêng và cả nước nói chung. Chức năng chính của Đài, đó là cơ quan ngôn luận của
Đảng và NN
-

- chức năng chính là ngôn luận. Là diễn đàn của nhân dân, đây là chức

năng xuyên suốt.
Nguyên Tắc. Để thực hiện chức năng này, nguyên tắc chung của Đài là thu thập,
XỬ LÝ, CUNG CẤP T.TIN NHANH NHẤT, CHÍNH XÁC NHẤT, TẠO NÊN SẢN
phẩm BC HẤP DẪN NHẤT, ĐÁP ỨNG NHU CẦU CỦA CÔNG CHÚNG XH. (bảo
đảm tính chính trị, Bảo đảm giá trị văn hóa, khoa học, chất lượng chuyên môn nghề
nghiệp. Nguyên tắc nữa là phải bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, vì vậy, các chức danh
chủ chốt phải là Đảng viên.
Phải bảo đảm tính trung thực, khách quan, các nguyên tắc hoạt động BC phải
được quán triệt trong nguyên tắc hoạt động của tòa soạn
1.2. Thực trạng Đài PT-TH Đồng Nai hiện nay
1.2.1. Tình hình xuất chương trình phát sóng
Từ một kênh phát thanh với thời lượng 3 giờ/ngày, đến nay Đài PT-TH Đồng
Nai đã tăng cả về số kênh lẫn thời lượng phát sóng, đồng thời mở rộng vùng phủ sóng
trên cả 2 lĩnh vực phát thanh và truyền hình. Đến nay Đài PT-TH Đồng Nai hiện có 3
kênh phát sóng ĐN1, ĐN2 và ĐN3, với 10 phòng chức năng. Trong đó: 2 kênh ĐN1,

ĐN2 có thời lượng phát sóng 24/24h. Nội dung chủ yếu tập trung cập nhật, phản ánh


tình hình thời sự, chính trị, kinh tế-xã hội, những vấn đề người dân quan tâm trong tỉnh,
trong nước và thế giới. Hình thức phản ảnh bằng các tin, bài, tiết mục, chuyên mục,
chuyên đề, phóng sự, điều tra…
Đáng chú ý, kể từ năm 2008 thông qua mạng truyền hình cáp của HTVC và
STVC, kênh truyền hình ĐN 1 đã được đưa đến khán giả xem đài ở 38 tỉnh thành trong
cả nước. Đến năm 2011, kênh truyền hình ĐN1 đã được đưa lên mạng truyền hình
internet của Viettel và mạng truyền hình số mặt đất AVG, đi trước 4 năm theo phân bổ
vùng của Bộ Thông tin và truyền thông. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khán
thính giả và yêu cầu hiện đại hóa phát thanh – truyền hình theo hướng đi tắt, đón đầu về
công nghệ, Đài PT-TH Đồng Nai đã tập trung triển khai nhiều giải pháp để xây dựng
Trung tâm Kỹ thuật Phát thanh – Truyền hình và khai thác tốt các công nghệ hiện có.
* Báo Điện tử: Từ ngày 19/11/2003, được sự cho phép của Bộ Văn hóa – Thông
tin tại giấy phép số 24/GP-BC do Cục trưởng Cục Báo chí, Bộ Văn hóa – Thông tin ký
ngày 7/11/2003, Đài PT-TH Đồng Nai đã cho ra mắt trang thông tin điện tử trên mạng
internet

tại

địa

chỉ

www.dnrtv.org.vn,

www.ptthdongnai.org.vn




www.truyenhinhdongnai.vn. Đây là trang thông tin điện tử tổng hợp, gồm các tiết mục
thời sự, tin chính trong ngày, truyền hình trực tuyến, bản tin tiếng nước ngoài, tin thể
thao, bản tin thế giới và các chuyên đề, tiểu mục chọn lọc… dựa trên bộ đếm của
website, từ ngày thành lập đến nay đã có trên 5.000.000 lượt truy cập.
Năm 2010, Đài PT-TH Đồng Nai cho ra mắt Tạp chí Truyền hình Đồng Nai làm
phong phú thêm các loại hình thông tin báo chí của Đài PT-TH Đồng Nai. Như vậy, Đài
PT-TH Đồng Nai có 4 loại hình báo chí gồm: Truyền hình, Phát thanh, Báo in và Báo
mạng.
1.2.2. Tổ chức bộ máy, nhân sự
1.2.2.1. Tổ chức bộ máy:
Căn cứ Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy định
về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế
và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu;


Căn cứ Thông tư số 71/2006/TT-BTC ngày 09/8/2006 của Bộ Tài chính về
hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của
Chính phủ; Xét đề nghị của Đài PT - TH Đồng Nai tại Tờ trình số 289/ĐPTTH-TCHC
ngày 09/11/2011, Cơ cấu tổ chức của Đài gồm:
1. Các phòng chức năng, nghiệp vụ:
a) Phòng Tổ chức Hành chính;b) Phòng Kế hoạch Tài vụ; c) Phòng Thời
sự;d)Phòng Chuyên mục; đ) Phòng Khoa giáo; e) Phòng Vệ tinh; g) Phòng Phát thanh;
h) Phòng Văn nghệ; i) Phòng PT - TH Online; k) Phòng Thể thao; l) Phòng Phim Tài
liệu; m) Phòng Quản lý sự nghiệp (Truyền thanh, các trạm phát lại).
Các phòng chức năng, nghiệp vụ thuộc Đài có Trưởng phòng; giúp việc Trưởng
phòng có không quá 02 Phó Trưởng phòng.
2. Các đơn vị trực thuộc:
a) Trung tâm Dịch vụ Phát thanh - Truyền hình;
b) Trung tâm Tư vấn Dịch vụ kỹ thuật Phát thanh - Truyền hình;

c) Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình;
d) Trung tâm Đào tạo nghiệp vụ.
Các đơn vị trực thuộc Đài có Giám đốc; giúp việc Giám đốc có không quá 02
Phó Giám đốc.
Trưởng các bộ phận trực thuộc đều do đảng viên phụ trách. Cán bộ trưởng phòng
ban và tương đương có trình độ đại học, có 3 đồng chí trình độ trên đại học
1.2.2.2 Nhân sự:
Đài PT-TH Đồng Nai là đơn vị hành chính sự nghiệp có thu với nhân sự
140 người.( gồm 100 nam, hơn 40 nữ). Trong đó, khoảng 2/3 nhân viên thuộc diện hợp
đồng dài hạn. Số còn lại là hợp đồng ngắn hạn
1.2.2.3. Về tài chính
* Kinh phí hoạt động:
Là đơn vị sự nghiệp có thu, Đài PT-TH Đồng Nai đã cố gắng khai thác thêm
nguồn thu từ quảng cáo, kinh phí hỗ trợ tuyên truyền và một số nguồn thu khác… để có
thêm nguồn kinh phí hoạt động.


