Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Quá trình hình thành khu vực mậu dịch
tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA)
1.1. Những nhân tố thúc đẩy sự hình thành ACFTA
1.1.1. Sự phát triển mạnh mẽ của các khu vực mậu dịch tự do
(FTA) trên toàn cầu
Nền kinh tế thế giới đã trải qua sự biến đổi cha từng thấy trong nửa cuối những
năm 1990. Đặc biệt, các hoạt động của các tập đoàn đã đợc toàn cầu hoá mạnh mẽ
thông qua đầu t trực tiếp nớc ngoài (FDI), sự sáp nhập và mua lại (M&As) xuyên biên
giới và thông qua các kênh giao dịch quốc tế khác nhau. Cùng với cuộc cách mạng
công nghệ thông tin, luật chơi mới về cạnh tranh đã đợc thiết lập ở các lĩnh vực nh
kiểm soát quản lý, quản lý công nghệ, nội địa hoá và mối quan hệ giữa các hãng, tìm
kiếm các nguồn lực bên ngoài và sử dụng các chính sách thơng mại quốc tế.
Mục đích và nội dung của các thoả thuận thơng mại u đãi (PTA) cũng đã thay
đổi mạnh mẽ. Trong quá trình hình thành khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA)
và Liên minh Châu Âu (EU) vào nửa đầu những năm 1990, cuộc thảo luận kinh tế về
những quan điểm thuận và chống PTA phần lớn chỉ giới hạn ở những đánh giá mang
tính lý thuyết và chiêm nghiệm về sức sáng tạo thơng mại của J. Viner [1] và các tác
động méo mó của thơng mại. Tuy nhiên, không khí xung quanh ý tởng chủ nghĩa khu
vực đã thay đổi mạnh mẽ vào nửa cuối những năm 1990.
Một đối tác tích cực là EU. Sau khi hoàn thành sự hội nhập sâu sắc giữa các nớc
thành viên, EU bắt đầu đàm phán một loạt khu vực mậu dịch tự do (FTA Free Trade
Area) với một số thành viên của Hội đồng thơng mại tự do Châu Âu (EFTA), với các
nớc Đông Âu và các nớc ven Địa Trung Hải. Các đối tác tích cực khác là những nớc t-
ơng đối nhỏ bao gồm Mehico, Chile và Singapore. Những nớc này đã đàm phán và ký
kết một số FTA với cả những nớc trong khu vực cũng nh những nớc cách xa về địa lý.
Bị kích thích bởi các bớc phát triển này, trong suốt những năm 80, Mỹ đã tích cực theo
đuổi khả năng thành lập khu vực mậu dịch tự do với các nớc khác ở khu vực Châu á -
Thái Bình Dơng. Bớc đi đầu tiên của nớc này là việc đa ra đề nghị thành lập khu vực
mậu dịch tự do với Australia. Năm 1987, Mike Mansfield - đại sứ Mỹ tại Nhật Bản đã
đa ra đề nghị nghiên cứu khả năng thành lập Khu vực mậu dịch tự do Mỹ Nhật Bản.
Năm 1989, báo cáo cuối cùng về Sáng kiến ASEAN Mỹ đã đợc cùng nghiên cứu
và đa ra kêu gọi thành lập khu vực mậu dịch tự do giữa ASEAN và Mỹ. Gần đây hơn,
năm 1997, Mỹ đã đa ra đề nghị thành lập khu vực mậu dịch tự do P5 (Pacific 5
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thơng - 1
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
nhóm 5 nớc ở Thái Bình Dơng, bao gồm Australia, Chile, New Zealand, Singapore và
Mỹ). Sang đến năm 2002, quá trình thành lập các khu vực mậu dịch tự do đã đợc Mỹ
đẩy mạnh. Ngoài những FTA với Mehico, Canada, Jordan và Israel, trong năm 2003,
Mỹ đã ký FTA với Singapore, Chile và các hiệp định khung về thơng mại và đầu t với
Thái Lan, Philippines và Indonesia. Đầu tháng 6/ 2003, Mỹ cũng bắt đầu thơng thảo
để ký FTA với Liên hiệp quan thuế miền nam châu Phi (gồm các nớc Nam Phi,
Boswana, Lesotho, Namibia và Swaziland). Ngoài ra, Mỹ cũng đang xem xét khả năng
ký kết FTA với Colombia và Bahrain (xem bảng 1).
Bảng : Các khu mậu dịch tự do lớn của 1 số nớc
Các khu mậu dịch tự do đã ký kết
Singapore Mehico Chile Mỹ EC/ EU *
New Zealand,
Nhật Bản,
EFTA
Mỹ và Canada
(NAFTA), EU,
EFTA, Chile,
Israel, Các nớc
thuộc khối tam
giác phía bắc
(El Salvador,
Honduras,
Nicaragoa),
Dominica,
Nicaragoa,
Costa Rica,
Bolivia, G3.
