Tải bản đầy đủ (.pdf) (201 trang)

Luận án Tiến sĩ Âm nhạc học: Ca khúc nghệ thuật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.9 MB, 201 trang )

BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM

TẠ HOÀNG MAI ANH

CA KHÚC NGHỆ THUẬT
VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH: ÂM NHẠC HỌC
MÃ SỐ: 62 21 02 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ ÂM NHẠC HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS CÙ LỆ DUYÊN

HÀ NỘI - 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết
quả nghiên cứu đƣợc trình bày trong luận án là trung thực, khách quan và
chƣa từng để bảo vệ ở bất kỳ học vị nào, các thông tin trích dẫn trong luận án
này đều đƣợc chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 2 tháng 2 năm 2020

Tác giả luận án

Tạ Hoàng Mai Anh



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CKNT

CKNT

CKNTVN

CKNTVN

NCS

Nghiên cứu sinh

Nxb

Nhà xuất bản

PGS

Phó Giáo sƣ

PL

Phụ lục

Romance thanh nhạc

Romance TN


TK

Thế kỷ

TS

Tiến sỹ

tr.

Trang

VD

Ví dụ


0

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ SỰ HÌNH THÀNH THỂ LOẠI CA KHÚC
NGHỆ THUẬT VIỆT NAM ..................................................................................... 6
1.1. Thuật ngữ Ca khúc nghệ thuật Việt Nam ........................................................... 6
1.1.1. Thuật ngữ ca khúc nghệ thuật trong các tài liệu nghiên cứu .................... 6
1.1.2. Thuật ngữ Ca khúc nghệ thuật Việt Nam sử dụng trong luận án ............ 13
1.2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ........................................................................... 16
1.2.1. Hệ thống các công trình nghiên cứu ....................................................... 16
1.2.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu ................................................................ 22

1.3. Sự hình thành thể loại Ca khúc nghệ thuật Việt Nam ....................................... 28
1.3.1. Các yếu tố ảnh hƣởng sự ra đời Ca khúc nghệ thuật Việt Nam .............. 29
1.3.2. Sự biến đổi của thể loại ca khúc.............................................................. 37
Tiểu kết chƣơng 1.................................................................................................... 46
CHƢƠNG 2: CA TỪ VÀ CẤU TRÚC ................................................................... 47
2.1. Đặc điểm ca từ.................................................................................................. 47
2.1.1. Tính hình tƣợng trong ca từ .................................................................... 47
2.1.2. Mối quan hệ giữa cấu trúc ca từ và hình thức âm nhạc .......................... 52
2.1.3. Sự ảnh hƣởng thanh âm tiếng Việt đến giai điệu .................................... 59
2.2. Phƣơng thức xây dựng cấu trúc tác phẩm ......................................................... 67
2.2.1. Xây dựng cơ cấu trong tác phẩm ............................................................ 68
2.2.2. Xây dựng các dạng cấu trúc.................................................................... 81
Tiểu kết chƣơng 2.................................................................................................... 92
CHƢƠNG 3: GIAI ĐIỆU VÀ PHẦN ĐỆM ........................................................... 93
3.1. Giai điệu ........................................................................................................... 93
3.1.1. Hình tƣợng trong giai điệu...................................................................... 93
3.1.2. Âm điệu ................................................................................................... 96
3.1.3. Điệu thức............................................................................................... 104
3.1.4. Nhịp độ, tiết tấu..................................................................................... 110
3.1.5. Các kỹ thuật thanh nhạc........................................................................ 112
3.2. Phần đệm ........................................................................................................ 117
3.2.1. Chức năng phần đệm ............................................................................ 117
3.2.2. Phần đệm trong việc xây dựng phần phụ .............................................. 128
3.2.3. Facture phần đệm ................................................................................. 134
3.2.4. Hòa âm.................................................................................................. 140
Tiểu kết chƣơng 3.................................................................................................. 154
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 155
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ.............................................. 159
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 160
PHỤ LỤC LUẬN ÁN ........................................................................................... 172



1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử âm nhạc nhân loại, thể loại CKNT đƣợc hiểu tƣơng
đƣơng với các dạng ca khúc có phần đệm do chính tác giả sáng tác nhƣ
Romance thanh nhạc (Romance), Lied hay Mélodie. Dòng ca khúc này đƣợc
nhận định ra đời từ châu Âu và đến thời kỳ âm nhạc Lãng mạn, có một bƣớc
chuyển mình vĩ đại khi trở thành một thể loại âm nhạc hàn lâm độc lập, sánh
ngang cùng các thể loại khí nhạc đƣơng thời, khẳng định vị trí của mình trong
nền âm nhạc với ý nghĩa là một thể loại ca khúc có giá trị nghệ thuật cao bắt
buộc có phần đệm khí nhạc kèm theo.
Tại Việt Nam, nhƣ một trong những kết quả của các cuộc tiếp biến văn
hóa, từ giữa TK XX, thuật ngữ CKNT bắt đầu xuất hiện cùng với quá trình
hình thành nền âm nhạc chuyên nghiệp. Trong âm nhạc Việt Nam, thuật ngữ
CKNT đƣợc hiểu theo nhiều cách khác nhau, có thể là những ca khúc chỉ có
phần giai điệu, nhƣng có tính thẩm mỹ và giá trị nghệ thuật cao, hoặc là
những ca khúc đƣợc sáng tác kèm theo phần đệm. Trong luận án, tôi lựa chọn
nghiên cứu CKNTVN có phần đệm khí nhạc cố định do chính tác giả sáng
tác, với mong muốn tập trung chuyên sâu vào những tác phẩm hoàn chỉnh các
yếu tố từ giai điệu cho tới các thủ pháp trong phần đệm và hòa âm theo ý đồ
sáng tác của ngƣời nhạc sĩ. Đó cũng chính là nội hàm của thuật ngữ Ca khúc
nghệ thuật Việt Nam đƣợc dùng trong khuôn khổ luận án này. Các tác phẩm
CKNTVN là kết quả của nền âm nhạc chuyên nghiệp, đạt đƣợc những giá trị
nghệ thuật hàn lâm nhất định nhƣng vẫn gần gũi, theo sát cuộc sống của con
ngƣời. Chính vì vậy, đây là một thể loại có thể trở thành cầu nối giữa công
chúng nghe nhạc với thể loại âm nhạc hàn lâm - một dòng nhạc vẫn chƣa thực
sự đƣợc phổ biến một cách rộng rãi tại Việt Nam. Đặc biệt ngày nay, khi
những trào lƣu âm nhạc du nhập ồ ạt từ nƣớc ngoài, cùng một thực trạng là