Nhìn chung, nguồn thu chủ yếu của đài từ nguồn quảng cáo. Năm 2011, nguồn
thu từ quảng cáo gần 100 tỷ đồng. Năm 2012, thu trên 120 tỷ đồng,
* Về cơ sở vật chất, điều kiện làm việc:
- Về diện tích, khuôn viên: Tổng diện tích khuôn viên: khoảng 6000 tại đường
Đồng Khởi, phường Tam Hòa, TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Hiện Đài PT-TH Đồng
Nai đã tổ chức khởi công xây dựng Trung tâm kỹ thuật PTTH. Trung tâm kỹ thuật PTTH tỉnh Đồng Nai có tổng vốn đầu tư khoảng 214 tỷ đồng. Dự kiến công trình này sẽ
thi công trong khoảng 14 tháng.
- Về trang thiết bị phục vụ tác nghiệp: Đài có 2 xe màu chuyên dụng để thực
hiện các chương trình trực tiếp. Ngoài ra, mỗi phóng viên quay phim còn được trang bị
camera phục vụ tác nghiệp
1.2.3. Đánh giá chung
1. 2.3.1. Ưu điểm:
- Đài PT-TH Đồng Nai có chức năng là cơ quan ngôn luận của đảng bộ, chính

quyền và nhân dân, đồng thời là cầu nối thông tin giữa Đảng, chính quyền với nhân dân
địa phương. Điều đáng ghi nhận là trong những năm gần đây, nhiều tác phẩm của đài
liên tục đoạt các giải thưởng báo chí của tỉnh, giải chuyên ngành Trung ương, đặc biệt
là giải báo chí quốc gia. Đài Đồng Nai cũng là đài duy nhất trên cả nước 2 năm liền đạt
giải A giải báo chí Quốc Gia
- Trình độ chuyên môn, trình độ chính trị, ngoại ngữ, tin học của đội ngũ cán bộ,
phóng viên, biên tập viên cơ bản đồng đều, đạt tiêu chuẩn cán bộ viên chức của ngành.
Hầu hết có năng khiếu nghiệp vụ, có tinh thần ý thức trách nhiệm và tự giác cao trong
việc thực hiện nhiệm vụ được giao, góp phần giữ được chất lượng nội dung và hình
thức tờ báo hình, hoàn thành cơ bản các nhiệm vụ, mục tiêu đã đề ra…
- Công tác đào tạo bồi dưỡng trình độ về mọi mặt ngày càng được chú trọng.
Đặc biệt trong bối cảnh khó khăn chung của đời sống kinh tế năm qua và thị trường báo
chí ngày càng phát triển mạnh, thế nhưng đài vẫn giữ ổn định về chất lượng; nguồn thu
từ quảng cáo, thông tin dịch vụ đáp ứng việc giải quyết cơ bản những hoạt động, góp
phần giảm nguồn chi từ nguồn ngân sách.


1.2.3.2. Nhược điểm:
- Nội dung của các chương trình phát sóng còn thiếu những bài viết mang tính
dự báo, phân tích, lý giải vấn đề, chưa thật sự phản ánh được các góc cạnh của đời sống
trong tỉnh, chưa mang đậm bản sắc Đồng Nai; việc cập nhật thông tin còn chưa nhanh
nhạy, kịp thời; việc tuyên truyền cho công tác xây dựng Đảng tuy đều đặn hơn nhưng
vẫn còn chưa sâu; thiếu những bài phân tích, lý giải những vấn đề đang đặt ra trong
công tác xây dựng Đảng…
- Báo điện tử còn đơn điệu về nội dung, hình thức chưa sinh động, chưa tận dụng
hết các ưu thế của một tờ báo điện tử. Thông tin đăng tải còn chậm, chủ yếu cập nhật
thông tin từ chương trình thời sự
- Bộ máy tổ chức hoạt động không đều; bên cạnh đó, hệ thống các quy chế, quy
định còn thiếu, đang được tiếp tục hoàn thiện và bổ sung...
- Việc đào tạo, nâng cao trình độ về chính trị còn hạn chế; việc quy hoạch đội

ngũ cán bộ phụ trách phòng, trung tâm chậm.
1.2.3.3. Nguyên nhân ưu khuyết điểm:
* Khách quan:
- Xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng, sự phát triển vượt bậc của khoa
học-công nghệ, cùng với sự xuất hiện các loại hình thông tin phi truyền thống (báo điện
tử, mạng xã hội, blog...) đang thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế
tri thức và thách thức các loại hình thông tin truyền thống.
- Sự suy giảm tăng trưởng kinh tế toàn cầu ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng và
phát triển của đất nước, ảnh hưởng nhất định đến cuộc sống của mọi người dân, trong
đó có người lao động.
* Chủ quan:
- Lãnh đạo các phòng chuyên môn còn thiếu và kiêm nhiệm nhiều việc, lại sa đà
vào công tác chuyên môn nên thiếu thời gian đầu tư vào việc hoàn thiện một số quy
chế, chính sách không còn phù hợp như: Quy chế chuyên môn, quy chế chi tiêu nội
bộ… Công tác quy hoạch đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ, phóng viên và người làm
báo theo hướng đổi mới còn chậm..