Canada, Mehico,
Trung Mỹ (Costa Rica,
El Salvador, Honduras,
Guatamela,
Nicaragoa), Venezuela,
Columbia, Equdor,
MERCOSUR,
Peru, Bolivia
Canada và
Mehico
(NAFTA),
Israel, Jordan
Malta, Cyprus,
Andora, Thổ Nhĩ
Kỳ, Thuỵ Sỹ,
Liechtenstein,
Ireland, Norway,
Séc, Hungary, Ba
Lan, Slovak,
Rumania, Bulgaria,
Lithuania, Estonia,
Latvia, Faeroes,
Slovenia, Mehico,
Chile, Palestine,
Tunisia, Israel,
Jordan
Các khu mậu dịch tự do đang đàm phán hay có kế hoạch bắt đầu đàm phán
Mỹ, Mehico,
Canada,
Australia
Singapore
Mỹ, EU, EFTA,
Hàn Quốc, Panama,
Cuba, MERCOSUR
Chile, FTAA,
Singapore
MERCOSUR,
Các nớc khối
Andean (Bolivia,
Columbia, Peru,
Venezuela)
Các khu mậu dịch tự do đang ở giai đoạn đề xuất
Chile, EU, Hàn
Quốc, Pacific 5
Nhật, New
Zealand
Nhật, Singapore,
Pacific 5
Pacific 5
Nguồn: Bộ Kinh tế, Thơng mại và Công nghiệp Nhật Bản (METI), 2001,
/>Theo Sách trắng về thơng mại quốc tế của JETRO (Tổ chức xúc tiến thơng mại
Nhật Bản), cho đến tháng 5/ 2003 đã có khoảng 250 hiệp định mậu dịch tự do (FTA)
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thơng - 2
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
song phơng và khu vực đã đợc thông báo cho GATT/ WTO, trong đó có 130 hiệp định
đợc thông báo sau tháng 1/ 1995. Khoảng trên 170 FTA đang có hiệu lực và 70 FTA
khác đã có hiệu lực mặc dù cha đợc thông báo cho WTO. Dự kiến đến cuối năm 2005,
sẽ có 300 hiệp định mậu dịch tự do song phơng và khu vực có hiệu lực [2]. Chính tổng
giám đốc WTO Sapuchai Panitchpakdhi cũng phải thừa nhận xu thế đàm phán hiệp
định mậu dịch tự do song phơng và khu vực đã trở nên phổ biến, và nghi ngại rằng xu
thế này có thể phá vỡ các hoạt động đa phơng trong khuôn khổ WTO [3].
ở khu vực Đông á, tính đến tháng 12/ 2002 chỉ có 4 khu vực nh vậy đợc ký kết
(tham khảo Phụ lục 1), nhng điều cần nói là xu hớng này mới chỉ xuất hiện ở Đông á
từ năm 1999. Vào cuối năm 1998, Hàn Quốc đã đề nghị Nhật Bản nghiên cứu khả
năng thành lập khu vực mậu dịch tự do giữa hai nớc. Tháng 9/ 1999, Singapore đã nhất
trí với New Zealand về việc bắt đầu đàm phán thành lập khu vực mậu dịch tự do, nớc
này cũng đa ra đề nghị tơng tự đối với các nớc Chile, Mehico và Hàn Quốc. Tháng 10
năm đó, Singapore đã đa ra đề nghị thiết lập quan hệ giữa Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN (AFTA) với Hiệp định quan hệ kinh tế gần gũi hơn giữa Australia và New
Zealand (CER). Tháng 11 năm đó, Singapore bắt đầu đàm phán với Chile và tháng 12,
nớc này đề nghị đi đến một hiệp định với Nhật Bản.
Chỉ đến năm 1999 và 2000, các cuộc đàm phán và nghiên cứu ở cấp chính phủ
mới thật sự có đợc động lực, và đi tiên phong là Singapore khi nớc này đa ra sáng kiến
đàm phán và nghiên cứu về khu vực mậu dịch tự do với một loạt các nớc khác trong
khu vực. Khái niệm về khu vực mậu dịch tự do đại Đông á (EAFTA) đã đợc đa ra thảo
luận tại Hội nghị thợng đỉnh ASEAN + 3 tổ chức vào tháng 12/ 2000 và các nớc đã đi
đến nhất trí thành lập một nhóm nghiên cứu về vấn đề này. Năm 2001, Singapore và
New Zealand đã đạt đợc thoả thuận và đó là khu vực mậu dịch tự do đầu tiên ở Đông
á phù hợp với Điều 24 của Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch (GATT). Tháng
11 năm đó, ASEAN và Trung Quốc đã đi đến thoả thuận về nguyên tắc đối với việc
thành lập 1 khu vực mậu dịch tự do giữa các nớc ASEAN và Trung Quốc trong vòng
10 năm.
Lý do khiến cho hàng loạt FTA nói trên đợc ký kết là bởi lẽ thực tế đã cho
thấy, ở một mức độ nhất định, nguồn lợi mà FTA mang lại cho các quốc gia là rất
lớn:
Thứ nhất, về phạm vi điều chỉnh, các FTA gần nh bao gồm toàn bộ các lĩnh vực
trong quan hệ kinh tế thơng mại giữa các thành viên: không chỉ thơng mại hàng hoá,
thơng mại dịch vụ, các biện pháp đầu t liên quan đến thơng mại, mà cả các vấn đề
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thơng - 3
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
khác nh du lịch, thơng mại điện tử, doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát thanh truyền hình
(tham khảo Phụ lục 2). Với phạm vi bao quát rộng nh vậy, FTA sẽ đem lại nhiều lợi ích
nh mở rộng thị trờng xuất khẩu, tạo công ăn việc làm, xúc tiến đầu t và chuyển giao
công nghệ, tăng cờng đàm phán đối với một nớc thứ ba. Hơn thế nữa, tự do thơng mại
thông qua FTA sẽ càng làm tăng sức cạnh tranh của các nhà xuất khẩu và các tổ chức
thơng mại của các nớc thành viên, tạo điều kiện cho họ dễ dàng thành công trong các
vòng đàm phán đa phơng. Với ý nghĩa nh vậy, FTA chính là cánh cửa để một nớc hội
nhập thơng mại với thế giới, khởi đầu cho quá trình tự do hoá cạnh tranh, từ đó các n-
ớc có nhiều cơ hội để lựa chọn đối tác thích hợp.