khả năng phân loại, chọn lọc của giới trẻ đối với những tác phẩm âm nhạc


2
thiếu giá trị, thiếu tính thẩm mỹ còn bị lệch lạc, thì nền âm nhạc đại chúng
Việt Nam đang rất cần sự định hƣớng, giáo dục, nghiên cứu, tuyên truyền
đúng đắn và tích cực, để giúp những ngƣời nghe nhạc có thể cảm nhận đƣợc
những giá trị nghệ thuật chân chính, từ đó xây dựng quan điểm, thị hiếu thẩm
mỹ một cách khoa học và tiến bộ.
Bên cạnh đó, mặc dù CKNT là một thể loại âm nhạc thuộc dòng nhạc
hàn lâm, nhƣng có một thực tế tại Việt Nam, đó là, ngay cả với những ngƣời
hoạt động âm nhạc chuyên nghiệp, thể loại này cũng chƣa thực sự đƣợc quan
tâm, nghiên cứu một cách tổng thể và có hệ thống. Những CKNT có phần
đệm khí nhạc là một thể loại đƣợc du nhập từ âm nhạc phƣơng Tây, bởi vậy,
thể loại này có thể là sự kết hợp giữa âm nhạc phƣơng Tây với âm nhạc
truyền thống Việt Nam. Sự ảnh hƣởng từ âm nhạc phƣơng Tây có thể biểu
hiện qua các hình thức cấu trúc, cách tiến hành giai điệu, qua việc sử dụng các
điệu thức trƣởng- thứ, các thủ pháp hòa âm… Trong khi đó, sự kế thừa từ âm
nhạc truyền thống Việt Nam có thể đƣợc biểu hiện qua các thang âm điệu
thức, biến âm tạo âm hƣởng dân gian… Thực tế thể loại này đã đƣợc hình
thành ra sao, có những đặc điểm về ca từ, về âm nhạc nhƣ thế nào, có những
đặc trƣng gì? Vấn đề này không chỉ bổ sung dữ liệu cho mảng phê bình, lí
luận mà còn có thể trở thành tài liệu cho những ngƣời hoạt động trong lĩnh
vực sáng tác tham khảo các kết quả nghiên cứu về kỹ thuật, thủ pháp phát
triển âm nhạc và xây dựng tác phẩm.
Có thể thấy việc nghiên cứu CKNTVN có một ý nghĩa tích cực về mặt
lý luận dƣới góc độ âm nhạc học, đồng thời là một tài liệu hữu ích giúp công
chúng nghe nhạc có thể tìm hiểu và tới gần hơn những thể loại âm nhạc hàn
lâm. Với các lý do trên, cùng mong muốn hệ thống hóa những lý luận đã tích
lũy đƣợc, NCS lựa chọn đề tài nghiên cứu là “Ca khúc nghệ thuật Việt Nam”.



3
2. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là đặc điểm ca từ, cấu trúc, giai điệu
và phần đệm trong thể loại CKNTVN.
Phạm vi nghiên cứu của luận án giới hạn trong các CKNTVN ở dạng
có phần đệm piano do chính tác giả sáng tác. Việc lựa chọn CKNT có phần
đệm piano bởi đó là các tác phẩm vừa mang tính chất của một tác phẩm thanh
nhạc, vừa chứa đựng yếu tố khí nhạc, không chỉ phản ánh tƣ duy về giai điệu
và ca từ mà còn thể hiện ngôn ngữ hòa âm, các thủ pháp âm hình phần đệm
piano và sự liên kết chặt chẽ của phần đệm với giai điệu trong việc thể hiện
hình tƣợng nghệ thuật, phát triển tác phẩm. Qua đó, ngôn ngữ sáng tác thể
hiện rõ nét việc kế thừa âm nhạc truyền thống Việt Nam, đồng thời ảnh hƣởng
âm nhạc hàn lâm phƣơng Tây. Bên cạnh đó, các tác phẩm còn phải đảm bảo
giá trị thẩm mỹ, phù hợp với văn hóa truyền thống Việt Nam.
NCS đã tập hợp và giới hạn phạm vi nghiên cứu luận án trong 136 tác
phẩm của 16 nhạc sĩ, bao gồm Nguyễn Đình Phúc, Huy Du, Hoàng Dƣơng,
Doãn Nho, Vĩnh Cát, Trần Thế Bảo, Vĩnh Lai, Hoàng Cƣơng, Đào Trọng
Minh, Nguyễn Thiếu Hoa, Đặng Hữu Phúc, Trần Thanh Hà, Xuân Thủy, Lê
Hồng Lĩnh, Trần Đinh Lăng, Trần Mạnh Hùng, Đặng Tuệ Nguyên. Đây đều
là các thành viên thuộc Hội Nhạc sĩ Việt Nam, trong đó nhiều nhạc sĩ đã đạt
đƣợc các giải thƣởng của Hội nhạc sĩ và giải thƣởng Nhà nƣớc. Các văn bản,
bản nhạc đều đƣợc chính thức phát hành hoặc do các tác giả trực tiếp cung
cấp. Danh sách các CKNTVN thuộc phạm vi nghiên cứu đƣợc liệt kê ở PL1
trang 174.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là sử dụng hệ thống lý luận Âm nhạc
học nhằm làm rõ đặc điểm thể loại CKNTVN, bao gồm các yếu tố ca từ, cấu

trúc, giai điệu và phần đệm.


4

Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu tổng quan, các khái niệm liên quan
Phân tích đặc điểm ca từ bao gồm chức năng xây dựng hình tƣợng nghệ
thuật, mối quan hệ giữa cấu trúc ca từ và hình thức âm nhạc, sự ảnh hƣởng
thanh âm tiếng Việt đến giai điệu.
Nghiên cứu cách thức triển khai các cơ cấu, cách xây dựng cấu trúc
đoạn nhạc dạng phát triển và tƣơng phản trong các CKNTVN.
Nghiên cứu và đƣa ra đặc điểm giai điệu và phần đệm trong CKNTVN.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận án này, trên nền lý thuyết, lý luận Âm nhạc học, NCS sử
dụng phƣơng pháp nghiên cứu lý thuyết nhƣ sau:
- Phƣơng pháp phân tích: đƣa ra đặc điểm của từng tác phẩm.
- Phƣơng pháp thống kê: liệt kê, xác định tần suất, mức độ xuất hiện
của các đặc điểm đƣợc phân tích.
- Phƣơng pháp tổng hợp, hệ thống: nhằm nghiên cứu lịch sử hình thành
và phát triển của thể loại CKNT trong âm nhạc Việt Nam.
- Phƣơng pháp so sánh: nhằm làm rõ sự khác biệt trong đặc điểm của
các tác giả, đặc điểm của CKNTVN với các thể loại khác.
Ngoài ra, NCS còn sử dụng phƣơng pháp chuyên gia trong quá trình
xác thực nguồn gốc các phần đệm, tham khảo các quan điểm của giới chuyên
môn.
5. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Bằng việc làm rõ, hệ thống đặc điểm âm nhạc học của các CKNTVN
có phần đệm piano do chính tác giả sáng tác trên các khía cạnh cấu trúc tác
phẩm, ca từ, đặc điểm âm nhạc… luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu

một cách chuyên sâu về đặc điểm thể loại này dƣới góc độ Âm nhạc học.
- Luận án phân tích, hệ thống các đặc điểm về ca từ, cấu trúc, giai điệu
và phần đệm trong tổng thể các CKNTVN.


