Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH SẢN PHẨM TẠI KHÁCH SẠN THẮNG LỢI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.29 KB, 22 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH SẢN PHẨM TẠI
KHÁCH SẠN THẮNG LỢI
3.1 CÁC CĂN CỨ ĐỀ XUẤT.
3.1.1 Căn cứ vào xu hướng phát triển thị trường khách sạn du lịch.
Ngày nay du lịch không còn là hiện tượng đơn lẻ, đặc quyền của cá nhân
hay tầng lớp giầu có mà du lịch trở thành nhu cầu xã hội phổ biến đáp ứng mục
tiêu không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho con người. Du lịch
đã và đang trở thành ngành kinh tế mạnh mẽ hơn vào thế kỷ 21 khi mà đời sống
nhân dân được cải thiện, nhu cầu và sự hiểu biết ngày càng tăng lên.
Xu hướng đi du lịch của du khách không chỉ bó hẹp ở quốc gia, hay khu
vực mà được mở rộng ra tất cả nước, các châu lục nên thị trường ngày càng
được mở rộng. Theo số liệu của Tổ chức du lịch thế giới chỉ trong vòng hơn 10
năm trở lại đây (1990-2002) số lượng người đi du lịch quốc tế tăng từ 456,8
triệu lên 714,6 triệu lượt người. Du lịch phát triển kéo theo các ngành nghề
khách cũng phát triển. Chính vì vậy mà nhiều nước trên thế giới đã tập trung phát
triển du lịch và coi du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn. Ngành du lịch đã trở thành
cứu cánh cho nền kinh tế Thái Lan trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế 1997-1998,
Trung Quốc hiện đang đứng thứ 6 trên thế giới về phát triển du lịch và tuyên truyền
“sẽ trở thành một trung tâm du lịch của khu vực và thế giới trong thế kỷ 21”.
Ngành du lịch Việt Nam với 44 năm xây dựng và trưởng thành với những
bước phát triển thăng trầm. Nhưng đã nỗ lực vượt qua khó khăn, tranh thủ các
nguồn lực để xây dựng Ngành vững mạnh về mọi mặt. Văn kiện Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ IX, đảng ta đã khẳng định: “Phát triển du lịch thực sự trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động trên
cơ sở khai thác lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hoá,
lịch sử đáp ứng nhu cầu du lịch trong nước và phát triển nhanh du lịch quốc tế,
sớm đạt trình độ phát triển du lịch của khu vực”.
Trong thời gian gần đây hàng loạt các chính sách đổi mới, mở cửa hội
nhập của Đảng và Nhà nước đã tạo điều kiện cho kinh tế đối ngoại trong đó có
du lịch. Đảng và Nhà nước quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo sát sao sự nghiệp phát
triển du lịch của đất nước, có những vấn đề về mặt nhận thức, đây là sự chỉ đạo


quan tâm kịp thời và đúng đắn, nhưng vấn đề còn lại là đánh giá đúng tiềm năng
du lịch để khai thác trong thời gian tới. Hình thành các chương trình đồng bộ, có
mục tiêu chiến lược cụ thể như chiến lược phát triển du lịch năm 2001-2010 và
kế hoạch 2001-2005 của đất nước, chương trình hành động quốc gia về du lịch
giai đoạn 2002-2005 đã được chính phủ phê duyệt.
Theo dự báo của Tổng cục Du lịch trong chiến lược phát triển du lịch dự
báo lượng khách du lịch của Việt Nam đến năm 2005 có khoảng 18 triệu khách,
năm 2010 có khoảng 25,5 triệu khách, năm 2020 có khoảng 40 triệu khách. Với
những yếu tố khả quan như vậy mục tiêu của ngành du lịch phấn đấu đến năm
2005 đón khoảng 3-3,5 triệu lượt khách quốc tế vào Việt Nam và khoảng 15-16
triệu lượt khách nội địa, năm 2010 đón 5,5-6 triệu lượt khách quốc tế tăng 3 lần
so với năm 2000, nhịp độ tăng trưởng bình quân là 11,4%/ năm và 25 triệu lượt
khách nội địa tăng hơn 2 lần so với năm 2000. Dự đoán thu nhập du lịch năm
2005 đạt 2,1 tỷ USD, năm 2010 đạt 4-4,5 tỷ USD, đưa tổng sản phẩm du lịch
năm 2005 đạt 5,0% và năm 2010 đạt 6,5% tổng GDP của cả nước. Tốc độ tăng
trưởng GDP bình quân trong giai đoạn 2001-2010 đạt 11-11,5%/ năm. Để đạt
được điều này cần phải có sự phối hợp chặt chẽ của toàn ngành, cần tầp trung
cao độ năng lực, trí tuệ, phát huy tính năng động sáng tạo, để tạo ra sự chuyển
biến mạnh mẽ cả về lượng lẫn chất. Mặt khác huy động nguồn lực trong và ngoài
nước để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, sơ sở vật chất kỹ thuật nhằm nâng cao chất
lượng phục vụ, đa dạng hoá sản phẩm, dịch vụ kỹ thuật và các loại hình du lịch
tăng cường công tác quản lý nhà nước về điều kiện trên phạm vi toàn lãnh thổ.