Thứ hai, mức độ điều chỉnh của các FTA sâu rộng hơn rất nhiều so với WTO,
với những u đãi cao nhất, tạo điều kiện thuận lợi tiến tới tự do hoá tối đa và triệt tiêu
hoàn toàn những trở ngại đối với thơng mại hàng hoá, dịch vụ, đầu t, đặc biệt là vấn đề
triệt tiêu thuế suất nhập khẩu xuống 0% và các u đãi mở cửa thị trờng đầu t. Ngoài ra,
bản chất của các FTA không chỉ đơn thuần là việc tự do hoá thơng mại, mà còn bao
gồm cả việc hợp tác trong tất cả các lĩnh vực ngoài thơng mại, ví dụ: hợp tác trong lĩnh
vực phát triển nguồn nhân lực, hợp tác trong việc phát triển công nghệ thông tin, đơn
giản hoá thủ tục hải quan, xúc tiến thơng mại và đầu t, hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và
nhỏ, Nói cách khác, do hầu hết các FTA, đặc biệt là những FTA mới đợc ký kết gần
đây, đã đa dạng hoá nội dung bên cạnh nội dung loại bỏ thuế quan và tự do hoá khu
vực dịch vụ nên mỗi khi con đờng đa phơng bị tắc nghẽn hay cản trở, các nớc liền tìm
đến những dàn xếp song phơng hay khu vực.
Tuy nhiên, nói nh vậy không có nghĩa là các FTA luôn đi ngợc lại với tiến trình
của các vòng đàm phán đa phơng, bởi cho đến nay vẫn cha có nghiên cứu nào chứng
minh đợc các Khu vực mậu dịch tự do hỗ trợ hay ngăn cản tự do hoá thơng mại trên
phạm vi toàn cầu. Nhng có thể thấy thành viên của hai khối mậu dịch tự do lớn nhất là
EU và NAFTA đều là thành viên của WTO mà nguyên tắc cơ bản của tổ chức này là
tối huệ quốc (không phân biệt đối xử) đợc nêu rõ ở điều khoản I, nên khả năng các
FTA ngăn cản tiến trình tự do hoá toàn cầu là khó xảy ra.
Thật vậy, tuy GATT và WTO đề cao nguyên tắc không phân biệt đối xử trong
ngoại thơng nhng vẫn có những điều khoản cụ thể cho phép các thành viên tham gia
FTA, với điều kiện phải thông báo về những FTA đó. Điều 24 của GATT quy định về
việc thành lập và hoạt động của FTA và liên hiệp thuế quan đối với trao đổi hàng hoá.
Điều 5 của GATS (Hiệp định chung về thơng mại và dịch vụ) cho phép lập các FTA về
trao đổi dịch vụ. Ngoài ra còn có một điều khoản đặc biệt cho phép ký kết FTA về trao
đổi hàng hoá giữa các thành viên là nớc đang phát triển. Các quy định này có thể
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thơng - 4
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
không bắt buộc trong các vụ giải quyết tranh chấp nhng có tác dụng nh là nguyên tắc
ứng xử ở một chừng mực nào đó. Tuy nhiên, còn vợt xa phạm vi của những điều khoản
này là việc không tồn tại bất kỳ một quy định chính sách nào khác đợc quốc tế thừa
nhận. Vì thế, các thoả thuận khu vực có thể chứa đựng hầu hết các vấn đề vợt xa thơng
mại hàng hoá và dịch vụ. Nói cách khác, ở một mức độ nhất định, các FTA có tính bổ
sung cho WTO trong việc tự do hoá thơng mại. Chính vì vậy, giới học giả Nhật cho
rằng các FTA nên theo mô hình WTO cộng, nghĩa là bao gồm nhiều lĩnh vực hơn
và mức độ sâu rộng hơn. Tại Hội nghị thách thức và cơ hội đối với việc hợp tác khu
vực APEC ngày 16/ 5/ 2003 tại Tokyo (Nhật Bản), Đại sứ Singapore tại Nhật Bản cũng
nêu rõ: Tự do hoá thơng mại theo WTO không có đợc nhiều bớc tiến trong những năm
gần đây do WTO có quá nhiều thành viên. Trong bối cảnh nh vậy, các hiệp định tự do
khu vực và song phơng sẽ là cơ chế bổ sung tốt cho tiến trình đa phơng [3]. Nh vậy,
FTA là cách tiếp cận tốt thứ nhì đối với tự do hoá mậu dịch nhng là giải pháp khả thi
nhất trong một thế giới đa dạng. Tuy nhiên, FTA chỉ trở thành những viên đá lát đờng
cho toàn cầu hoá khi nó phải đảm bảo rằng ảnh hởng do thơng mại tăng lên (trade
creation) lớn hơn ảnh hởng do thơng mại giảm đi (trade diversion) [1]. Đến khi đó,
FTA sẽ có thể trở thành một đòn bẩy thúc đẩy chủ nghĩa đa phơng và tự do thơng mại
toàn cầu và cuối cùng, chủ nghĩa khu vực mới sẽ đi vào liên kết kinh tế theo chiều sâu.