5
- Cùng với quá trình làm rõ đặc điểm của thể loại, trong một số trƣờng
hợp, NCS đã đƣa ra một số nhận định về tính hàn lâm, học thuật cũng nhƣ sự
kế thừa từ âm nhạc dân gian trong thể loại này.
- Bổ sung vào phần dữ liệu lý luận, phê bình về thể loại CKNTVN
- Đóng góp tƣ liệu tham khảo cho những ngƣời hoạt động biểu diễn,
sáng tác… thông qua việc nghiên cứu những kỹ thuật thanh nhạc, ngôn ngữ
âm nhạc của thể loại CKNT ở Việt Nam
- Tạo cơ sở cho việc mở rộng nghiên cứu trong tƣơng lai theo hƣớng so
sánh thể loại CKNT có phần đệm với những thể loại ca khúc khác, hoặc so
sánh phần đệm trong CKNT với phần đệm piano trong các tác phẩm hòa tấu
khí nhạc.
- Với công chúng, những ngƣời muốn tìm hiểu dòng âm nhạc hàn lâm
nói chung và thể loại CKNT nói riêng, đây có thể là một tài liệu tham khảo
dƣới góc độ âm nhạc học đáng tin cậy.
6. Bố cục luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, luận án có bố cục nhƣ sau
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và quá trình hình thành thể loại ca khúc nghệ thuật
Việt Nam
Chƣơng 2: Ca từ và cấu trúc
Chƣơng 3: Giai điệu và phần đệm


6
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ SỰ HÌNH THÀNH THỂ LOẠI

CA KHÚC NGHỆ THUẬT VIỆT NAM
1.1. Thuật ngữ Ca khúc nghệ thuật Việt Nam
Trong khuôn khổ luận án “Thể loại ca khúc nghệ thuật Việt Nam”,
thuật ngữ CKNT đƣợc sử dụng để chỉ thể loại CKNT có phần đệm khí nhạc
do chính tác giả sáng tác, tƣơng đƣơng với một số thuật ngữ trong âm nhạc
phƣơng Tây nhƣ Romance, Mélodie, Lied… Đây đều là các dạng ca khúc
đƣợc sáng tác cho giọng ca cùng phần đệm khí nhạc, trong đó phần đệm
thƣờng có kỹ thuật cao (Romantic lieder are generally for a solo voice with
piano accompaniment, which often required a virtuoso technique) [149]. Các
thể loại này có nhiều điểm tƣơng đồng và đôi khi khó có thể phân định rõ
ràng (romance and mélodie,..cannot be considered in isolation) [148; tr.2]. Ở
Việt Nam, trong các công trình nghiên cứu chuyên khảo về thể loại CKNT,
Romance là thuật ngữ đƣợc dùng phổ biến để chỉ những CKNT có phần đệm
khí nhạc. Việc phân tích các khái niệm liên quan để đƣa ra nội hàm cho thuật
ngữ CKNTVN sử dụng luận án này không chỉ giúp cho việc giới hạn phạm vi
nghiên cứu đƣợc rõ ràng, mà còn khẳng định vị trí, ý nghĩa của đề tài cũng
nhƣ phạm vi ứng dụng kết quả nghiên cứu trong lĩnh vực âm nhạc học và
sáng tác âm nhạc.
1.1.1. Thuật ngữ ca khúc nghệ thuật trong các tài liệu nghiên cứu
Trong các nghiên cứu, mặc dù một số tác giả đã đề cập đến thuật ngữ
CKNTVN, song việc đƣa ra khái niệm rõ ràng về thuật ngữ này để đƣợc công
nhận một cách phổ biến vẫn là một vấn đề cần đƣợc xem xét, tổng hợp một
cách khoa học và có hệ thống. Trong khi đó, những khái niệm về thuật ngữ
Romance, Lied, Mélodie lại khá cụ thể và nhất quán, tuy nhiên vẫn cần đƣợc
tổng hợp, chọn lọc một cách khoa học để có thể áp dụng vào bối cảnh nền âm
nhạc Việt Nam và phù hợp với mục đích nghiên cứu của luận án. Vì vậy, việc
tìm hiểu các khái niệm Romance, Lied, Mélodie sẽ giúp NCS đƣa ra giới


7

thuyết cho thuật ngữ CKNT dùng trong luận án một cách cụ thể hơn.
1.1.1.1. Khái niệm Romance thanh nhạc, Lied, Mélodie
Qua việc tổng hợp các công trình nghiên cứu về âm nhạc phƣơng Tây
và Việt Nam liên quan cho thấy, thuật ngữ Romance thƣờng đƣợc dùng để chỉ
“thể loại âm nhạc hòa tấu thính phòng dành cho giọng ca và bè đệm đàn”
[16; tr.694]. Thể loại này ban đầu xuất phát từ những ca khúc thế tục Tây Ban
Nha, sau đó lan rộng khắp châu Âu, thậm chí đƣợc đƣa tới cả châu Mỹ La
tinh, ở mỗi nơi, Romance lại có những biến đổi khác nhau. Đầu TK XVIII,
thuật ngữ Romance đƣợc ngƣời Pháp dùng để chỉ ca khúc phổ thơ thuật lại
những câu chuyện cổ về tình yêu [147; tr.123].
Một số nhà soạn nhạc nổi tiếng với các Romance cho giọng hát và
piano có thể kể tới nhƣ M.I. Glinka, S. Rachmaninov, C. Debussy, M.
Ravel… Dƣới đây là một trích đoạn Romance Thơ Tứ tuyệt “Đây là nơi diễn
ra cuộc chia tay bí mật” (Стансы “Вот место тайного свиданья..») của M.I.
Glinka (1804-1857).
VD 1.01: M.Glinka, Đây là nơi diễn ra cuộc chia tay bí mật, nhịp 1-8

Romance ảnh hƣởng ở nƣớc Đức một cách rõ rệt, hình thành những thể
loại ca khúc có phần đệm khác, trong đó tiêu biểu là Lied. Lied cũng đã trải


8
qua nhiều hình thái tƣơng ứng với các giai đoạn khác nhau: Lied phức điệu
(TK XV-XVI), The Generalbass (1620-1750) là dạng ca khúc phổ thơ cho
một hoặc nhiều giọng hát và có nhạc cụ đệm ở vị trí bè bass [145; tr.830-834].
Đến cuối TK XVIII ở nƣớc Đức phổ biến thuật ngữ Lied để chỉ một thể loại
ca khúc nghệ thuật có phần đệm, đƣợc nhận định có tính chất kịch tính và
nhiều lời thơ hơn so với Romance, nhƣng ở Romance lại chi tiết hơn về các
trọng âm, điểm nhấn ở các nhân tố âm nhạc, đặc biệt là trong giai điệu [147;
tr.125]. Trong lịch sử, một số nhà soạn nhạc nổi tiếng với các Lied trữ tình là

F. Schubert, R. Schumann. Thể loại này đã dự đoán sự hƣng thịnh trở lại của
các bài thơ Đức với các nhạc sỹ và với công chúng [145; tr.838]. Sau đây là
trích đoạn trong Lied Đến với âm nhạc, Op.88 của F.Schubert (1797-1828).
VD 1.02: F. Schubert, An die musik, nhịp 1-7

Vào TK XIX, đầu TK XX, ở Pháp phổ biến thể loại ca khúc có phần
đệm piano gọi là Mélodie, đây là sự kết hợp giữa những Romance TK XVIII
của Pháp với các Lied của Schubert [146, tr.112]. Mélodie có nhiều điểm
tƣơng đồng với Lied và Romance nhƣng âm nhạc có phần kịch tính hơn (“the
more dramatic mélodie” [147; tr.124]). Có thể minh họa qua trích đoạn trong
Mélodie La vague et la cloche do Henri Duparc (1848-1933) sáng tác vào năm 1871.


