Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

SỰ CẦN THIẾT PHẢI GẮN THƯƠNG HIỆU CHO PHẦN MỀM VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.44 KB, 18 trang )

Sự cần thiết phải gắn thơng hiệu cho phần mềm
Việt Nam
I. Công nghệ phần mềm thế giới
1. Khái niệm phần mềm và lợi ích phần mềm
1.1. Khái niệm phần mềm và đặc điểm phần mềm
Các văn bản pháp luật hiện nay nh NĐ 76/ CP năm 1996, Bộ luật Dân sự,
Quyết định 128/ QĐ TTg đa ra các định nghĩa về phần mềm còn sơ sài, cha
thống nhất. Tuy nhiên định nghĩa "phần mềm" đợc nêu khá đầy đủ trong Quyết
định 128/2000/QĐ -TTg
Để nắm đợc bản chất của các sản phẩm phần mềm, cần phải nhìn nhận
phần mềm nh một thành phần của Công nghệ thông tin (sau đây viết tắt là CNTT).
Theo cách phân loại của giáo s Jim Senn, trởng khoa hệ thống thông tin Máy tính
thuộc trờng Đại học Georgia, Hoa Kỳ, CNTT đợc cấu thành bởi ba bộ phận cơ bản
sau:
* Máy tính (Computer): theo cách hiểu đơn giản, máy tính là thết bị điện tử
dùng để thu nhận, xử lý, lu cất và hiển thị thông tin. Máy tính cùng các thiết bị đi
kèm nh màn hình, máy in, thiết bị ngoại vi đợc gọi là phần cứng. Phần cứng
đứng riêng không làm đợc gì cả mà cần có chơng trình, còn gọi là phần mềm, đi
kèm và điều khiển hoạt động của phần cứng. Vì vậy theo nghĩa rộng, máy tính
gồm phần cứng, phần mềm và thông tin.
* Mạng truyền thông: là hệ thống nối kết các máy tính ở các vị trí khác
nhau bằng các đờng truyền cho phép gửi và nhận dữ liệu. Đờng điện thoại là một
trong những đờng truyền thông dụng nhất. Bản thân mạng truyền thông cũng gồm
phần cứng, phần mềm để điều khiển các phần cứng này và thông tin chuyển vận
trên mạng.
* Know-How: đây là thành phần chủ yếu quyết định lợi ích của công nghệ
thông tin bởi chính là các kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin để giải quyết các
vấn đề. Kow-How bao gồm con ngời, các quy trình nghiệp vụ và phần mềm ứng
dụng. Theo khái niệm trích trong cuốn từ điển thuật ngữ tin học của nhà Xuất bản
Văn Hoá, phần mềm đợc xác định là các chơng trình hệ thống, tiện ích hoặc ứng
dụng đợc diễn đạt theo một ngôn ngữ mà máy tính có thể đọc đợc.