Một điểm lợi nữa của FTA là trong quá trình hình thành mạng lới các FTA, mối
liên hệ với đầu t trực tiếp nớc ngoài (FDI) và cải cách kinh tế trong nớc đã đặc biệt đợc
chú trọng. Các FTA đợc xem nh là các công cụ chính sách để giới hạn hay thúc đẩy cải
cách trong nớc cũng nh thu hút FDI hơn là trông chờ có đợc các tác động trực tiếp to
lớn của giảm thuế quan. Trên thực tế, Mehico đã đợc hởng những tác động tích cực rõ
ràng của NAFTA đối với cả việc thu hút FDI và việc giới hạn cải cách cơ cấu trong n-
ớc. Các nớc Đông Âu đã cố gắng giới hạn quá trình chuyển đổi mạnh mẽ các hệ thống
kinh tế của họ và một số nớc trong số họ đã rất thành công trong việc thu hút FDI.
Thêm vào nữa, các nớc đã bắt đầu cảm nhận đợc rằng cái giá của việc không
phải là thành viên của bất kỳ thoả thuận khu vực nào là có thật. Giá ở đây gồm sự mất
đi thế đàm phán trong các cuộc đàm phán đa phơng, bỏ lỡ các cơ hội hởng lợi từ bên
ngoài và sự chậm trễ nói chung trong việc sử dụng hiệu quả làn sóng toàn cầu hoá.
Mehico, Chile và Singapore muốn rằng họ trở thành trung tâm mạng lới FTA và hởng
lợi ích của sự kết nối. Một nớc trung tâm có các lợi thế tiềm năng đối với các nớc khác
ở đầu bên kia trong việc hình thành các luồng thơng mại và mạng lới sản xuất thông
qua FDI. Một tài sản quan trọng của các thoả thuận FTA trong bối cảnh này là một n-
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thơng - 5
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
ớc (ví dụ Mehico) có thể ký kết một FTA mới (ví dụ với EU) mà không cần thay đổi
bất cứ thoả thuận FTA cũ nào (ví dụ NAFTA).
Nói tóm lại, chính do những lợi điểm kể trên mà việc mở rộng liên kết, thiết lập
các Khu vực mậu dịch tự do đã trở thành hớng đi đợc các nớc chú trọng nhằm khai
thác tốt nhất lợi thế so sánh của từng quốc gia, tạo ra sân chơi hấp dẫn đầy tiềm năng
đáp ứng lợi ích của tất cả các bên có liên quan.
Tuy vậy, các FTA cũng đặt ra 1 số vấn đề đáng quan tâm:
Thứ nhất, các chính phủ hiện theo đuổi FTA nh là 1 công cụ trong chính sách
thơng mại gồm nhiều tầng nấc đan xen nhau, gồm cả song phơng, khu vực và đa ph-
ơng. Đối với từng chính phủ, chính sách này đòi hỏi rất nhiều nguồn lực, kể cả con ng-
ời và vật chất, do đó có thể trở thành gánh nặng, nhất là đối với các nớc đang phát
triển; còn đối với WTO, quá nhiều FTA mà không có sự điều phối thoả đáng thì điều
này có thể đe dọa sẽ làm đổ vỡ tiến trình Doha. Chính vì vậy, Tổng giám đốc WTO,
Tiến sĩ Sapuchai Panitchpakdhi, đã phải thừa nhận rằng: FTA là con dao hai lỡi và là
nguyên nhân làm chậm tiến trình toàn cầu hoá [4].
Thứ hai, hầu nh tất cả các FTA hình thành trong thời gian gần đây đều có nội
dung toàn diện, không chỉ giải quyết các rào cản tại biên giới quốc gia nh các FTA
truyền thống mà còn bao trùm các lĩnh vực dịch vụ và sở hữu trí tuệ, đặc biệt cả đầu t
và thơng mại điện tử, là những lĩnh vực cha có quy định quốc tế chung. Câu hỏi đặt
ra là liệu các cam kết mang tính ràng buộc trong những lĩnh vực mới đó có thật sự phù
hợp và thuận lợi, hay trên thực tế chúng lại đặt ra những rào cản mới cho các nớc bên
ngoài và tác động tiêu cực đến tiến trình đàm phán đa phơng về các lĩnh vực này.
Ngoài ra, còn phải kể đến những vấn đề truyền thống đặt ra cho FTA nói chung, nhất
là về khả năng tác động giảm bớt thơng mại của các nớc không tham gia FTA.
Thứ ba, nhiều nớc tham gia FTA dờng nh chỉ nhằm mục đích tự vệ để tránh bị
gạt ra ngoài, chứ hoàn toàn không theo 1 chiến lợc bài bản, khiến tình hình FTA nói
chung trên thế giới ngày càng phức tạp, đặc biệt tại Đông á. Nhật Bản và Malaysia
cách đây không lâu còn rất bàng quan, giờ đã trở thành những nớc ráo riết tìm kiếm
FTA song phơng, chủ yếu vì lo ngại các nớc khác có FTA sẽ chiếm mất thị trờng
truyền thống của họ.
Thứ t, mặc dù các FTA song phơng nhìn chung đều mang tính mở cửa hơn so
với WTO, song vẫn không giải quyết đợc những lĩnh vực hoặc những ngành hàng nhạy
cảm của từng nớc. Nông lâm ng nghiệp của Nhật Bản là 1 thí dụ rõ rệt nhất.
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thơng - 6
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Nhật Bản đã chọn Singapore làm đối tác đàm phán FTA đầu tiên vì quốc đảo Đông
Nam á này hầu nh không xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp, vậy mà xuất khẩu cá
vàng (gold fish) của Singapore vẫn là một vấn đề lớn trong tiến trình đàm phán giữa 2
nớc. Liên quan đến vấn đề này, cũng cần chỉ ra rằng vì các FTA song phơng thờng đợc
thiết kế sao cho phù hợp với điều kiện cụ thể của hai nớc liên quan, cho nên chúng rất
khó có thể mở cho các nớc khác cùng tham gia, trừ khi là phải xây dựng một hiệp định
mới.