9

VD 1.03: Henri Duparc, La vague et la cloche, nhịp 23-26

Có thể thấy Romance TN, Lied hay Mélodie đều là những thể loại âm
nhạc dành cho giọng ca và phần đệm (thƣờng là piano), trong đó ca từ thƣờng
phổ thơ và phần đệm giữ vai trò quan trọng việc hỗ trợ giai điệu thể hiện hình
tƣợng âm nhạc. Cùng sự phát triển của thời kỳ âm nhạc Lãng mạn, sau khi
đƣợc F.Schubert nâng lên đỉnh cao, những thể loại ca khúc có phần đệm đã có
thể sánh ngang cùng những thể loại khí nhạc khác.
Trong cuốn The New Grove Dictionary Of Music And Musicians. Vol.
10,12,14, Romance, Lied, Mélodie đều đƣợc định nghĩa là những thể loại âm nhạc
dành cho giọng ca và phần đệm, có sự gắn bó chặt chẽ với thơ ca [145], [146], [147].
Công trình Tổng tập Âm nhạc Việt Nam - Tác giả và tác phẩm do nhiều
tác giả biên soạn đã nhắc đến thuật ngữ CKNT và Romance khi đề cập và
phân tích một số tác phẩm của các nhạc sĩ nhƣ Tạ Phƣớc, Hoàng Việt, Huy
Du, Hoàng Dƣơng, Vĩnh Cát, Đặng Hữu Phúc, Đỗ Hồng Quân, … Đó hầu hết

đều là những tác phẩm thanh nhạc có kèm theo phần đệm khí nhạc do chính
tác giả sáng tác. Với cách tiếp cận này, thuật ngữ CKNT đƣợc hiểu nhƣ một


10

thể loại thanh nhạc có giá trị nghệ thuật cao trong khía cạnh âm nhạc và ca từ,
trong đó, những tác phẩm đƣợc hiểu với khái niệm Romance và phần lớn
CKNT đều có phần đệm khí nhạc kèm theo. Trong công trình Phƣơng pháp
sƣ phạm thanh nhạc, PGS. Nguyễn Trung Kiên đã định nghĩa Romance TN là
“Thể loại tác phẩm thanh nhạc mang tính chuyên nghiệp cao trên cơ sở âm
nhạc đƣợc phát triển biểu hiện nội dung của lời thơ và phần đệm viết cho đàn
piano…”[29; tr.29] Ngoài ra, Romance không chỉ đơn thuần có tính trữ tình
mà bên cạnh đó có thể có tính tự sự, kể chuyện thậm chí là kịch tính. Trong
cuốn Từ điển âm nhạc của Vũ Tự Lân, thuật ngữ Romance đƣợc định nghĩa là
“tác phẩm cho giọng hát và phần đệm (thƣờng là piano)” [39; tr. 316]. Còn
trong cuốn Thuật ngữ âm nhạc của Nguyễn Bách thì định nghĩa Romance là
một “bản tình ca” [7; tr.82]… Qua tổng hợp có thể thấy phổ biến nhất là khái
niệm coi Romance nhƣ một thể loại âm nhạc thính phòng viết cho giọng hát
và phần đệm (thƣờng là piano).
Đặc điểm thể loại Romance cũng đƣợc đề cập ở nhiều công trình
nghiên cứu khác. Về cấu trúc, trong công trình Các thể loại âm nhạc [24] có
viết “Sự giống nhau giữa ca khúc và rô-măng-xơ thể hiện ở cấu trúc phân
đoạn, nghĩa là lặp lại nhiều lần cùng một nét giai điệu” [24; tr.370], nhƣng
đặc điểm giai điệu trong thể loại Romance đƣợc nhận định là “có đƣờng nét
giai điệu phóng khoáng hơn: nhạc sĩ có thể bám sát lời ca và nhấn mạnh
những chi tiết của lời ca bằng âm nhạc” [24; tr.370].
Và một khía cạnh quan trọng dễ nhận thấy qua các công trình nghiên
cứu, đó là sự nhấn mạnh, đề cao vai trò và ý nghĩa của yếu tố lời ca cũng nhƣ
phần đệm trong mối quan hệ với giai điệu trong thể loại Romance. Nhƣ vậy,

trong thể loại này, lời ca có một ý nghĩa, chức năng quan trọng và có sự kết
hợp chặt chẽ với âm nhạc. Trong cuốn từ điển âm nhạc The New Grove (số
14), các tác giả đã nhận định trong thể loại CKNT (art song), “thơ ca và âm
nhạc đã hòa quyện với nhau với một sự truyền cảm mới vô cùng hiệu quả”
[147; tr.143]. Thêm vào đó, lời thơ đã đƣợc khẳng định với một chức năng và


11
ý nghĩa quan trọng trong việc “tạo nên hình tƣợng và cấu trúc của ca khúc”
[147; tr.143]. Còn công trình Từ điển âm nhạc của Vũ Tự Lân lại nhận định
Romance có “… nội dung và những phƣơng tiện biểu hiện âm nhạc thƣờng
phức tạp hơn so với ca khúc” [39; tr.316]. Hầu hết các nhận định về đặc điểm
thể loại Romance đều khẳng định vị trí và giá trị quan trọng của yếu tố lời ca
trong việc kết hợp với âm nhạc.
Bên cạnh đó, việc đƣa chức năng của phần đệm lên một tầm cao mới
cũng đƣợc khẳng định trong các nghiên cứu. Trong công trình A history of
Western Music, ở chƣơng XVI Thời kỳ lãng mạn – Thanh nhạc, đã khẳng định
vai trò phần đệm piano đã đƣợc nâng tầm không chỉ làm nền mà cùng giọng
hát minh họa, hỗ trợ cho lời ca [139; tr.501]. Trong cuốn Những vấn đề sƣ
phạm thanh nhạc của PGS. Nguyễn Trung Kiên, khi đề cập đến thể loại
Romance TN trong sáng tác của nhà soạn nhạc Rachmaninov khẳng định vai
trò quan trọng và ý nghĩa của phần đệm khí nhạc trong thể loại này: “Nhiều
bản romance phần bè hát và phần piano cùng thực hiện một chức năng quan
trọng nhƣ nhau.” [30; tr.398]…Hầu hết các nghiên cứu đều nhận định phần
đệm không chỉ phụ họa cho giọng hát mà còn là một thành tố quan trọng,
cùng với giọng hát thể hiện ngôn ngữ âm nhạc và hình tƣợng của tác phẩm.
1.1.1.2. Các quan điểm về thuật ngữ Ca khúc nghệ thuật Việt Nam
Thuật ngữ CKNTVN bắt đầu phổ biến cùng sự ra đời của nền âm nhạc
chuyên nghiệp Việt Nam những năm 1960. Thuật ngữ này đã đƣợc đề cập
trong một số công trình nghiên cứu. Trong cuốn Âm nhạc mới Việt Nam Tiến trình và thành tựu [60], các tác giả cho rằng ở Việt Nam, “CKNT” ra