Nh vậy, phần mềm là yếu tố xuyên suốt và quyết định của CNTT, là công
cụ chủ yếu để con ngời có thể khai thác những lợi ích mà CNTT có thể mang lại.
Chính bởi vậy nên từ lâu phần mềm đã trở thành một hàng hoá, tạo nên một thị tr-
ờng sôi động trong xã hội CNTT, những sản phẩm nh bộ phần mềm xử lý dữ liệu
Microsoft Office của công ty phần mềm Microsoft đã trở thành công cụ không thể
thiếu trong hoạt động quản lý doanh nghiệp nói chung và quản lý doanh nghiệp
nói riêng.
Nh vậy thuật ngữ phần mềm là để chỉ tất cả các chơng trình bằng ngôn ngữ
máy điều khiển vận hành mọi hoạt động của máy tính. Phần mềm là hệ thần kinh
mà con ngời trang bị cho máy tính để nó hoạt động đợc theo ý muốn của con ng-
ời.
Phần mềm, với t cách là sản phẩm điển hình của xã hội thông tin có một số
tính chất khác hẳn sản phẩm công nghiệp thông thờng. Theo nhận định của các
chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực công nghệ thông tin, một sản phẩm phần mềm
thờng hội tụ những đặc trng sau:
Hàm lợng chất xám đậm đặc
Không phải ngẫu nhiên mà đặc trng này đợc nêu ở vị trí đầu tiên, đây chính
là đặc trng tiêu biểu của sản phẩm phần mềm. Mỗi sản phẩm phần mềm chỉ là
một bộ dăm ba chiếc đĩa mềm, và nếu tân tiến hơn chỉ là 1-2 chiếc đĩa CD, hoặc
thậm chí chỉ là một địa chỉ liên kết trên mạng Internet. Giá thành vật chất hầu nh
không đáng kể, giá thành chính của sản phẩm lại là những gì ghi trong vật mang
tin đó, đó là chất xám thuần tuý. Tóm lại, phần mềm là một trong những sản phẩm
có hàm lợng chất xám cao nhất, và nếu nh chúng ta mua phần mềm qua mạng, tài
liệu cũng lấy qua mạng thì hàm lợng chất xám là 100%. Phần mềm là hàng hoá
nhng là hàng hoá mang tính trí tuệ và nếu nói ngời làm phần mềm là những ngời
có thể biến con số 0 và 1 thành giá trị, thành đô la cũng không phải là quá phóng
đại.
Nhân bản dễ dàng
Nhân bản một phần mềm là một công việc quá dễ dàng. Khi đã có một
phần mềm, tạo ra một phần mềm thứ hai giống thế là một lao động giản đơn, ai

cũng làm đợc với kinh phí hầu nh bằng 0. Không giống nh việc tạo ra một chiếc ô
tô giống một chiếc ô tô có sẵn thì phải tốn chi phí tơng đơng, việc tạo ra một phần
mềm giống hệt nó chỉ tốn 1 USD. Nhà sản xuất nhân bản cũng đợc, ngời sử dụng
tự nhân bản cũng đợc. Nếu có một phần mềm trên mạng thì sau khi bán cho hàng
ngàn ngời dùng (sao chép qua mạng), phần mềm này vẫn còn nguyên vẹn những
giá trị ban đầu nh cha từng đợc bán cho ai cả. Có nghĩa là cùng một sản phẩm nh-
ng có thể nhiều ngời cùng sử dụng cũng đợc. Điều này cũng có nghĩa là việc vi
phạm bản quyền xảy ra dễ dàng, chúng ta sẽ bàn đến vấn đề này ở phần sau.
Dễ bị mất bản quyền và ý tởng về sản phẩm là của chung.
Việc nhân bản dễ dàng nh đã nói ở trên là điều kiện để phần mềm dễ dàng
bị vi phạm bản quyền. Vi phạm bản quyền ở đây có thể dới nhiều dạng, nhiều
hình thức. Vi phạm do sao chép lậu là một khía cạnh, vi phạm do tận dụng ý tởng,
kiểu dáng của ngời khác là việc tế nhị hơn. Trong lĩnh vực phần mềm, ý tởng bị
biến thành của chung. Khi đã có phần mềm VNI, Vietware để soạn thảo tiếng
Việt thì ý tởng sẽ tạo ra những phần mềm đánh tiếng Việt khác nh ABC không
liên quan gì đến vi phạm bản quyền cả. Hơn thế nữa, đối với phần mềm, ý tởng
chính là cái đòi hỏi chất xám nhiều nhất, thì lại thờng bị xem là tài sản chung
Năng suất tính theo doanh số trên đầu ngời.
Năng suất trong công nghiệp phần mềm không phải là một ngày một ngời
nhân bản đợc bao nhiêu phần mềm mà thể hiện qua doanh số của sản phẩm đó
chia cho số nhân viên tham gia vào quá trình tạo ra sản phẩm đó. Chẳng hạn sản
xuất một phần mềm tốn 1 triệu USD và bán ra với giá 100 USD. Khi đó phiên bản
đầu tiên tạm xem là lỗ 999.900 USD còn mỗi phiên bản tiếp theo lãi 99 USD
(1USD kinh phí nhân bản). Nếu bán đợc 20.000 bản thì thu đợc 1,98 triệu USD.
Do đó năng suất của sản phẩm đó bằng tổng 100USD và 1,98 triệu USD chia cho
tổng số nhân viên tham gia làm phần mềm đó.
Trên thực tế, tính toán năng suất lập trình viên là một việc khó vì nhiều đơn
vị phần mềm không cung cấp số liệu, một số đơn vị hoạt động trong nhiều lĩnh
vực nên không thể tách đợc doanh số và số lợng ngời làm phần mềm.
Trong bảng dới đây là số liệu tài chính năm 1998 của các công ty phần