- Chậm xây dựng chiến lược phát triển đài theo kế hoạch dài hạn…
- Chưa chủ động tổ chức định kỳ các đợt khảo sát, thăm dò dư luận, nắm bắt tình
tình về nhu cầu, thị hiếu của bạn xem đài và yêu cầu của các cấp Đảng ủy, Chính
quyền, các cơ quan, đơn vị, các ngành đối với Đài.
- Một số ít phóng viên chưa chú trọng việc tự đào tạo, nhất là về kỹ năng nghiệp
vụ và ngoại ngữ…
MÔ HÌNH TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG CỦA ĐÀI PT-TH ĐỒNG NAI VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
2.1.Mô hình tổ chức hoạt động
2.1.1. Mô hình tổ chức hoạt động cũ
Đài PT-TH Đồng Nai có chức năng là cơ quan ngôn luận của đảng bộ, chính
quyền và nhân dân, đồng thời là cầu nối thông tin giữa Đảng, chính quyền với nhân dân

địa phương, nhiều năm qua, Đài đã tự chủ được một phần tài chính và có nguồn thu từ
quảng cáo khá ổn định. Chính vì thế, Đài có sự chủ động trong việc tuyển nhân sự, nhất
là đội ngũ biên tập, phóng viên.
Trước năm 2000, Đài tổ chức hoạt động theo mô hình sau:


Ban Giám Đốc

Phòng Phát thanh

Phòng Phát sóng

Phòng HC - KHTV

Phòng truyền hình
Ưu điểm lớn nhất của mô hình này là bộ máy tổ chức của đài khá tinh gọn, đơn
giản với Ban giám đốc và các phòng chuyên môn. Trong đó, Ban Giám đốc có vị trí cao
nhất, các phòng chuyên môn có vị trí ngang nhau trong quản lý, điều hành.
Theo mô hình này, Phòng hành chính chịu trách nhiệm chính về công tác tài
chính, nhân sự, quảng cáo…Các phòng còn lại chịu trách nhiệm điều phối, quản lý
phóng viên, lên đề cương, kế hoạch tuyên truyền. Bài vở của phóng viên giao trực tiếp
cho Trưởng phòng biên tập và lên kế hoạch phát sóng. Ngoài ra, Lãnh đạo phòng cũng
là ngươi xử lý đơn thư bạn đọc, phân công phóng viên viết bài theo đơn thư phản ánh
bạn đọc gửi đến và những vấn đề mà bạn đọc quan tâm.

-

Ưu điểm:
Bộ máy đơn giản, gọn nhẹ. Lãnh đạo phòng phát thanh, truyền hình chủ


động trong việc phân công lĩnh vực theo dõi, lên đề cương tuyên truyền, biên tập bài vở
và lên kế hoạch tuyên truyền
- Tránh được tình trạng chồng chéo trong nội dung tuyên truyền


Nhược điểm:


-

Tập trung đầu mối tuyên truyền về 2 phòng: Phát thanh và Truyền hình dẫn

đến việc tuyên truyền sẽ dàn trải, thiếu tính chuyên sâu
2.1.2. Mô hình mới
Ngày 9 tháng 11 năm 2011, Đài PT-TH Đồng Nai đã xây dựng mô hình tổ
chức hoạt động mới như sau:
2.1.2. Mô hình mới
Ngày 26-11-2010, Ban chấp hành Trung ương ban hành Quy định số 338 về
chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy cơ quan báo của Đảng bộ tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương. Căn cứ vào quy định này, Báo Đồng Nai đã xây dựng mô hình tổ
chức hoạt động mới như sau:


Giám Đốc
Phó GĐ phụ
trách KTế
HCTS
Phòng
TCHC


Phòng
KH-TV

Trung
Tâm
DVPT-TH

Phó GĐ phụ
trách KT
Phòng
Quản lý sự
nghiệp

Phó GĐ Phụ
trách ND
udddungdung

Phòng
Văn
nghệ

Phòng
TS

Phòng
phát thanh

Phòng
Chuyên
mục


Phòng khoa
giáo

Trung
tâm
TVDV
KT PTTH

Phòng vệ
tinh

Trung
tâm
KT&S
XCT

Phòng PTTH
OnLine

Trung
tâm
đào
tạo
ngiệp
vụ

Phòng thể
thao


Theo mô hình này, Giám Đốc giữ vị trí cao nhất, quản lý tất cả các trung tâm,
phòng chuyên môn. Trong đó, Đài đã tách hoạt động quảng cáo ra khỏi Phòng hành
chính, thành lập Trung tâm Dịch vụ Phát thanh- Truyền hình. Trung tâm này chịu trách
nhiệm với Phó GĐ phụ trách kinh tế về việc tiếp nhận, thu tiền quảng cáo, thực hiện
viết tin, bài PR cho đơn vị, doanh nghiệp. Trung tâm Dịch vụ Phát thanh- Truyền hình
và các Trung tâm khác của đài đều là đơn vị trực thuộc đài, có tài khoản và con dấu
riêng theo quy định. Ngoài Trung tâm Dịch vụ Phát thanh- Truyền hình, Phó GĐ phụ
trách kinh tế còn phụ trách các phòng: Tổ chức hành chính, kế hoạch tài vụ, phòng quản
lý sự nghiệp. Còn phó GĐ kỹ thuật phụ trách phòng phim tư liệu và Trung tâm Dịch vụ

Phòng
phim tài
liệu


kỹ thuật PT-TH, Trung tâm kỹ thuật và sản xuất chương trình, trung tâm đào tạo nghiệp
vụ. Các phòng còn lại do Phó GĐ nội dung phụ trách.
Đài đã cho giải tán Phòng truyền hình để thành lập các phòng chuyên môn, gồm:
Thời sự, chuyên mục, khoa giáo, vệ tinh, phát thanh, Online , thể thao… Phụ trách các
phòng chuyên môn này là các trưởng phòng, chịu trách nhiệm lên đề cương tuyên
truyền, biên tập bài vở, lên kế hoạch phát sóng, phân công trực tiếp phóng viên tham
gia tuyên truyền trên các lĩnh vực đã phụ trách.
Mô hình tổ chức hoạt động của Đài cũng đã tăng cường vai trò của Ban
Giám đốc trong việc tương tác với các phòng chuyên môn. Cứ 3 lần trong tuần, Ban
Giám đốc không chỉ họp mặt lãnh đạo các phòng để nghe báo cáo nội dung, kế hoạch
tuyên truyền mà còn định hướng nội dung truyên truyền trọng tâm cho các phòng.