đời trong điều kiện phát triển mới của đời sống âm nhạc trên miền Bắc Xã hội
Chủ nghĩa” [tr.387], đây là hệ quả của quá trình tiếp biến văn hóa âm nhạc
lần thứ hai từ phƣơng Tây. Con đƣờng hình thành thể loại CKNT đƣợc giải
thích là “Một số ca khúc - chủ yếu là loại ca khúc đơn ca trữ tình, đƣợc xây
dựng với bút pháp mới, bộc lộ một số kỹ năng mới, đòi hỏi một trình độ diễn
xuất tinh tế hơn, có tính chuyên nghiệp hơn” [tr.387]. Sự ra đời của thể loại
này thực tế đã có tiền đề từ giai đoạn trƣớc, đó chính là những ca khúc phổ


12
thơ của Nguyễn Xuân Khoát, Văn Cao, Nguyễn Văn Tý… những ca khúc này
đƣợc cho là “có những nét chung với những CKNT của những năm 60”
[tr.392], tuy nhiên, phải đến giai đoạn sau, CKNT mới thực sự phát triển.
Theo cách phân tích này, các nhà nghiên cứu đã nhận định “về thực chất,
CKNT chính là một nhánh, một tuyến, một tập hợp mới về mặt thể loại - tiểu
loại trong ca khúc trữ tình” [tr.392]. Sự ra đời CKNT cũng đƣợc đề cập với
sự xuất hiện cũng những tác phẩm đầu tiên nhƣ “Mẹ yêu con của Nguyễn Văn
Tý, Bài ca hy vọng của Văn Ký, Biết ơn Võ Thị Sáu của Nguyễn Đức Toàn…”
[tr.392]. Với cách tiếp cận thuật ngữ CKNT nhƣ trên, các tác giả đã nhìn nhận
đây là một thể loại thanh nhạc thuộc dòng trữ tình, đòi hỏi yêu cầu cao về bút
pháp sáng tác, đặc biệt trong giai điệu, ca từ và kỹ thuật trình diễn nhƣng
không bắt buộc kèm theo phần đệm khí nhạc.
Trong cuốn Lƣợc sử âm nhạc Việt Nam của tác giả Nguyễn Thụy Loan
đã đề cập đến sự xuất hiện của những ca khúc phổ thơ nhƣ một nhánh liên
quan đến việc ra đời CKNT tại Việt Nam. Các bài hát phổ thơ là một trong
những tiền đề cho phong cách sáng tác theo dạng Romance Tây Âu, góp phần
khẳng định mối quan hệ giữa âm nhạc và thơ ca trong thể loại CKNT.
Qua đó có thể thấy khái niệm CKNTVN trong các nghiên cứu trên
đƣợc khẳng định bắt nguồn từ những ca khúc trữ tình và ca khúc phổ thơ, là
một thể loại có giá trị cao trong ca từ và giai điệu. Nhƣ vậy, ngay ở giai đoạn

Tân nhạc, những ca khúc nhƣ Con thuyền không bến, Giọt mƣa thu của Đặng
Thế Phong, Đêm đông của Nguyễn Văn Thƣơng, Biệt ly của Doãn Mẫn,
Thiên thai, Suối mơ của Văn Cao, Thu quyến rũ, Gửi gió cho mây ngàn bay
của Đoàn Chuẩn… đã có đủ đặc điểm và giá trị về mặt giai điệu cũng nhƣ ca
từ của thể loại CKNT. Tuy nhiên ở giai đoạn này, âm nhạc chuyên nghiệp
Việt Nam chƣa đƣợc hình thành một cách đồng bộ và có hệ thống nên việc
viết phần đệm khí nhạc cho các ca khúc chƣa phổ biến. Từ những năm 1960
trở đi, cùng với việc chuyên nghiệp hóa trong công tác đào tạo và biểu diễn,
những tác phẩm ca khúc có phần đệm đƣợc hình thành, và nhiều tác phẩm
trong số đó có thể đƣợc gọi là các Romance TN của Việt Nam. Những ca


13
khúc có phần đệm khí nhạc do chính tác giả sáng tác là một dạng biểu hiện tƣ
duy sáng tác đầy đủ hơn. Bên cạnh ca từ và giai điệu, sự ra đời của phần đệm
đã thể hiện cụ thể và chi tiết hơn ý đồ sáng tác của tác giả. Những khía cạnh
nhƣ các thủ pháp biến đổi, phát triển phần đệm để khai triển các cơ cấu tác
phẩm, sử dụng các facture, cấu trúc hợp âm để tạo nên tính chất, hình tƣợng
và những thủ pháp hòa âm nhƣ ly điệu, chuyển điệu, các vòng hòa âm đặc
trƣng... hoàn toàn không có trong các ca khúc không có phần đệm, cảm nhận
về tƣ duy cũng nhƣ ý đồ sáng tác của tác giả vì thế không thể đầy đủ và cụ thể
bằng những ca khúc có phần đệm. Trong đề tài này, NCS chỉ nghiên cứu các
tác phẩm có phần đệm. Sở dĩ NCS lựa chọn việc kèm theo phần đệm khí nhạc
bởi trong lịch sử âm nhạc phƣơng Tây, những phần đệm khí nhạc đƣợc nhìn
nhận nhƣ một yếu tố không kém phần quan trọng và không thể tách rời với lời
ca, cùng đóng vai trò quyết định trong việc biểu đạt hình tƣợng nghệ thuật và
tính chất âm nhạc cho tác phẩm. Với lựa chọn này, NCS sẽ nghiên cứu một
cách chuyên sâu những tác phẩm hoàn chỉnh, đầy đủ các thành tố, có tính chất
hàn lâm, học thuật, từ đó đóng góp trên khía cạnh nghiên cứu lý luận về thể
loại này trong nền âm nhạc chuyên nghiệp Việt Nam.

1.1.2. Thuật ngữ Ca khúc nghệ thuật Việt Nam sử dụng trong luận án
Qua phân tích, tổng hợp các quan điểm trên, kết hợp với mục đích
nghiên cứu của đề tài, NCS đƣa ra nội hàm của thuật ngữ Ca khúc nghệ thuật
Việt Nam đƣợc sử dụng trong luận án là các tác phẩm viết cho giọng hát và
phần đệm piano do chính tác giả sáng tác, giai điệu thiên về tính chất trữ
tình, ca từ trau chuốt, thường phổ thơ hoặc có tính thơ, yêu cầu kỹ thuật
thanh nhạc cao, phần đệm không chỉ có chức năng phụ họa mà còn tham
gia vào việc khắc họa hình tượng tác phẩm.
Khái niệm các yếu tố trong thể loại Ca khúc nghệ thuật Việt Nam
Giai điệu, ca từ và phần đệm là ba yếu tố không thể tách rời, cùng đóng
vai trò quan trọng trong việc hình thành một tác phẩm CKNT. Trong luận án,
NCS đƣa ra khái niệm về ba thành tố này trong thể loại CKNT nhƣ sau:
Giai điệu trong thể loại CKNT là tổ hợp các cao độ, tiết tấu cùng các


14
phƣơng tiện diễn tả hỗ trợ kèm theo đƣợc trình bày bằng giọng ngƣời.
Phần đệm trong thể loại CKNT là tổ hợp các cao độ, tiết tấu cùng các
phƣơng tiện diễn tả hỗ trợ kèm theo đƣợc trình bày bằng nhạc cụ.
Ca từ trong thể loại CKNT là phần lời ca đƣợc trình bày bằng giọng ngƣời.
Theo cuốn Từ điển triết học do Nxb Tiến bộ, Matxcova phát hành,
Nghệ thuật đƣợc khái niệm là “hình thái đặc thù của ý thức xã hội và của hoạt
động con ngƣời; phản ánh hiện thực dƣới những hình tƣợng nghệ thuật; là
một trong những phƣơng pháp quan trọng nhất để nắm bắt thế giới bằng thẩm
mỹ” [88; tr.380]. Trong luận án, giá trị nghệ thuật trong thể loại CKNT đƣợc
đánh giá bởi giá trị của từng yếu tố ca từ, giai điệu, phần đệm và ở sự kết hợp
hài hòa giữa các giá trị này với nhau. Giá trị nghệ thuật đƣợc biểu hiện ở tính
mỹ học âm nhạc, tính thẩm mỹ, khả năng biểu hiện hình tƣợng và tính học
thuật trong ngôn ngữ, kĩ thuật sáng tác, bên cạnh đó còn thể hiện quan điểm
của tác giả về giá trị truyền thống dân tộc và giá trị thời đại.