mềm có doanh số cao nhất đợc công bố trong Tạp chí Soft letter 1998. Tuy số liệu
này đã thay đổi nhng có lẽ đây vẫn là những hãng phần mềm hàng đầu. Qua
những số liệu có đợc có thể hình dung đợc cách tính năng suất trong công nghiệp
phần mềm.
Bảng 1: Năng suất hoạt động của 10 công ty phần mềm có doanh số
cao nhất (năm 1998)
Công ty
Doanh số
(USD)
Số nhân
viên
Bình quân
đầu/ngời
MICROSOFT 9.435.000.000 20.671 456.437
NOVELL 1.311.784.000 5.818 225.470
ADOLE SYSTEM 786.563.000 2.222 353.898
INTUIT 580.000.000 4.053 143.104
AUTODESK 496.693.000 2.044 243.000
SYMANTEC 458.500.000 1.992 230.000
GT INTERACTIVE SOFTW ARE 367.111.000 950 386.796
NETSE COMMUNICATION 346.195.000 1.600 366.796
THELEARNIG CO 343.321.000 936 366.796
SANTA CRUZ OPERATION (SCD) 216.600.000 1.291 177.687
Nguồn: Tạp chí Soft letter 1998
Càng tốt, càng rẻ và ngỡng chất lợng
Phần mềm càng tốt thì càng có nhiều ngời dùng, và nh vậy càng có thể bán
với giá rẻ hơn do kinh phí nhân bản không đáng kể. Điều đó dẫn đến tình trạng
càng tốt càng rẻ, khác hẳn với quy luật tiền nào của ấy trong nền kinh tế công
nghiệp Để có đợc một phần mềm tốt là cả một quá trình, những phần mềm đầu
những năm 80 chỉ tốt ở mức độ vừa phải là đã có thị trờng, các phần mềm của