Cùng với dự báo về lượng khách du lịch tại Việt Nam thì theo dự báo đến
năm 2005 nước ta cần có khoảng 80.000 phòng khách sạn và đến năm 2010 là
130.000 phòng khách sạn (xây mới trong thời kỳ 2001-2005 là 17.000 phòng và
trong thời kỳ 2006-2010 là 50.000 phòng). Do vậy, với xu hướng ngày càng đi
lên thì số lượng phòng cần phải xây dựng thì phải thu hút được vốn đầu tư cho
phát triển du lịch. Ngoài đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ cho du lịch, cở vật chất
kỹ thuật, như khu du lịch, phương tiện vận chuyển khách bằng đường thuỷ,
đường bộ, đường hàng không, đường sắt và các cơ sở phục vụ du lịch khác cũng

phải tương ứng. Bên cạnh đó Tổng Cục du lịch đã cố gắng xây dựng chương
trình lớn từ nay đến năm 2010 với mỗi năm một sự kiện. Tổng cục cũng triển
khai xây dựng trang Web du lịch có uy tín quảng bá du lịch Việt Nam đến với
bạn bè thế giới với đầy đủ các điểm hấp dẫn như: Hà Nội, Nha Trang, Quảng
Ninh, Đà Lạt…cũng như các khách sạn nổi tiếng luôn sẵn sàng phục vụ khách.
Năm 2003 vừa qua là một năm “bản lề” thực hiện kế hoạch 2001-2005
của đất nước- là một năm có thuận lợi nhưng cũng nhiều gian nan, nhiều biến
động với du lịch thế giới và du lịch Việt Nam. Trước những khó khăn thách
thức, đặc biệt là chiến tranh Irăc và dịch bệnh Sars, ngành du lịch đã chủ động
quyết tâm vượt khó kịp thời khắc phục hậu quả của rủi ro, phát triển mạnh, thị
trường quốc tế được củng cố giữ vững và dần mở rộng. Phát huy thành công của
đất nước trong việc khống chế và khắc phục hậu quả của dịch bệnh SARS. Du
lịch Việt Nam đã vươn lên về mọi mặt, giữ vững danh hiệu “Việt Nam điểm đến
an toàn, thân thiện và hấp dẫn”, cùng cả nước, toàn ngành đã góp phần tổ chức
thành công Seagames 22 và Asean paragames 2 càng khẳng định thêm của du
lịch Việt Nam với du khách và bạn bè quốc tế.
Năm 2004 đã mở ra nhiều thuận lợi và cơ hội nhưng cũng không ít khó
khăn thách thức đối với toàn ngành trong việc phấn đấu đón 2,7-2,8 triệu lượt
khách quốc tế, 14-14,5 triệu lượt khách nội địa và đạt thu nhập 25.000 tỷ đồng.
Với thế lực của đất nước được tích luỹ trong suốt thời kỳ đổi mới, cùng với sự
chủ động nỗ lực vượt bậc hy vọng ngành du lịch phát triển và đạt được kết quả
như mong đợi.
Trong những ngày đầu của năm 2004, ngành du lịch Việt Nam đứng
trước khó khăn là dịch bệnh cúm gà nan rộng khắp cả nước. Do vậy đã ảnh
hưởng trực tiếp đến du lịch Việt Nam nói chung và kinh doanh khách sạn nói
riêng, nhưng với sự cố gắng nỗ lực của Nhà nước của các bộ ngành, Việt Nam
đã công bố dập được dịch và đầu tháng 4. Thị trường sau một thời gian khủng
hoảng nhu cầu du lịch sẽ phục hồi và bùng phát trong thời gian tới vì năm 2004 là
năm có nhiều sự kiện, như năm du lịch Điện Biên, chương trình du lịch “Con
đường di sản miền Trung”…Do vậy, toàn ngành, các doanh nghiệp kinh doanh

khách sạn du lịch, các địa phương cần phát huy lợi thế và tích cực tham gia vào sự
phát triển du lịch.