Bảng so sánh sau đây giữa CKNTVN với các thể loại ca khúc khác sẽ làm
rõ nội hàm thuật ngữ CKNTVN, giải thích cho phạm vi nghiên cứu của luận án.
Bảng 1.1: So sánh Romance, Lied, Mélodie và CKNTVN
Giai điệu
Cấu trúc
Tốc độ
Ca từ
Ngôn ngữ
Âm điệu
Yêu cầu về
thanh nhạc
Kỹ
thuật
thanh nhạc
Tính dân tộc
Phần đệm

Romance, Lied, Mélodie
Ca khúc nghệ thuật Việt Nam
Thiên về tính trữ tình, nhẹ nhàng
Phát triển cấu trúc bằng sự kết hợp giai điệu và phần đệm
Chủ yếu là ở nhịp độ vừa hoặc chậm vừa
Thƣờng phổ thơ hoặc có tính thơ, có tính văn học và thẩm mỹ
Đa âm, đơn thanh
Đơn âm, đa thanh
Không phụ thuộc thanh âm
Phụ thuộc chặt chẽ vào thanh âm của ca từ.
Đòi hỏi kỹ thuật cao về xử lý cao độ, quãng, lấy hơi, sắc thái, nhạc cảm, chất
lƣợng âm thanh…
Sử dụng kỹ thuật hát Bel Canto Kết hợp kỹ thuật thanh nhạc phƣơng Tây

với kỹ thuật hát tròn vành rõ chữ tiếng Việt
Thể hiện chất liệu âm nhạc dân Kế thừa chất liệu âm nhạc truyền thống
gian các nƣớc trên thế giới
Việt Nam
Phần đệm có vai trò quan trọng trong việc thể hiện hình tƣợng nghệ thuật


15
Bảng 1.2: So sánh ca khúc thông thường và CKNTVN
Ca khúc thông thường
Ca khúc nghệ thuật Việt Nam
Giai điệu
Có nhiều tính chất khác nhau nhƣ Mang tính ca xƣớng, thiên về tính chất trữ
hát nói, cổ động, hành khúc,…
tình
Cấu trúc
Phát triển cấu trúc bằng giai điệu Phát triển cấu trúc bằng sự kết hợp giai điệu
và phần đệm
Tốc độ
Đa dạng
Thƣờng có tốc độ vừa phải
Ca từ
Có thể sử dụng ngôn ngữ thông Ca từ có tính văn học, tính thẩm mỹ,
thƣờng
thƣờng phổ thơ hoặc có tính thơ
Kỹ thuật Có thể phù hợp với nhiều đối Đòi hỏi xử lý kỹ thuật thanh nhạc trau
thanh nhạc tƣợng, không kén chọn ngƣời hát. chuốt, phức tạp, yêu cầu ngƣời hát có trình
độ về thanh nhạc
Phần đệm Tác giả chỉ sáng tác giai điệu, Phần đệm piano cố định do chính tác giả
không kèm theo phần đệm

sáng tác
Hòa âm
Không cụ thể do chỉ đƣợc tạo nên Đa dạng, góp phần thể hiện hình tƣợng
bởi sự chuyển động chiều ngang nghệ thuật, cụ thể do có sự kết hợp giữa
của giai điệu
giai điệu và phần đệm

Sự khác biệt trên có thể đƣợc minh họa bằng nhiều ca khúc Việt Nam,
nhƣ trong ca khúc 19 tháng 8 của Xuân Oanh.
VD 1.04: Xuân Oanh, 19 tháng 8, nhịp 1-20

Ca khúc này khi ra đời chỉ gồm giai điệu không có phần đệm, tính chất
hành khúc, hiệu triệu, tốc độ nhanh vừa, âm vực giới hạn khoảng một quãng
8, giai điệu tiến hành các quãng thuận, dễ hát, dễ nhớ, không kén ngƣời hát…
đây là những đặc điểm khác biệt so với CKNTVN. Các tác phẩm thỏa mãn
những đặc điểm về CKNTVN sẽ thuộc phạm vi nghiên cứu trong luận án.


16
1.2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
NCS đã tiếp cận những công trình liên quan đến hƣớng nghiên cứu của
đề tài, gồm các khía cạnh lịch sử hình thành thể loại, ca từ, cấu trúc, đặc điểm
âm nhạc trong CKNTVN. Nhƣ đã đề cập, đối tƣợng của luận án - thể loại
CKNTVN - có nhiều điểm tƣơng đồng với thể loại Romance, Lied, Mélodie
trong phƣơng Tây… Vì vậy, những nghiên cứu liên quan đến các thể loại này
cũng rất cần thiết cho việc triển khai đề tài luận án này.
1.2.1. Hệ thống các công trình nghiên cứu
Phần tổng quan nghiên cứu đƣợc chia thành hai mảng chính: các công
trình nghiên cứu liên quan đến thể loại ca khúc có phần đệm trong âm nhạc
phƣơng Tây và các công trình liên quan đến thể loại CKNTVN.

1.2.1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến thể loại ca khúc có
phần đệm trong âm nhạc phƣơng Tây
Trong các công trình liên quan đến thể loại ca khúc có phần đệm trong
âm nhạc phƣơng Tây, NCS chú ý đến một số công trình đề cập đến thời kỳ
âm nhạc Lãng mạn, các ca khúc trữ tình và đặc biệt là Romance, Lied,
Mélodie, do đây là các yếu tố gần gũi và có ảnh hƣởng tới tới thể loại
CKNTVN.
Trong công trình A history of Western Music của Donald Jay Grout,
chƣơng thứ XVI Thời kỳ Lãng mạn – Thanh nhạc (The Romantic Period:
Vocal Music) nói về sự hình thành và phát triển của Thời kỳ âm nhạc Lãng
mạn có đề cập đến thể loại CKNT (Lied) cùng một số nhà soạn nhạc tiêu biểu
[139; tr.500]. Ở đây, tác giả đã phân tích sự chuyển hóa từ các ca khúc dạng
Ballad sang ca khúc Lied trên khía cạnh cấu trúc cũng nhƣ lời thơ…Về mối
quan hệ giữa phần thanh nhạc và khí nhạc, tác giả khẳng định trong thể loại
CKNT piano đƣợc xem là có vai trò quan trọng, hỗ trợ giọng ca trong việc
minh họa lời thơ [139; tr.501].
Trong cuốn từ điển âm nhạc The New Grove, các tác giả đã nhận định