-

Ưu điểm:

Mô hình tổ chức hoạt động của Đài Đồng Nai đảm bảo được chức năng,

nhiệm vụ của tờ báo hình, đặc biệt là nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ tỉnh.
-

Vai trò điều phối của Ban Giám đốc đã được phát huy, tránh được sự chồng

chéo trong nội dung tuyên truyền
-

Các trưởng phòng hoàn toàn chủ động trong việc xây dựng đề cương tuyên

truyền, phân công phóng viên, chịu trách nhiệm về nội dung tuyên truyền

-

Nhược điểm:
Mô hình này bố trí nhiều phòng, ban tách rời, do đó tính liên kết, chia sẻ

giữa các bộ phận là không cao, khả năng giao lưu giữa nhân viên bị hạn chế, một phần
do bị ngăn cách bởi các phòng ốc.
-

Cơ cấu bộ máy cồng kềnh, hành chính hóa, do đó dễ dẫn đến tình trạng Ban

giám Đốc xa rời nhân viên cấp dưới. Mô hình này cũng dễ gây tốn kém, lãng phí.( mỗi
thành viên ban giám đốc đều có phòng riêng, điều kiện làm việc của lãnh đạo có sự ưu
đãi hơn so với người lao động)



-

Lãnh đạo dễ quan liêu, không quản lý được nguồn nhân lực.( cũng như

nhiều cơ quan khác ở Đồng Nai, Đài PT-TH Đồng Nai không khắc phục được tình trạng
nhận nhân viên theo kiểu giải quyết chế độ chính sách.
- Tình trạng chung ở một số đài hiện nay là lãnh đạo các phòng chuyên được
quyền kiểm duyệt tin, bài trước khi phát sóng( không cần thông quan Ban Giám đốc) vì
vậy, yêu cầu các trưởng phòng chuyên môn phải vững tay nghề về cả nội dung và hình
ảnh. Do đó, nếu các trưởng phòng không có kinh nghiệm và chuyên môn sẽ khó đáp
ứng được yêu cầu của công việc; chất lượng nội dung tuyên truyền trên sóng sẽ bị ảnh
hưởng.
2.2.Định hướng phát triển của Đài Đồng Nai
2.2.1.Mục tiêu phát triển đến năm 2015.
* Định hướng phát triển:
+ Tiếp tục cải tiến chất lượng sóng, cải tiến nội dung và hình thức thông tin, mở
thêm các tiết mục, chuyên mục phản ảnh cuộc sống đời thường.
+ Tiếp tục nâng cao chất lượng Báo điện tử; nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin
ngày càng tăng trong thời đại công nghệ số. Thông tin trên Báo điện tử phải được cập
thường xuyên, liên tục, phong phú, đa dạng, và có tính tương tác cao. Xây dựng Báo điện
tử đạt đến trình độ cao, liên thông với các báo điện tử khác, phù hợp với xu thế phát triển của
một tỉnh công nghiệp hiện đại, trở thành kênh thông tin đối nội, đối ngoại quan trọng của tỉnh.
2.2.2. Các nhiệm vụ cụ thể
2.2.2.1. Đối với nội dung chương trình phát sóng
Về nội dung, tuyên truyền, phổ biến, góp phần xây dựng và bảo vệ đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thành tựu của tỉnh và đất
nước theo đúng tôn chỉ, mục đích của Báo và định hướng của Đảng bộ tỉnh; phản ánh
trung thực những tâm tư, nguyện vọng chính đáng, những kiến nghị, kinh nghiệm và
sáng kiến của mọi tầng lớp nhân dân; phát hiện, nêu gương người tốt, việc tốt, nhân tố
mới, tạo được sự đồng thuận trong ý Đảng với lòng dân; đấu tranh phòng, chống và

ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật, các hành vi tiêu cực, tham nhũng, lãng phí,
quan liêu và các tệ nạn xã hội khác; đấu tranh kiên quyết, có trọng tâm, trọng điểm,


chính xác, đúng pháp luật; kịp thời chống lại các thông tin sai trái, xuyên tạc của các thế
lực thù địch nhằm phá hoại sự nghiệp cách mạng của nước ta.
* Báo điện tử:
Tiếp tục xây dựng “Đề án nâng cấp toàn diện Báo điện tử” trong năm 2013 đảm
bảo đáp ứng yêu cầu chuyển tải, cập nhật thông tin trong tỉnh, trong nước, trên thế giới
24/24 giờ trong ngày; tổ chức diễn đàn trực tuyến; tường thuật trực tiếp các hoạt động
thời sự, chính trị quan trọng của tỉnh.
2.2.2.2. Hoạt động quảng cáo:
- Trung tâm dịch vụ PT-TH từng bước mở rộng thêm các hoạt động theo chức
năng đã được duyệt, như : tăng hoạt động quảng cáo trên báo diện tử, thông tin quảng
bá, panô quảng cáo, các dịch vụ liên quan đến báo chí, truyền thông, tổ chức sự kiện …
- Xây dựng Quy chế quản lý tài chính và hoạt động quảng cáo nhằm sử dụng
nguồn thu từ hoạt động của Trung tâm một cách hiệu quả nhất…
2.3. Những vấn đề đặt ra đối với mô hình tổ chức của Đài Đồng Nai và kiến
nghị một vài giải pháp
2.3.1. Những vấn đề đặt ra
Hiện nay, các cơ quan báo chí địa phương hoạt động theo nhiều mô hình khác
nhau, song mô hình mà Đài Đồng Nai thực hiện là khá phổ biến. Ưu điểm của mô hình
này là thể hiện rõ quyền lực của từng cấp lãnh đạo, có sự phân công trách nhiệm rõ ràng
giữa các bộ phận. Ban Giám đốc chịu trách nhiệm điều hành sự phối hợp giữa các
phòng, Trung tâm và trực tiếp chỉ đạo các phòng chức năng. Lãnh đạo các phòng có
trách nhiệm đôn đốc phóng viên, biên tập viên thực hiện tin, bài theo đúng kế hoạch.
Tuy nhiên, để phát triển, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của bạn xem đài, mô hình này
còn bộc lộ một số hạn chế cần khắc phục. Cụ thể: Mô hình này bố trí nhiều phòng, ban
tách rời, do đó tính liên kết, chia sẻ giữa các bộ phận là không cao, khả năng giao lưu
giữa nhân viên bị hạn chế, một phần do bị ngăn cách bởi các phòng ốc.