Thứ năm, liên quan đến thơng mại hàng hoá là lĩnh vực quan trọng nhất song
hầu hết các FTA quy định về xuất xứ trong các hiệp định thờng rất khác nhau. Nếu
một nớc tham gia nhiều FTA song phơng, mà quy tắc xuất xứ của một loại hàng hoá
nào đó lại khác nhau trong từng hiệp định, thì doanh nghiệp xuất khẩu mặt hàng đó
chắc chắn sẽ gặp nhiều khó khăn; về phía chính phủ, cơ quan hải quan cũng sẽ vất vả.
Nói tóm lại, lợi ích của các FTA, ngay cả trong ngắn hạn, luôn gắn liền với th-
ơng mại và đầu t. Do đó, chừng nào lợng việc làm do đầu t nớc ngoài tạo ra còn bù đợc
cho những mất mát của các ngành công nghiệp không cạnh tranh đợc với hàng nhập
khẩu thì tham gia FTA vẫn có thể có ích cho toàn xã hội.
1.1.2. Sức mạnh kinh tế mới của Trung Quốc và sự hấp dẫn
của khu vực kinh tế năng động ASEAN.
Đây cũng là một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy sự hình thành của
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc. Tăng trởng kinh tế đã từng là thành
tích đầy ấn tợng của Trung Quốc và phần lớn các nớc ASEAN trong 3 thập kỷ vừa qua.
Cả Trung Quốc và ASEAN đều theo đuổi chiến lợc tăng trởng hớng về xuất khẩu và đã
đạt đợc các tỷ lệ tăng trởng cao hơn nhiều tỷ lệ trung bình của thế giới.
Kể từ khi mở cửa ra bên ngoài, tăng trởng kinh tế của Trung Quốc đạt hơn 10%
hàng năm. Vào những năm 90, Trung Quốc tăng trởng ở mức cao nhất trên thế giới.
Tổng tiết kiệm nội địa và tổng đầu t trong thập kỷ cuối đạt lần lợt hơn 40% và 34%
GDP. Thành tích trong khu vực đối ngoại cũng rất gây ấn tợng, xuất khẩu tăng ở mức
trung bình hàng năm hơn 15%, dự trữ quốc tế của Trung Quốc năm 1997 đạt hơn mức
nhập khẩu tơng đơng của 12 tháng. Vốn nớc ngoài chủ yếu là đầu t trực tiếp nớc
ngoài, đã tăng 275 lần trong giai đoạn từ năm 1983 đến 1986 [5]. Thâm hụt ngân sách
và tỷ lệ lạm phát khá cao trong nửa đầu những năm 90 do sự thịnh vợng kinh tế, đã
dần hạ xuống từ năm 1996. Các yếu tố vĩ mô cơ bản (xem bảng 2), cùng với việc
không quy đổi của đồng tiền đã lý giải tại sao Trung Quốc không bị tác động trực tiếp
của khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực năm 1997 giống nh các nớc châu á khác.
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thơng - 7
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Bảng : Một vài chỉ số kinh tế vĩ mô của Trung Quốc
Đơn vị: %
Tỷ lệ tăng
trởng
1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998*
GDP thực 3.84 9.19 14.24 13.49 12.66 10.55 9.54 8.80 7.80
Lạm phát 3.06 3.54 6.34 14.60 24.20 16.90 8.30 2.80 -0.90
Xuất khẩu 19.20 14.36 18.07 8.76 35.56 24.91 17.93 20.91
Nhập khẩu -13.28 18.47 28.32 34.06 10.38 15.52 19.52 3.73
*: cho đến tháng 11/ 1998
Nguồn: J.Lim, Tăng trởng kinh tế của Trung Quốc và hệ luỵ của nó đối với ASEAN Báo
cáo nghiên cứu của Hệ thống các trung tâm nghiên cứu APEC của Philippines (PASCN), 2001.
Từ bảng trên có thể thấy tốc độ tăng trởng GDP của Trung Quốc tăng khá đều
qua các năm, bình quân đạt 7 8%/ năm, đặc biệt vào năm 1997 1998, trong khi
các nớc Châu á đang điêu đứng vì khủng hoảng thì Trung Quốc vẫn duy trì đợc tốc độ
tăng trởng cao và ổn định. Xuất khẩu và nhập khẩu đều có sự tăng trởng theo hớng cán
cân thơng mại ngày càng nghiêng về phía xuất khẩu. Cùng với sự tăng trởng cao của
GDP và ngoại thơng, tốc độ lạm phát cũng đợc điều tiết khá hiệu quả, giảm dần qua
các năm, cho thấy chính sách quản lý vĩ mô của Trung Quốc rất tốt. Tính chung trong
cả giai đoạn kể từ khi bắt đầu thực hiện chính sách cải cách và mở cửa vào năm 1978
đến năm 2001, tốc độ tăng trởng GDP bình quân của Trung Quốc là 9.3%/ năm, và
tăng trởng thơng mại đạt 15%/ năm. Nói cách khác, trong 23 năm qua, GDP và ngoại
thơng của Trung Quốc đã tăng tơng ứng 8 và 25 lần [6]. Dự trữ ngoại tệ năm 2001 vợt
250 tỷ USD, đứng thứ hai trên thế giới. Cơ cấu ngành nghề biến đổi nhanh: tỷ trọng
nông nghiệp chỉ còn 15% trong GDP, dịch vụ đã lên tới 33.6%; dự trữ lơng thực, dầu
thô tăng đáng kể [7]. Hiện nay, Trung Quốc đã trở thành nền kinh tế lớn thứ 7 thế giới
tính theo tỷ giá hối đoái chính thức, và lớn thứ 2 nếu tính theo sức mua [6]. Nhờ kinh
tế tăng trởng nhanh, Trung Quốc đã giảm mạnh đợc số ngời sống dới ngỡng nghèo
đói. Đồng thời, Trung Quốc đã không chỉ phát triển đợc nền kinh tế của mình mà còn
có nhiều đóng góp đối với các nền kinh tế Châu á. Ví dụ, trong cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ Châu á 1997, Trung Quốc đã không phá giá đồng NDT và do vậy đã giúp
các nớc bị ảnh hởng của cuộc khủng hoảng tránh đợc tình trạng phá giá để cạnh tranh,
phần nào giúp các nớc nhanh chóng phục hồi sau khủng hoảng.