17
về tầm quan trọng của mối quan hệ giữa âm nhạc và thơ ca trong thể loại
CKNT [147; tr.143]. Và đó không chỉ là sự kết hợp mang tính chất phụ họa,
mà lúc này, ca từ còn có thể chi phối, ảnh hƣởng đến nội dung cũng nhƣ kết
cấu của tác phẩm “…đƣa đến cho thơ ca một vai trò quan trọng mới trong
việc tạo nên hình tƣợng và cấu trúc cho ca khúc”[147 tr.143]. Đến những
Mélodie ở TK XIX, sự ảnh hƣởng từ thơ ca lãng mạn đã giúp các nhạc sĩ rời
bỏ phong cách và kỹ thuật sáng tác trƣớc đó nhƣ những cấu trúc khổ thơ cứng
nhắc, hoặc sự chi phối của giọng ca đối với phần đệm [146; tr.112]. Có thể
thấy, ca từ, phần đệm luôn đƣợc chú ý, đánh giá cao trong vai trò kết hợp và
ảnh hƣởng tới giai điệu trong thể loại CKNT.

Tập 2 giáo trình Lịch sử âm nhạc thế giới [73] đã nhận định về sự khởi
nguồn của thể loại Romance tại châu Âu, gần với những bài hát thành thị ở
Tây Ban Nha [73; tr.126]. Tài liệu đề cập đến sự ra đời của Romance trong
âm nhạc phƣơng Tây [73; tr.153]. Trong thời kỳ âm nhạc Lãng mạn, nhà soạn
nhạc F.Schubert đƣợc khẳng định có vai trò“làm cho thể loại ca khúc sánh
ngang với các thể loại quan trọng khác của nghệ thuật âm nhạc”[73; tr.170].
Về khía cạnh cấu trúc, các nhà nghiên cứu đã nhận định về đặc điểm cấu
trúc trong thể loại CKNT của một số tác giả, nhƣ F. Schubert thƣờng sử dụng
“cấu trúc gồm ba phần hoặc loại có phiên khúc (couplet)” [73; tr.177], trong
khi đó Romance của nhà soạn nhạc M.I. Glinka lại: “sử dụng rộng rãi hình
thức ba phần cân đối hoặc 3/5 phần với phần giữa tƣơng phản” [73; tr.341].
Trong công trình này, các tác giả cũng đã phân tích hình tƣợng, chủ đề
trong thể loại CKNT của một số tác giả tiêu biểu trong thời kì âm nhạc Lãng
mạn. Ca khúc của F. Schubert, chủ yếu liên quan đến tình yêu, ngoài ra còn
có những màu sắc nội tâm phong phú [73; tr170]. Ca khúc của R.Schumann
còn có cảnh sinh hoạt, những bài ngợi ca, chính ca…[73; tr.240]. Trong khi
đó, chủ đề trong các tác phẩm của Mendelsohn lại là “thế giới nội tâm của
con ngƣời, những bức tranh sinh động của thiên nhiên” [73; tr.208]. Còn với


18
M.I. Glinka, chủ đề các ca khúc của ông không chỉ ở những rung động nội
tâm mà còn ở những bức tranh thiên nhiên và phong tục [73; tr.350]. Chủ đề
trong thể loại CKNT đã thể hiện rất rõ nét đặc trƣng và sự khác biệt trong
phong cách sáng tác của các nhạc sĩ thời kì âm nhạc Lãng mạn.
Về mối quan hệ giữa âm nhạc và văn học trong các Romance thời kỳ
âm nhạc Lãng mạn, các tác giả đã khẳng định mối quan hệ sâu sắc này. Các
nhà soạn nhạc thƣờng quan tâm đến thơ ca của những nhà thơ đƣơng thời
hoặc gần gũi về mặt địa lý [73; tr.224].
Ngƣợc lại, thơ ca cũng đƣợc nhận định có sự ảnh hƣởng nhất định đến

đặc điểm âm nhạc. Thơ ca Đức-Áo giúp làm đổi mới và phong phú về chủ đề,
hình tƣợng âm nhạc trong ca khúc của F. Schubert [73; tr.172]. Với nhà soạn
nhạc R.Schumann, các tác giả cũng khẳng định “Tài năng về thơ ca của
Schumann có ảnh hƣởng lớn và giữ một vai trò quyết định cho tính thống
nhất giữa nhạc và thơ trong mỗi ca khúc” [73; tr.240]. Trong những sáng tác
của các nhà soạn nhạc Nga, âm nhạc cũng luôn gần gũi và gắn bó với thơ ca
cùng thời [73; tr.351]. Trong công trình này, các tác giả đã nghiên cứu cách
thức sử dụng ngôn ngữ hòa âm, phối khí trong thời kỳ âm nhạc Lãng mạn,
trong đó có các thủ pháp về điệu tính, chuyển điệu đột ngột, biến âm và sử
dụng các công năng phụ [73; tr.155].
Các tác giả cũng phân tích về khía cạnh đặc điểm cấu trúc giai điệu,
cấu trúc hình thức đơn chủ đề… khẳng định chức năng độc lập của phần đệm
piano trong các CKNT thời kỳ âm nhạc Lãng mạn [73; tr.240], bên cạnh đó
khẳng định vai trò của phần đệm trong việc xây dựng hình tƣợng nghệ thuật
cho tác phẩm [73; tr.174].
Trong Romance phƣơng Tây, tính dân gian đã đƣợc đề cập dựa trên
việc phân tích phong cách của giai điệu trong ca khúc của Schubert [73;
tr.173]. Ngay cả với nhà soạn nhạc đặc trƣng với tính trữ tình nổi loạn R.
Schumann, giai điệu vẫn thể hiện sự ảnh hƣởng từ âm nhạc dân gian rất rõ nét


19
[73; tr.241]. Bên cạnh đó, âm nhạc của Mendelssohn cũng đƣợc nhận định
“liên quan chặt chẽ đến phong cách ca xƣớng của dân tộc…” [73; tr.208].
Công trình Các thể loại âm nhạc do Lan Hƣơng dịch [24], có đề cập đến đặc
điểm lời ca, giai điệu, cấu trúc, tính chất âm nhạc trong thể loại Romance.
Bên cạnh đó, NCS đặc biệt quan tâm tới những công trình nghiên cứu
chuyên biệt về lịch sử hình thành và phát triển của các thể loại thanh nhạc nói
chung và thể loại CKNT nói riêng. Cuốn Lịch sử nghệ thuật thanh nhạc
phƣơng Tây của tác giả Hồ Mộ La [36] đã nhận định về sự hình thành chính