Mỗi phòng đảm trách nhiều chuyên mục, tiết mục, trong khi phóng viên ít chưa
thể đáp ứng được yêu cầu tuyên truyền của phòng. Đội ngũ cộng tác viên của Đài còn
mỏng, chất lượng yếu nên dẫn đến việc thiếu bài vở hoặc bài vở có chất lượng thấp. Do


đó, để đảm bảo cho hoạt động của các phòng chuyên môn, cần thiết phải có sự bổ sung
về nhân sự, nhất là đội ngũ phóng viên, biên tập viên.
- Về công tác phối hợp tuyên truyền. Lãnh đạo giữa các phòng thiếu sự chủ động
trong việc phối hợp tuyên truyền. Do vậy, đã có trường hợp cùng một sự kiện nhưng có
đến 4 phóng viên quay phim của các phòng Thời sự, Khoa giáo, Chuyên mục, Văn nghệ
đến ghi hình( lẽ ra chỉ cần một hoặc tối đa 2 quay phim là có thể thực hiện các chương
trình), trong khi các phòng đang thiếu phóng viên quay phim
2.3.2.Kiến nghị một vài giải pháp
2.3.2.1.Giải pháp về tổ chức bộ máy (nhân lực):
- Công tác tổ chức, quy hoạch cán bộ, quản lý nhân sự cần có kế hoạch chi tiết,
cụ thể, gắn với nhiệm vụ công tác của Đài.
- Công tác tuyển dụng: áp dụng phương thức thi tuyển để chọn người có trình độ
phù hợp với chức danh tuyển dụng, kết hợp với việc kiểm tra, sát hạch trong công việc
thực tiễn
- Sau thời gian hoạt động nhất định, đi đôi với việc sắp xếp tổ chức, cần thực
hiện tinh giảm biên chế, tiến hành rà soát, phân loại lao động, điều chỉnh cơ cấu và có
biện pháp đào tạo, đào tạo lại một cách hợp lý nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ, đáp ứng yêu cầu đặt ra trong thời kỳ mới. Trong quá trình quản lý, sử dụng cán bộ
cần vận dụng triệt để nguyên tắc” gắn chặt quyền lợi với trách nhiệm thực hiện nhiệm
vụ” có chính sách thu nhập tương xứng, có chế độ khen thưởng kịp thời để động viên
cán bộ, viên chức…
2.3.2.2 Về công tác đào tạo, bồi dưỡng:
- Làm tốt công tác quy hoạch; tổ chức, sắp xếp nhân sự các bộ phận; xây dựng
phương án về kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, phóng viên, nhân viên nâng
cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn và trình độ chính trị; nâng cao chất lượng tuyển

dụng và chính sách thu hút nhân lực, có quy chế tuyển dụng cán bộ, công chức, thực
hiện theo quy trình chặt chẽ, công khai…
- Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, chính trị, ngoại
ngữ cho cán bộ, nhân viên theo đúng quy hoạch được duyệt, đảm bảo đáp ứng nhiệm vụ


được giao. Phấn đấu đến năm 2015, tất cả cán bộ quản lý các phòng, ban chuyên môn,
biên tập viên, phóng viên phải đạt chuẩn theo quy định. Có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
đảng viên để tạo nguồn kế cận cho các chức danh.
Ngoài ra, tạo điều kiện cho cán bộ, phóng viên, nhân viên tham gia các lớp đào
tạo chuyên ngành, nâng cao trình độ, các khoá đào tạo ngắn hạn, các lớp học chuyên đề,
tập huấn.
2.3.2.3 Về Nâng cao chất lượng, nội dung thông tin
Cần năng động sáng tạo trong việc cải tiến nâng cao chất lượng, nội dung thông
tin, nâng cao tính chuyên nghiệp, tăng khả năng cạnh tranh, khai thác và phát huy khả
năng đưa tin thời sự trong nước cũng như vùng, khu vực.

II-Vai trò của báo chí và quản lý nhà nước về báo chí
a-Vai trò của báo chí trong đời sống xã hội
Báo chí có chức năng, vai trò ngày càng quan trọng trong đời sống xã hội. Đó là
các chức năng thông tin, chức năng tư tưởng, chức năng khái sang - giải trí, chức năng
tổ chức - quản lý, giám sát và phản biện xã hội, chức năng kinh tế - dịch vụ.
- Thông tin là chức năng cơ bản, chức năng khởi nguồn của bảo chí. Báo chí ra
đời là để đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu thông tin giao tiếp của con người và xã hội. Xã hội
càng phát triển, con người càng văn minh thì nhu cầu thông tin giao tiếp càng cao, càng
đa dạng phong phú. Quá trình đáp ứng nhu cầu này làm cho báo chí phát triển nhanh
chóng. Một số yêu cầu của chức năng thông tin.
- Chức năng tư tưởng là chức năng xuyên suốt, thể hiện tính mục đích của báo
chí. Với chức năng này, theo quan điểm của Đảng ta, báo chí là công cụ, phương tiện quan trọng
dùng để truyền bá hệ tư tưởng của Đảng, giáo dục lý luận Mác – Leenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và

làm cho hệ tư tưởng - lý luận này trở thành chủ đao, chiếm ưu thế trong đời sống tinh thần, tư tưởng
của đâng đảo nhân dân. Báo chí là một binh chủng xung kích, đi đầu trong công tác tư tưởng của
Đảng.


- Chức năng khai sáng – giải trí được hiểu rằng, báo chí không chỉ là kênh thông
tin - truyền thông quan trọng cung cấp thông tin, kiến thức, mà còn là diễn đàn trao đổi,
chia sẻ kỹ năng và kinh nghiệm phong phú nhằm nâng cao trình độ dân trí, đáp ứng nhu
cầu phát triển bền vững. Văn hóa là hiện tượng xã hội đặc biệt. Hệ thống giá trị văn hóa
được tồn tai và phát triển trong quá trình giao lưu và truyền tải từ người này sang người
khác, từ cộng đồng này sang cộng đồng khác và từ thế hệ này đến thế hệ khác. Báo chí
là kênh quan trọng cung cấp thông tin, kiến thức, giáo dục, giao lưu, truyền tải, tiếp
biến văn hóa có hiệu quả nhất.
Giải trí là nhu cầu ngày càng đòi hỏi cao trong điều kiện kinh tế thị trường. Đó là
quá trình báo chí tham gia và tạo điều kiện giúp công chúng sử dụng thời gian rỗi hợp
lý, đáp ứng nhu cầu cân bằng trạng thái tâm lý để tái sản

xuất sức lao động. Trên các

loại hình báo chí và các dạng thức truyền thông hiện đại ngày càng có nhiều phương
thức giải trí thú vị và hữu ích, nhất là truyền hình, phát thanh, báo mạng điện tử và
mạng xã hội. Giải trí cũng là cách thức phổ biến, bảo vệ hệ giá trị văn hóa.
- Chức năng quản lý, giám sát và phản biện xã hội của báo chí thể hiện ở chỗ,
báo chí duy trì và phát triển mối liên hệ chặt chẽ giữa chủ thể và khách thể quản lý
thông qua việc duy trì và phát triển dòng thông tin hai chiều, bảo đảm cho các quyết
định quản lý được thông suốt và thực thi,...Giám sát có thể được hiểu là “theo dõi, kiểm
tra xem có thực hiện đúng những điều quy định không”. Điều đó có nghĩa là, giám sát
bao gồm hai quá trình, theo dõi và kiểm tra. Giám sát có ý nghĩa rất quan trọng trong
việc bảo đảm cho hoạt động được thực hiện đúng mục đích và đạt hiệu quả tốt nhất
trong điều kiện có thể, theo mục tiêu, chương trình, kế hoạch đã đề ra.