thập kỷ 90 đã khác xa. Ví dụ trong trờng hợp phần mềm quản trị cơ sở dữ liệu
XTS của Việt Nam ngang ngửa, thậm chí vợt trội Foxpro 1.0 for DOS nhng đa ra
cùng thời điểm với Foxprox 1.0 for Windows nên không dễ tìm đất sống. Tính
chất càng tốt càng rẻ của phần mềm đã phần nào đặt ra cho các nhà sản xuất khi
nhập cuộc phải lẳng lặng đầu t nâng sản phẩm của mình lên một ngỡng chất lợng
nhất định đồng thời phải tiến lên cùng với sự phát triển liên tục của ngỡng đó thì
mới nhập cuộc thị trờng đợc.
Chu trình sống ngắn.
Do sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật về CNTT, khoảng thời gian từ khi một
phiên bản phần mềm ra đời, tồn tại và bị thay thế ngày càng rút ngắn do các hãng
phần mềm luôn đổi mới, thay thế nâng cao chất lợng, tính u việt của sản phẩm.
Hiện nay chu trình sống của một sản phẩm phần mềm chỉ khoảng 3 đến 4 tháng.
Mặc dù chu kỳ sống ngắn ngủi nhng do tồn tại dới dạng số nên mọi bản sao đều
giống nh bản đầu tiên, không có khái niệm "hàng đã qua sử dụng" và thông thờng
việc bảo hành một phần mềm là vĩnh viễn. Tính chất chu kỳ sống ngắn với chất l-
ợng giữ nguyên là hai mặt đối nhau tạo nên đặc thù riêng biệt quan trọng trong
phát triển phần mềm. ở đây không có việc sản xuất để thay thế một sản phẩm khi
sản phẩm đó hết giá trị sử dụng, mà chỉ có sản phẩm đợc sản xuất ra để phục vụ
cho một nhu cầu hoàn toàn mới.
Tính toàn cầu và sự cạnh tranh quyết liệt
Sản phẩm công nghệ thông tin nói chung và phần mềm nói riêng mang tính
toàn cầu. Phần cứng và phần mềm hệ thống là công cụ sản xuất chung không có
phạm vi ranh giới trong việc sử dụng, để tiêu thụ đợc rộng rãi thì phải theo nhiều
tiêu chuẩn mang tính quốc tế. Tính chất càng tốt càng rẻ, chu kỳ sống ngắn, ng-
ỡng chất lợng cao, tăng cờng sử dụng miễn phí đã đặt các đơn vị phần mềm vào
thế cạnh tranh quyết liệt. Sự phổ cập Internet đã làm cho mọi sản phẩm tốt đều có
thể đến với ngời tiêu dùng. Nếu muốn có một địa chỉ để mua, một danh mục tất cả
các phần mềm có liên quan hay thậm chí chỉ để lấy bản dùng thử, bạn chỉ cần ấn
bàn phím là có ngay. Việc một công ty bé cạnh tranh với một công ty lớn tên tuổi
(về một sản phẩm tơng tự) đôi khi đợc coi là điều không tởng. Thờng là với khả

năng về vốn của mình, các công ty lớn ở vị trí u thế hơn và khi nhìn thấy một ý t-
ởng của một công ty bé thì thờng tìm cách chiếm lấy ý tởng đó hoặc áp dụng
những biện pháp cạnh tranh tranh để buộc đối thủ phải nhuợng lại ý tởng. Sự cạnh
tranh này đôi khi rất quyết liệt và không có sự nhợng bộ. Nh ví dụ cạnh tranh giữa
Microsoft và Nescape, Microsoft đã cho dùng miễn phí Internet explorer. Nescape
sau một thời gian dài kiện tụng không đi đến đâu đành cho dùng miễn phí không
chỉ Nescape Navigator mà cả bộ mã nguồn của phần mềm này.
Không có sự vận động đổi mới liên tục thì không thể phát triển nổi trong
thế giới phần mềm trớc sự thay đổi nh vũ bão của CNTT nh hiện nay. Khẩu hiệu
"Đổi mới hay là chết" mà chính Microsoft cũng phải công nhận, đã chi phối chiến
lợc của tất cả các công ty phần mềm.
Bán trên mạng là hình thức phân phối chủ yếu
Phần mềm là một trong số ít các sản phẩm có thể quảng cáo, cho dùng thử,
phân phối cả sản phẩm cùng với các liệu đi kèm lẫn hỗ trợ kỹ thuật hoàn toàn qua
mạng Internet. Khi chọn mua sản phẩm phần mềm, khách hàng dùng thử, nếu
chấp nhận mua sẽ đăng ký mua qua mạng, tự tải về máy mình và cài đặt bằng mã
số nhà cung cấp gửi cho sau khi đã thanh toán xong bằng các hình thức thanh toán
đợc thoả thuận. Vậy là quy trình mua một phần mềm đã xong, hết sức đơn giản và
nhanh chóng. Phần hớng dẫn sử dụng trực tuyến sẽ thay thế các lớp đào tạo thông
thờng cả đối với những phần mềm phức tạp. Với xu thế này, toàn bộ kênh phân
phối chỉ còn là một địa chỉ trên Internet, không cần đại lý, không cần cửa hàng
hay nhân viên bán hàng. Một cá nhân hay một địa chỉ Internet có thể phân phối
sản phẩm phần mềm khắp thế giới. Hình thức bán qua mạng nh vậy vô cùng thuận
lợi và không tốn kém chi phí. Năm 2000, 90% các công ty phần mềm bán hơn 1/3
doanh số của mình qua mạng. Tỷ lệ này sẽ còn cao hơn trong những năm tới.
Với các tính chất nêu trên, việc sản xuất phần mềm không giống nh sản
xuất các sản phẩm công nghiệp khác. Phần mềm là sản phẩm đặc thù của một
ngành kinh tế hoàn toàn mới, với các quy luật khác quy luật kinh tế thông thờng.
Nhng có lẽ đây chính là thuận lợi chăng bởi khi mọi thứ đã trở thành khuân mẫu,
chuẩn mực thì tìm một chỗ đứng không khó nhng rất khó tìm một chỗ đứng hiệu