Bớc sang năm 2002, một năm sau khi Trung Quốc chính thức gia nhập WTO,
mặc dù bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều nhân tố bất lợi cho sự phát triển nhng nền
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thơng - 8
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
kinh tế Trung Quốc vẫn có một năm đầy sức sống với những thay đổi tích cực của đầu
t, tiêu dùng và xuất khẩu (xem biểu đồ 1).
Biểu đồ : Tốc độ tăng trởng các chỉ số kinh tế vĩ mô của Trung Quốc năm 2002
Đơn vị: %
Nguồn: Cục Thống kê Trung Quốc (NBS) [8].
Từ biểu đồ trên có thể thấy, mức tăng trởng kinh tế Trung Quốc năm 2002 đạt
8%, cao hơn so với mức dự báo đầu năm là 7% và mức tăng 7.3% của năm 2001. Đặc
điểm của sự tăng trởng kinh tế Trung Quốc năm 2002 là mức tăng trởng GDP theo quý
khá đều đặn: quý I tăng 7.6%; quý II tăng 8%; quý III tăng 8.1%. Tổng GDP trong cả
năm đạt 10,000 tỷ NDT, tơng đơng 1,248 tỷ USD [8].
Cùng với sự tăng trởng của GDP, kim ngạch ngoại thơng của Trung Quốc năm
2002 cũng tăng gấp khoảng 30 lần so với cách đây 24 năm, khi nớc này bắt đầu cải
cách và mở cửa. Năm 1978, kim ngạch ngoại thơng của Trung Quốc đạt 20.6 tỷ USD,
đứng thứ 32 trong danh sách ngoại thơng toàn cầu. Năm 2001, với 509.8 tỷ USD,
Trung Quốc trở thành nớc buôn bán lớn thứ 6 trên thế giới. Sau một năm gia nhập
WTO, kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc năm 2002 tăng 22.3% so với năm trớc,
đạt 325.57 tỷ USD, lần đầu tiên vợt ngỡng 300 tỷ USD. Tổng kim ngạch ngoại thơng
năm 2002 đạt 620.79 tỷ USD, tăng 17.6%, xếp hàng thứ 5 thế giới; trong đó thặng d
mậu dịch là 30.35 tỷ USD, tăng 34.6 %, mức cao nhất trong 4 năm qua [9].
Thu hút vốn FDI tăng bình quân 14.2%/ năm, liên tục 9 năm liền đứng hàng
đầu các nớc đang phát triển, đã có 400 trên tổng số 500 công ty hàng đầu thế giới đặt
cơ sở tại Trung Quốc [7]. Trong những năm 1980, FDI vào Trung Quốc chỉ là 2 3 tỷ
USD/ năm. FDI chỉ bắt đầu tăng mạnh từ những năm 1992 1993, Trung Quốc trở
thành nớc tiếp nhận FDI lớn nhất trong số các nớc đang phát triển (tham khảo Phụ lục
3). Năm 2002, đầu t trực tiếp nớc ngoài tăng 8.7%, lần đầu tiên vợt Mỹ, đạt mức kỷ
lục 52.7 tỷ USD, Trung Quốc trở thành nớc tiếp nhận đầu t trực tiếp nớc ngoài nhiều
nhất thế giới. Tính trung bình cả giai đoạn, Trung Quốc thu hút khoảng 45 tỷ USD
vốn/ năm, đứng đầu trong các nớc đang phát triển và đứng thứ hai thế giới, chỉ sau Mỹ
[6].
Sự tăng trởng liên tục của xuất khẩu và đầu t trực tiếp nớc ngoài đã đem lại cho
Trung Quốc một nguồn dự trữ ngoại tệ dồi dào. Tính đến cuối năm 2002, dự trữ ngoại
hối của Trung Quốc đạt 274 tỷ USD, tơng đơng tổng giá trị nhập khẩu của cả nớc
trong 10 tháng, tăng xấp xỉ 30% so với mức 212.1 tỷ USD vào cuối năm 2001 [8].
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thơng - 9
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Tính trung bình trong thời gian 5 năm (1997 2002), dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc
đã tăng 104.7%, từ 139.9 tỷ USD lên tới 286.4 tỷ USD, đa nớc này trở thành nớc có
mức dự trữ ngoại tệ lớn thứ hai trên thế giới, sau Nhật Bản [10]. Nguồn dữ trữ ngoại tệ
lớn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với một quốc gia đang phát triển nh Trung
Quốc, nhất là trong thời điểm hiện nay, khi tỷ giá hối đoái của đồng NDT trên thị tr-
ờng thế giới rất thấp và không thể chuyển đổi thành vàng đợc.