Giám sát xã hội của báo chí là quá trình báo chí bằng mọi phương thức huy động
sức lực, trí tuệ và cảm xúc của đông đảo nhân dân với tinh thần trách nhiêm chính trị
cao nhất trong việc theo dõi, kiểm tra quá trình thưc hiện đường lối, chủ trương chính
sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, bảo đảm đạt được mục đích cao nhất trong điều
kiện có thể. Giám sát xã hội của báo chí bao gồm các bình diện khác nhau, như theo
dõi, kiểm tra phát hiện những nơi làm đúng, làm tốt để biểu dương và nhân rộng; theo
dõi và kiểm tra để phát hiện những nơi làm trệch, làm sai để uốn nắn và đấu tranh, bảo


đảm cho đường lối, chính sách chủ trương của Đảng, pháp luật Nhà nước được thực thi
đúng trong thực tế…
- Chức năng kinh tế – dịch vụ. Vấn đề kinh tế và dịch vụ xã hội của báo chí,
truyền thông hiện nay.
Chức năng này xuất phát từ đòi hỏi khách quan của họat động báo chí trong nền
kinh tế thị trường; đồng thời theo quan điểm chỉ đạo của các văn kiện chính trị của
Đảng và Nhà nước, như Nghị quyết TW 5 (khóa VIII), các văn bản dưới luật…
- Vấn đề kinh tế báo chí (Quan điểm, cơ sở lí luận – thực tiễn của vấn đề,
phương tiện và phương thức, ,…)
- Vấn đề quảng cáo báo chí (Quan điểm, cơ sở lí luận – thực tiễn của QC, mấy
vấn đề về quảng cáo hiện nay…)
- Vấn đề dịch vụ xã hội của báo chí.
b.Vai trò của quản lý nhà nước về báo chí.
Nhiều nước phương tây cho rằng quản lý là hạn chế quyền của báo chí.
*Theo phương tây: Tự do tư tưởng – tự do ngôn luận – tự do báo chí. Tức tự do
báo chí nằm trong tự do ngôn luận và tự do tư tưởng. Họ chỉ cấm đoán khi nào báo chí
hô hào lật đổ chính quyền, còn được quyền chỉ trích, phê phán cái sai.
*Ở ta, báo chí truyền thông là hoạt động xã hội rộng lớn, nhất là trên lĩnh vực tư
tưởng, nên quản lý báo chí là đòi hỏi khách quan. Lý do:
-Quản lý nhà nước về báo chí là phương thức bắt buộc để huy động tối đa nguồn
năng lực của báo chí vào sự phát triển của đất nước bền vững.

-Làm cho báo chí có sức mạnh, vai trò phát huy cao nhất để phục vụ sự nghiệp
cách mạng của Đảng, nhà nước, đồng thời tạo điều kiện cho báo chí phát triển vì sự
nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
-Báo chí gắn liền với tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí, do đó quản lý
nhà nước về báo chí là nhằm đảm báo cho báo chí và tự do ngôn luận trên báo chí hoạt
động trong khuôn khổ pháp luật vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công
bằng văn minh.


Mặc khác, dư luận báo chí gắn liền với dư luận xã hội, nên quản lý nhà nước về
báo chí là nhằm đảm bảo cho báo chí phát huy vai trò định hướng dư luận xã hội không
chỉ trong nước, trong khu vực mà còn có tầm ảnh hưởng thế giới. Dư luận xã hội luôn
đúng, còn dư luận báo chí không phải lúc nào cũng đúng.
Khái quát tình hình báo chí, truyền thông hiện nay
Báo chí hiện đại phát triển trong tình hình cuộc đấu tranh chính trị, tư tưởng trên
thế giới ngày càng tinh vi, phức tạp. Các thế lực chính trị trên thế giới ngày càng sử
dụng báo chí, truyền thông, nhất là mạng xã hội như một công cụ thể hiện quyền lưc và
ảnh hưởng chính trị không thể thiếu được. Báo chí, truyền thông hiện đại phát triển
trong những điều kiện hết sức thuận lợi nhưng cũng lắm nguy cơ, thách thức.
2.5.1. Tình hình báo chí thế giới.
Dưới tác động của cuộc cách mang khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ
thông tin, báo chí đã và đang phát triển nhanh chóng, toàn diện và ngày càng phát huy
sức mạnh như một vũ khí chính trị tư tưởng rất lợi hại nhất. Xu hướng hình thành các
tập đoàn báo chí - truyền thông đa quốc gia, xuyên lục địa, cùng với làn sóng toàn cầu
hóa TTĐC đang làm gia tăng tính phức tap của cuôc đấu tranh tư tưởng trên pham vi khu
vực và toàn cầu.
Mặt khác, sư chi phối của quyền lực chính trị và kinh tế đã và đang tao nên “làn
sóng xâm lăng” từ các nước giàu, các nước mạnh đến các nước đang phát triển. Biên
giới mềm giữa các quốc gia đang bị xóa nhòa, “làn sóng xâm lăng” này đang đặt các
nước đang phát triển, các khu vực đang phát triển trước yêu cầu phải tăng cường đoàn

kết, liên kết để có thể nâng cao sức đề kháng và bảo vệ sư ổn định và tính bền vững
trong quá trình phát triển của mình.
Đối với các nước phương Tây, báo chí – truyền thông không chỉ là công cụ đấu
tranh chính trị tư tưởng, là diễn đàn chia sẻ thông tin, kiến thức, kỹ năng và kinh
nghiệm, mà còn là một ngành kinh doanh có khả năng đem lại lợi nhuận

khổng lồ. Ở

đó, bản chất hoạt động báo chí không chỉ là hoạt động chính trị - xã hội, hoạt động
TTĐC, mà còn là hoạt động kinh doanh siêu lợi nhuận.