quả, còn khi mọi cái đều mới mẻ thì mày mò tìm chỗ đứng là khó nhng phát triển
có hiệu quả lại dễ dàng hơn.
1.2. Lợi ích phần mềm.
Sản phẩm phần mềm là yếu tố cấu thành quan trọng của công nghệ thông
tin, chính vì vậy để hiểu đợc vai trò của phần mềm trong nền kinh tế quốc dân, tr-
ớc hết chúng ta phải hiểu đợc phần nào tác động của sự bùng nổ công nghệ thông
tin đối với nền kinh tế.
Trớc hết, sự ra đời và phát triển của công nghệ thông tin đã đa nhân loại b-
ớc vào kỷ nguyên mới, ở đó, số ngời tham gia vào công việc xử lý thông tin nhiều
hơn số ngời làm trong hai lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp cộng lại. Trong
buổi giao thời giữa xã hội nông nghiệp và xã hội công nghiệp, chúng ta đã từng
chứng kiến quá trình dịch chuyển lao động từ đồng ruộng vào các nhà máy, kèm
theo là các vấn đề xã hội liên quan đến việc dịch chuyển dân c lao động từ nông
thôn lên thành thị. Đến thời đại thông tin, hình thái dịch chuyển dân c về trung
tâm sẽ đợc thay thế bằng một quá trình phân tán, khi chi phí truyền thông rẻ,
khoảng cách địa lý chỉ còn mang tính chất tơng đối, công việc chủ yếu là trao đổi
thông tin.
Thứ đến, CNTT biến đổi các công cụ lao động và quy trình công việc trớc
đây theo hớng hiệu quả, năng suất. Máy móc công nghiệp sẽ theo hớng tự động
hoá. Còn trong lĩnh vực nông nghiệp, nếu nh trớc đây khi chuyển sang thời đại
công nghiệp, các quy trình sản xuất nông nghiệp có nhiều biến đổi nhờ việc cơ
khí hoá thì đến thời đại thông tin, công nghệ thông tin cung cấp các thông tin về
việc khi nào, ở đâu thì trồng loại cây gì và trồng khi nào, chăm sóc chúng nh thế
nào.
Cuối cùng, công nghệ thông tin đợc ứng dụng rộng rãi vào quá trình sản
xuất và các sản phẩm dịch vụ kinh tế - xã hội, làm tăng giá trị các hàng hoá, dịch
vụ. Đó là tính tiện dụng, chất lợng, độ chính xác, độ tin cậy, tính cập nhật mà
khách hàng thấy cần thiết.
Trong thời đại công nghệ thông tin, công nghệ phần mềm là một ngành
kinh doanh nhằm nghiên cứu, xây dựng phát triển, sản xuất và phân phối các sản

phẩm phần mềm cũng nh cung cấp các dịch vụ đi kèm nh: t vấn, cung cấp giải

×