Bên cạnh đó, nợ nớc ngoài của Trung Quốc tiếp tục giảm. Tính đến cuối tháng
6/ 2002, số d nợ đứng ở mức 160 tỷ USD. Số tiền gửi tiết kiệm của c dân vào cuối
tháng 10/ 2002 đạt 9,200 tỷ NDT (tơng đơng 1,100 tỷ USD). Tiền gửi của c dân tăng
do thu nhập tăng nhanh: mức GDP bình quân theo đầu ngời của Trung Quốc tăng từ
787 USD năm 1999 lên 853 USD năm 2000 và đạt 961 USD năm 2002 (tăng 6%) [8].
Cùng với Trung Quốc, các nớc ASEAN cũng bắt đầu thực hiện việc nới lỏng
chính sách và các biện pháp tự do hoá trong những năm 1990. ASEAN là tổ chức đầu
tiên tại Đông á thực hiện các FTA khu vực, đầu tiên là dới hình thức PTA rồi sau đó là
khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) để đáp lại các thách thức của các thị trờng
đang đợc toàn cầu hoá nhanh chóng. Tuy khá toàn diện hơn so với PTA, song bản chất
tự nguyện của AFTA tiếp tục gạt ra ngoài những khu vực nhạy cảm về chính trị nh
nông nghiệp và ô tô. Không có bớc tiến hay mục tiêu cụ thể nào đợc đề ra để đạt đợc
ranh giới thời gian 15 năm của AFTA. So với những FTA khu vực khác, nh thoả thuận
dày hơn 1000 trang của NAFTA, AFTA chỉ có 15 trang. Một số những ngời chỉ trích
ban đầu hoài nghi chủ trơng Nhất trí trớc, đàm phán sau (AFTA Agree first, Talk
after) sẽ có hiệu quả; chỉ có ít ngời hy vọng vào thành công của AFTA.
Tuy nhiên, trong thập kỷ qua, AFTA đã chứng tỏ rằng, tuy khởi đầu uể oải, song
nó đã có thể và sẵn sàng thích nghi với nền kinh tế thế giới đang thay đổi liên tục cũng
nh những tình huống nội bộ. AFTA trớc tiên đã thay đổi tốc độ sau hai diễn biến quan
trọng bên ngoài: việc ký kết Thoả thuận chung về thuế quan và các vòng đàm phán
mậu dịch Uragoay năm 1993 và Tuyên bố Bogor năm 1994 về cam kết tự do hoá thơng
mại và đầu t của các nớc thành viên APEC, lần lợt vào năm 2010 và 2020, cho các nền
kinh tế phát triển và đang phát triển. ASEAN đã đẩy nhanh mục tiêu thành lập AFTA
từ ngày 1/ 1/ 2005 sang ngày 1/ 1/ 2003. Sự thay đổi tiếp theo là sau cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ năm 1997. Bất chấp những động cơ chính trị mạnh mẽ đòi đảo
ngợc tiến trình tự do hoá, năm 1998, tổ chức đang phải vất vả để đối phó với hậu
khủng hoảng về kinh tế này vẫn thông qua một loạt biện pháp táo bạo, trong đó có
thoả thuận của 6 nớc đầu tiên ký AFTA đẩy sớm lên một năm nhiều khoản cắt giảm
thuế quan trớc đó đã đợc hoạch định vào năm 2003. Hơn nữa, 5 nớc ASEAN gồm
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thơng - 10
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan cùng ký kết Hiệp định công
nghệ thông tin (ITA) và vì thế có kế hoạch giảm thuế MFN đối với một số mặt hàng có
sự tăng trởng nhanh nhất trong tổng thơng mại của họ. Nh vậy, bức thông điệp của
ASEAN gửi tới thế giới đầy quyết tâm và rõ ràng: họ muốn thơng mại tự do cả trong
hoàn cảnh thuận lợi và khó khăn.
Sự quyết tâm đó của ASEAN đã đem lại những kết quả đáng kể. Mức thuế quan
trung bình giữa các nớc ASEAN đợc giảm từ 111.4% năm 1993 xuống còn 3.2% năm
1998 [11]. Tổng số vốn đầu t nớc ngoài ASEAN thu hút trong giai đoạn này đạt 132 tỷ
USD. Đầu t nớc ngoài vào ASEAN năm 2000 đã tăng 30% so với năm 1999, từ 21.8 tỷ
USD lên 28.4 tỷ USD [12] (tham khảo thêm Phụ lục 3).
Cùng với triển vọng về đầu t bớc đầu đợc cải thiện, thơng mại của ASEAN năm
2000 cũng tăng 19.9% với tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 423.6 tỷ USD so với 353.3 tỷ
USD của năm 1999; tổng kim ngạch nhập khẩu tăng 22.8%, đạt 360.1 tỷ USD so với
293.1 tỷ USD của năm 1999 (xem bảng 3). Xuất khẩu trong nội bộ ASEAN tăng 27%,
đạt 97.8 tỷ USD năm 2000 [11].