Với sự phát triển của hệ thống internet toàn cầu và báo mạng điện tử, các loại
hình báo chí đang có sự cạnh tranh và hợp tác phát triển. Ngày nay, với sự ra đời phát
triển của mạng internet, các mạng xã hội, truyền thông xã hội đã và đang tạo điều kiện
cho blog phát triển như một làn sóng, cùng với những dạng thức truyền thông mới trên
mạng internet, đã hình thành cộng đồng cư dân mạng, nhất là trong giới trẻ và xuất hiện
những khái niệm mới trong hoạt động báo chí, truyền thông. Những hiện tượng này
đang đặt ra những vấn đề thách thức báo chí truyền thông, cũng như công tác quản lý
nhà nước về báo chí của các quốc gia.
Mấy vấn đề của báo chí, truyền thông thế giới:
Vấn đề toàn cầu hóa; đại chúng hóa và phi đại chúng hóa TTĐC;
Vấn đề hội tụ truyền thông và truyền thông đa phương tiện;
Vấn đề sáp nhập, thôn tính các Tập đoàn truyền thông;
Vấn đề mâu thuẫn giữa lơi ích chính trị - xã hội và lợi ích kinh tế;
Vấn đề chuyên nghiệp hóa và phi chuyên nghiệp hóa;
Vấn đề đạo đức và phi đạo đức trong họat động báo chí;
Vấn đề tự do họat động báo chí và tự do ngôn luận trên báo chí, TT;
Vấn đề báo chí và hai gọng kìm chi phối;
Mấy vấn đề toàn cầu báo chí tham gia giải quyết

Vấn đề chiến tranh và hòa bình;
Vấn đề môi trường và biến đổi khí hậu
Vấn đề dịch bệnh, y thế và sức khỏe cộng đồng
2.5.2. Báo chí nước ta.
- Về diện mạo của sự phát triển: số lượng cơ quan báo chí, số đầu sản phẩm báo
chí, số nhà báo, kỹ thuật và công nghệ làm báo, doanh thu báo chí…
- Một số vấn đề đặt ra.
Báo chí nước ta cũng còn những yếu kém, khuyết điểm như Đảng ta đã đánh giá
trong NQ TW 5 khóa X. Đó là xu hướng thương mại hóa báo chí, giật gân câu khách
chạy theo thị hiếu tầm thường của một nhóm nhỏ công chúng, thông tin sai sự thật ảnh
hưởng đến lợi ích, danh dự của tổ chức và công dân,... Do đó, báo chí cần đươc tăng


cường tính chuyên nghiệp; tăng cường sự lãnh đạo, quản lý để tiếp tục phát huy những
thành tưu, hạn chế những tồn tại, khuyết điểm. Tăng cường quản lý nhà nước về báo chí
là một giải pháp cơ bản, cấp thiết nhằm bảo đảm cho báo chí phát triển đúng mục đích,
phát triển cân đối, hài hòa và phát huy tốt nhất năng lực và hiệu quả hoạt động của nó
trong bối cảnh hội nhập toán cầu.
- Nhà báo là khái niệm dùng để chỉ những người tiến hành các loại hình lao đông
trong quá tình thu thập, xử lý và chuyển tải thông tin. Đó là lao động tổ chức và quản lý, lao động biên
tập, lao động tác giả và lao động kỹ thuật - dịch vụ.
- Trong hệ thống chính trị của nước ta, nhà báo không chỉ là chủ thể hoạt động
báo chí bị quản lý với tư cách là khách thể, mà còn là thành tố tham gia tích cực vào
quá trình quản lý nhà nước về báo chí. Nhà báo không chỉ có quyền hạn và nghĩa vụ
thực hiện tự do báo chí và tự do ngôn luận trên báo chí của công dân, mà còn tham gia
giám sát xã hội bảo đảm cho quá trình quản lý đạt được hiệu quả; góp phần tuyên
truyền pháp luật, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho nhân dân cũng chính là góp
phần tham gia quản lý nhà nước về báo chí.
Ngoài những vấn đề như báo chí thế giới, báo chí nước ta hiện nay cần quan
tâm giải quyết:

- Vấn đề giữa số lượng sản phẩm và chất lượng thông tin;
- Vấn đề cạnh tranh thông tin sự sự kiện và năng lực phân tích, bình luận;
- Vấn đề mâu thuẫn giữa tôn chỉ mục đích…với vai trò xã hội;
- Vấn đề thương mại hóa;
- Vấn đề thông tin nhanh và bảo đảm định hướng thông tin;
- Vấn đề tính Đảng, tính hấp dẫn và tính chiến đấu hiện nay;
- Vấn đề bao cấp và tự hạch toán, kinh tế báo chí, tập đoàn báo chí – TT;
- Vấn đề cạnh tranh và hợp tác giữa các lọai hình và mạng xã hội, TTXH.
- Vấn đề tái cấu trúc lại các sản phẩm báo chí…;
III Quan điểm của Đảng, Nhà nước về quản lý báo chí – truyền thông:
-Một là, công tác báo chí là một bộ phận cấu thành hữu cơ trong bộ máy hoạt
động của Đảng ta, là yếu tố cầu thành hoạt động tư tưởng, lý luận. Không chỉ là yếu tố


cấu thành hữu cơ, báo chí là vũ khí xung kích trên mặt trận tư tưởng, lý luận. Báo chí
có vai trò quan trọng đối với công tác tư tưởng, lý luận và tổ chức. Quan điểm này đã
được thể hiện xuyên suốt trong hoạt động của Mác-Ănghen, Lênin và Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng như trong lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng ta. Báo chí là bộ phận hữu
cơ và đặt dưới sự lãnh đạo toàn diện và trực tiếp của Đảng.
-Hai là, báo chí nước ta phải góp phần tích cực vào tuyên truyền lý luận MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước. Báo chí phải góp phần tích cực xây dựng lý tưởng xã hội vì mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”, góp phần ổn định
chính trị tư tưởng, bình ổn đời sống tinh thần để huy động nguồn lực phát triển kinh tếxã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống. Xây dựng lý tưởng xã hội, tuyên truyền tư
tưởng của Đảng là một công việc lâu dài, khó khăn, phức tạp, nhất là trong tình hình
hiện nay, cho nên đòi hỏi phải kiên trì, sự nhiệt thành, trung thành, hiểu biết và tính
chuyên nghiệp cao.
-Ba là, báo chí là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, của tổ chức chính trị - xã hội và
là diễn đàn của nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, sự quản lí của Nhà
nước và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật; phải bảo đảm tính tư tưởng, tính chân
thật, tính nhân dân, tính chiến đấu và tính đa dạng của hoạt động báo chí. Báo chí của ta