thức của thể loại Romance dƣới góc độ chuyên nghiệp: “Quê hƣơng của
CKNT (romance) là nƣớc Đức…” [36; tr.192] và khẳng định vai trò lớn lao
của nhà soạn nhạc F.Schubert: “là ngƣời mở ra kỉ nguyên chủ nghĩa lãng mạn
trong âm nhạc, đặc biệt là ca khúc lãng mạn (Romance)…” [36; tr.194].
Ở khía cạnh nội dung đề tài, tác giả Hồ Mộ La khi nghiên cứu về
F.Schubert cho rằng ông thƣờng khai thác “đề tài ảnh hƣởng từ cuộc sống
nhƣ tình yêu và bi thƣơng… ” [36; tr.196-198]. Nhƣng với R.Schumann, nhà
nghiên cứu lại nhận định “nổi bật đặc trƣng của cá tính” [36; tr.202]. Trong
khi đó, những ca khúc đậm màu sắc dân tộc của Grieg “chủ yếu là ca ngợi tổ
quốc, thiên nhiên bao la, miêu tả phong tục, đời sống và tình yêu” [36;
tr.217]. CKNT của M.I. Glinka lại đƣợc cho rằng có “đề tài rộng lớn, hình
tƣợng âm nhạc phong phú” [36; tr.255].
Tác giả Hồ Mộ La cũng khẳng định mối quan hệ mật thiết giữa thơ ca
và âm nhạc trong thể loại CKNT trong thời kỳ âm nhạc Lãng mạn. Tác giả
cho rằng “nhờ có thơ trữ tình lãng mạn … CKNT của chủ nghĩa lãng mạn đã
hình thành và phát triển, với đặc điểm kết hợp hữu cơ giữa thơ trữ tình lãng
mạn với âm nhạc”. Nói về CKNT của F. Schubert, nhà nghiên cứu cho rằng
các tác phẩm đã “nâng thơ ca lên một đỉnh cao về sức biểu hiện và tƣởng
tƣợng” [36; tr.195]. Với nhà soạn nhạc R. Schumann, tác giả Hồ Mộ La lại
cho rằng “có những ca khúc piano thay cho tiếng hát, trực tiếp thổ lộ tiếng


20

nói nội tâm, thể hiện sâu nội hàm của ca từ” [36; tr.203]. Với nhà soạn nhạc
Hugo Wolf, ngƣời đã sáng tác trên 500 ca khúc xuất sắc, tác giả đã viết về vai
trò quan trọng của thơ ca trong sự nghiệp sáng tác thanh nhạc của ông nhƣ sau
“ Ông chú trọng kết hợp ca từ với âm nhạc, thể hiện cá tính, khắc họa chi tiết
nhân vật” [36; tr.219]. Còn với nhà soạn nhạc ngƣời Nga, M.I. Glinka, ca
khúc của ông đƣợc gọi là “Văn học Puskin bằng âm nhạc” [36; tr.255]. Tác

giả nhận định về chức năng của phần đệm piano trong CKNT của nhà soạn
nhạc R.Schumann: “Có những ca khúc piano thay cho tiếng hát, trực tiếp thổ
lộ tiếng nói nội tâm, thể hiện sâu nội hàm của ca từ.” [36; tr.203].
Với bài viết Tìm hiểu về Romance - nguồn gốc lịch sử và quá trình phát
triển [16], tác giả Cù Lệ Duyên giới thiệu quá trình hình thành và phát triển
của thể loại Romance, những dạng biểu hiện của khái niệm Romance trong
thời kì đầu và sự biến đổi trong giai đoạn sau. Tác giả nhận định “chỉ đến đầu
TK XIX, Romance mới đƣợc khẳng định nhƣ thể loại CKNT nhất thiết phải có
phần đệm”. Tác giả đã khẳng định “lịch sử phát triển của Romance liên quan
mật thiết đến lịch sử phát triển thơ ca”, kể cả trong giai đoạn âm nhạc CậnHiện đại ở TK XX [16].
1.2.1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến ca khúc nghệ thuật Việt Nam
Những công trình nghiên cứu về lịch sử âm nhạc Việt Nam từ trƣớc tới
nay đã đạt đƣợc những kết quả nghiên cứu có giá trị, kể cả trong khía cạnh âm
nhạc truyền thống và nhạc mới. Tuy nhiên, riêng với thể loại CKNT, những
công trình nghiên cứu mang tính chuyên sâu, hệ thống và tổng quát thì chƣa
có nhiều. Những công trình nghiên cứu thƣờng chỉ khai thác, phân tích hoặc
đề cập đến một khía cạnh có liên quan hoặc một số tác phẩm của một tác giả
cụ thể trong thể loại CKNTVN.
Trong công trình Lƣợc sử âm nhạc Việt Nam [44], tác giả Nguyễn Thụy
Loan đã nghiên cứu bối cảnh trong hai giai đoạn kháng chiến cùng những
cuộc tiếp biến văn hóa phƣơng Tây làm nảy sinh những thể loại âm nhạc mới,


21
trong đó có thể loại ca khúc. Tác giả có đề cập đến sự xuất hiện của những ca
khúc phổ thơ [44; tr.111]. Những bài hát phổ thơ là một trong những dấu hiệu
bắt đầu của phong cách sáng tác theo dạng Romance Tây Âu.
Trong một công trình khác, cuốn Lịch sử âm nhạc Việt Nam - Tiến
trình và thành tựu [60], các nhà nghiên cứu cho rằng thuật ngữ CKNT ra đời
trong đời sống âm nhạc miền Bắc những năm 1960, là hệ quả của quá trình

tiếp biến văn hóa lần thứ hai từ phƣơng Tây. Thể loại ca khúc Việt Nam đƣợc
nở rộ trong giai đoạn 1954-1975 do đây là giai đoạn hình thành nền âm nhạc
chuyên nghiệp một cách đồng bộ trên các lĩnh vực biểu diễn, đào tạo, lý luận,
nghiên cứu… Các kết quả nghiên cứu đã cho thấy hình tƣợng, nội dung, chủ
đề trong thể loại CKNT rất đa dạng và phong phú, bao gồm đề tài quê hƣơngđất nƣớc, Bác Hồ, những anh hùng cách mạng, hình tƣợng ngƣời phụ nữ, cảm
xúc về những thành phố [60]…
Về đặc điểm mối quan hệ giữa thơ ca và âm nhạc trong CKNTVN,
trong công trình này, các tác giả đã khẳng định “…bƣớc vào giai đoạn 19541975, các nhạc sĩ viết ca khúc trữ tình có xu hƣớng phổ thơ (hoặc phỏng thơ)
ngày càng gia tăng, nhất là đối với CKNT” [60; tr.396]. Để chứng minh cho
sự khác biệt giữa mối liên hệ của thơ ca với thể loại CKNT so với các thể loại
ca khúc khác, các nhà nghiên cứu đã thống kê về tỷ lệ phổ thơ trong các thể
loại ca khúc khác nhau. Nhằm khẳng định đặc điểm về giá trị của ca từ trong
thể loại này, các tác giả đã nhận định “Ca khúc trữ tình viết theo phong cách
nghệ thuật là loại ca khúc rất “kén” ca từ” [60; tr.395]. Lời ca đƣợc đề cao
với vai trò trong việc thể hiện hình tƣợng nghệ thuật”, đồng thời trong việc
tạo nên giá trị và phong cách cho thể loại.
Liên quan đến việc sử dụng chất liệu dân tộc trong ca khúc Việt Nam,
các nhà nghiên cứu đã phân tích yếu tố dân tộc học trong một số tác phẩm cụ
thể thuộc thể loại CKNTVN. Khi đề cập đến vốn chất liệu âm nhạc dân gian
phong phú, các nhà nghiên cứu cho rằng chất liệu từ âm nhạc Tây Nguyên


×