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thơng - 11
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Bảng : Tổng giá trị ngoại thơng của ASEAN (1999 2000)
Đơn vị: triệu USD
Nớc (*)
Xuất khẩu Nhập khẩu
1999 2000
Sự thay đổi
1999 2000
Sự thay đổi
Giá trị % Giá trị %
Bruney 2,240.7 2,169.1 -71.6 -3.2 1,720.4 1,067.6 -652.8 -37.9
Indonesia 48,665.5 62,124.0 13,458.5 27.7 24,003.3 33,514.8 9,511.5 39.6
Malaysia 84,287.9 98,154.5 13,866.6 16.5 63,677.8 79,647.5 15,969.7 25.1
Myanmar 738.0 1,193.8 455.8 61.8 1,883.0 2,219.4 336.4 17.9
Philippines 35,036.9 38,078.2 3,041.3 8.7 30,742.5 31,387.4 644.9 2.1
Singapore 114,625.1 138,352.5 23,727.4 20.7 110,998.0 134,680.1 23,682.1 21.3
Thái Lan 56,110.9 69,254.1 13,143.2 23.4 48,318.0 61,905.8 13,587.8 28.1
Việt Nam 11,541.0 14,308.0 2,767.0 24.0 11,742.0 15,635.0 3,893.0 33.2
Tổng
353,346.0 423,634.0 70,288.0 19.9 293,085.0 360,057.6 66,972.6 22.9
(*): Thiếu số liệu của Campuchia và Lào
Nguồn: Hội nghị lần thứ 15 của Hội đồng AFTA về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN, tháng 9/
2001 (bản tiếng anh), Ban th ký ASEAN (www.aseansec.org).
Mặc dù năm 2000 thơng mại của ASEAN tăng trởng rất khả quan so với thời kỳ
khủng hoảng năm 1997 song bớc sang năm 2001, do ảnh hởng của khủng hoảng kinh
tế ở Mỹ và EU cũng nh sự suy thoái của cờng quốc kinh tế khu vực Nhật Bản, xuất
khẩu của ASEAN năm 2001 giảm xuống còn 366.8 tỷ USD [13].
Năm 2002, mặc dù kinh tế thế giới phục hồi chậm chạp nhng các nền kinh tế
ASEAN vẫn đạt mức tăng trởng khá cao. Theo đánh giá của Ngân hàng phát triển
Châu á (ADB) và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), tăng trởng kinh tế của toàn khu vực
Đông Nam á là 4.1%, tăng khoảng 2 lần so với mức tăng 2% của năm 2001 và gần đạt
mức tăng 4.6% của năm 2000 [8] (xem biểu đồ 2).
Cùng với sự tăng trởng của GDP, năm 2002, tổng kim ngạch xuất khẩu của các
nớc ASEAN cũng tăng 2.9%, đạt trên 381 tỷ USD và tổng kim ngạch nhập khẩu tăng
2.5%, đạt trên 325 tỷ USD. Riêng quý I/ 2003, tổng xuất khẩu tăng gần 15.7% so với
cùng kỳ năm 2002, đạt 86.76 tỷ USD [14].
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thơng - 12
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Biểu đồ : Tốc độ tăng trởng kinh tế năm 2002 của các nớc ASEAN
Đơn vị: %
Nguồn: ADB; IMF World Economic Outlook, 2002.
Thơng mại nội khối ASEAN cũng có xu hớng tăng. Tuy xuất khẩu nội khối
trong 3 quý đầu năm 2002 giảm 1.5% và nhập khẩu nội khối tăng 3% [13] song sự
tăng trởng mạnh của thơng mại nội khối trong quý 4 đã làm thay đổi cả diện mạo của
ngoại thơng ASEAN năm 2002. Xuất khẩu nội khối trong cả năm tăng 2.2%, đạt 86.34
triệu USD và nhập khẩu nội khối tăng 8.1%, đạt 73.12 triệu USD [14].
Trong các đối tác thơng mại của ASEAN, Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc (bao
gồm cả Hồng Kông) và Hàn Quốc là các thị trờng xuất khẩu lớn nhất của ASEAN. Về
nhập khẩu thì Nhật Bản là nớc nhập nhiều nhất từ ASEAN, sau đó đến Mỹ, EU, Trung
Quốc (bao gồm cả Hồng Kông) và Hàn Quốc. Trong 3 quý đầu năm 2002, xuất khẩu
của ASEAN sang Mỹ, EU và Nhật Bản giảm đi trong khi xuất khẩu sang Trung Quốc
và Hàn Quốc lại tăng lên rất cao, lần lợt là 18.7% và 3.3% [13], cho thấy vai trò của
Trung Quốc nói riêng và Đông á nói chung đối với ngoại thơng của ASEAN ngày
càng đợc nâng cao.
1.1.3. Những thành tựu hợp tác giữa ASEAN và Trung Quốc
1.1.3.1. Hợp tác về thơng mại:
Trung Quốc coi việc củng cố quan hệ hợp tác thơng mại và kinh tế là một kênh
quan trọng cho việc duy trì hoà bình và an ninh trong khu vực. Do vậy, Trung Quốc đã
và đang tích cực tham gia vào tất cả các hình thức hợp tác kinh tế khu vực và nỗ lực
nhằm mở những hớng hợp tác khu vực mới với các nớc ASEAN. Gần đây, ASEAN và
Trung Quốc đã dành đợc tiến bộ đáng kể trong việc thực hiện các chơng trình hợp tác
trên các lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là thơng mại quốc tế, một động lực to lớn đối với
sự phát triển kinh tế của cả hai bên.
Bảng : Thơng mại song phơng giữa ASEAN và Trung Quốc
Đơn vị: Tỷ USD
Năm
Tổng
kim
ngạch
thơng
mại
Xuất
khẩu
của
Trung
Quốc
sang
ASEAN
Nhập
khẩu
của
Trung
Quốc
từ
ASEAN
Tốc độ tăng trởng (%)
Thị phần của
ASEAN
trong
thơng mại
của Trung
Quốc
Thị phần
của Trung
Quốc trong
thơng mại
của
ASEAN
Tổng Kim
ngạch
thơng mại
Xuất
khẩu
sang
ASEAN
Nhập
khẩu
từ
ASEAN
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thơng - 13