là cơ quan của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp đặt dưới sự
lãnh đạo toàn diện, triệt để của Đảng và quản lý của Nhà nước.
-Bốn là, Đảng lãnh đạo báo chí bằng việc định hướng chính trị, bằng và thông
qua nhà nước, thông qua công tác tổ chức - cán bộ, thông qua giám sát, kiểm tra hoạt
động thường xuyên trong thực tiễn. Quản lý nhà nước về báo chí còn bằng sức mạnh
của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng.
-Năm là, “Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ
khí sắc bén của họ”. Mỗi nhà báo là một cán bộ hoạt động trong lĩnh vực công tác tư
tưởng - văn hóa của Đảng, là nhà truyền thong - vận động xã hội dưới sự lãnh đạo của
Đảng và quản lý của nhà nước. Nhà báo là chủ thể tích cực trong quá trình họat động
báo chí cũng như quản lý nhà nước về báo chí.


IV Công cụ quản lý nhà nước về báo chí.
- Thứ nhất, văn bản quy phạm pháp luật. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
của Việt Nam: Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh, Lệnh Chủ tịch nước,…. Cụ thể: Luật Báo
chí năm 1989; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật báo chí năm 1999.
- Thứ hai, tổ chức bộ máy, phân cấp quyền lực, Vấn đề phân cấp, phân quyền
trong quản lý.
- Thứ ba, đội ngũ cán bộ công chức, viên chức trong bộ máy tổ chức quản lí.
Vấn đề chất lượng đội ngũ và cơ chế đánh giá, quy trình bổ nhiệm.
- Đối với nhà nước:
. Nhà nước( NN) dùng Báo chí( BC) làm công cụ để thiết lập và duy trì trật tự xã
hội, đấu tranh cho các hành vi trái pháp luật. Vì vậy, nhà nước giao cho báo chí những
quyền không hạn chế về đối tượng để phản ánh những hành vi trái pháp luật, trái các
quy phạm đạo đức, các nội quy, quy chế các cơ quan.
. Cơ quan BC phải đăng tải, phát sóng các tác phẩm BC, ý kiến của công dân
trong trường hợp không đăng tải, phát sóng thì phải trả lời bằng văn bản và nói rõ các lý
do. Vì cơ quan BC cũng là cơ quan NN. Tuy nhiên, trên thực tế, điều này rất khó. Bởi
khối lượng công việc tại CQBC quá nhiều, năng lực xử lý hạn chế . Thậm chí các sản

phẩm đã đăng tải nhưng không thông báo; thứ hai là do quan điểm và cách làm báo
chưa chuyên nghiệp từ tổng biên tập đến các bộ phận tiếp nhận, phản hồi công chúng.
. Cơ quan chủ quản của cơ quan BC: là tổ chức đứng tên xin cấp phép hoạt
động BC; trực tiếp quản lý cơ quan BC; có quyền xác định và chỉ đạo tôn chỉ mục đích,
thực hiện nội dung; chỉ đạo cơ quan BC thực hiện nhiệm vụ, phương hướng, xây dựng
đội ngũ; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức người đứng đầu cơ quan BC sau khi đã trao
đổi cơ quan quản lý NN về BC (bộ- cơ quan ngang bộ) bằng văn bản. Nhưng trên thực
tế, có trường hợp cơ quan quản lý không đồng ý nhưng cơ quan chủ quản vẫn bổ
nhiệm; Kiểm tra mọi hoạt động của cơ quan BC; Tạo điều kiện cần thiết cho cơ quan
BC hoạt động (tạo điều kiện về cơ chế); Phải chịu trách nhiêm trước pháp luật trong
phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình đối với các sai phạm trong cơ quan BC trực
thuộc.


– Cơ quan chủ quản quan trọng nhất vì cơ quan BC hoạt động thế nào phụ thuộc
rất nhiều vào cơ quan chủ quản chọn người đứng đầu cơ quan BC. Trong thực tế, việc
xử phạt cơ quan chủ quản chưa có chế tài.
Cơ quan BC: mỗi cơ quan BC tùy theo tôn chỉ, mục đích của mình mà thực
hiện các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định để bảo đảm quyền tự do báo chí và
quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân. Quyền tự do BC và quyền tự do ngôn
luận trên BC của công dân trước hết là cơ quan BC thực hiện được quyền tự do của
mình. Hai là, do BC có tôn chỉ mục đích riêng nên phải bám sát tôn chỉ mục đích của
mình. Trên thực tế, việc thực hiện tôn chỉ mục đích cũng có nhiều vấn đề đặt ra. Ví dụ
Báo nông thôn ngày nay thì đối tượng là nông dân .
Người đứng đầu cơ quan BC: Tổng Biên Tập, Giám đốc, Tổng Giám đốc do cơ
quan chủ quản của cơ quan BC bổ nhiệm. phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và
DLXH và trước cơ quan chủ quản về những thông tin và hoạt động của cơ quan BC.
điều kiện để trở thành người đứng đầu:
. Là người Việt Nam(VN), công dân VN, quốc tịch VN
. Có địa chỉ trường trú tại VN.

. Có tiêu chuẩn về đạo đức, nghiệp vụ do chính phủ quy định.
. Nghĩa vụ của người đứng đầu là lãnh đạo toàn diện cơ quan BC,chịu trách
nhiệm toàn bộ hoạt động của cơ quan BC. Bảo đảm nội dung thông tin BC, tính chính
trị của BC, tính chân thật và các nguyên tắc khác của BC; Hai là, bảo đảm tính pháp lý
của cơ quan BC. Bảo đảm về mặt tổ chức, giáo dục nhân sự, nhân cách, bảo đảm tính
định hướng phát triển của cơ quan BC.
Địa vị pháp lý của Nhà báo: bao gồm Biên Tập viên, Phóng viên, người bình
luận.
Điều kiện để trở thành nhà báo VN
. Là người VN, công dân VN.
. Có địa chỉ thường trú tài VN
. Có tiêu chuẩn chính trị, nghiệp vụ, đạo đức theo quy định của chính phủ.
Điều kiện để trở thành PV:


×