3.1.2 Căn cứ vào phương hướng, mục tiêu, chiến lược của khách sạn
Thắng Lợi trong thời gian tới.
Các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp kinh doanh khách sạn
du lịch nói riêng thì việc hoạch định chiến lược, phương hướng, mục tiêu phát
triển kinh doanh có ý nghĩa quan trọng. Nó là kim chỉ nam cho hoạt động vững
chắc của doanh nghiệp đặc biệt là trong môi trường kinh doanh có nhiều yếu tố
biến động và cạnh tranh gay gắt như hiện nay.
Kết thúc năm hoạt động sản xuất kinh doanh, qua buổi tổng kết cuối năm
2003 ban lãnh đạo khách sạn Thắng Lợi đã dựa trên cơ sở kết quả đạt được
trong năm 2003, kết hợp với những phương hướng kinh doanh chung của toàn
ngành và sự đoán nhu cầu của khách hàng đặc biệt là khách hàng trên đoạn thị
trường mục tiêu. Khách sạn đã đề ra mục tiêu phương hướng, chiến lược hoạt
động kinh doanh cho khách sạn trong năm 2004 và trong thời gian tới cụ thể
như sau.
3.1.2.1 Phương hướng mục tiêu.
- Tiếp tục duy trì và nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh ở một số lĩnh
vực kinh doanh của khách sạn có ưu thế như: Kinh doanh dịch vụ ăn uống, kinh
doanh dịch vụ lưu trú, và kinh doanh dịch vụ vui chơi giải trí…Tăng cường khả
năng thu hút khách trong những năm tới để đẩy mạnh doanh thu của khách sạn
năm 2004 lên tới 25.000 triệu đồng tăng khoảng 29.86% so với năm 2003, tăng
số lượt khách đến khách sạn khoảng 68.000 lượt khách, và cố gắng kéo dài thời
gian lưu trú của khách.
- Giữ vững và nâng cao hơn nữa chất lượng và dịch vụ nhằm đảm bảo,
giữ uy tín với khách hàng.
- Tổ chức các hoạt động kinh doanh hợp lý nhằm đáp ứng tốt nhất nhu
cầu của khách hàng về sản phẩm hàng hoá dịch vụ thể hiện ở chính sách sản
phẩm của khách sạn.
- Một số dịch vụ kinh doanh còn yếu kém cần tìm nguyên nhân để khắc

phục kịp thời.
- Không ngừng nâng cấp sửa chữa cơ sở vật chất kỹ thuật trong khách
sạn: như phòng ngủ cần có sự kiểm tra thay thế những trang thiết bị cũ, xuống
cấp, lạc hậu…
- Bồi dưỡng kiến thức nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ lao
động, cán bộ công nhân viên, khuyến kích họ làm việc tốt hơn nhằm thoả mãn
nhu cầu của khách hàng. Chăm lo hơn nữa đời sống vật chất tinh thần của cán
bộ công nhân viên trong khách sạn.
- Mở rộng hơn nữa mối quan hệ liên doanh liên kết giữ các đơn vị trong
và ngoài ngành nhằm mục đích huy động vốn từ đối tác, giữ vững và phát triển
mối quan hệ trung gian để qua đó làm cho uy tín, nhãn hiệu của khách sạn trở
nên thông dụng, gần gũi với khách hàng.
- Đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu thị trường, thu thập và xử lý các
thông tin của môi trường, dự báo xu hướng biến đổi của các yếu tố kinh tế,
chính trị, xã hội và phân loại các tác động tích cực, tiêu cực của các yếu tố đối
với khách sạn. Trên cơ sở đó tìm ra các cơ hội và hạn chế những rủi ro ở mức
thấp nhất. Phân tích đánh giá một cách khoa học các yếu tố về sự tăng lên về
nhu cầu du lịch trong nước và quốc tế, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài
chính đến
kinh doanh khách sạn, sự cạnh tranh của đối thủ trực tiếp và tiềm ẩn, nhưng sự
kiện văn hoá, những lễ hội…
- Xác định sản phẩm chính của khách sạn vẫn là dịch vụ lưu trú bên cạnh
đó đẩy mạnh kế hoạch nhằm tăng cường và hoàn thiện các dịch vụ bổ sung mà
khách sạn đang kinh doanh với mục tiêu đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng và
tăng cường các chính sách để tăng doanh thu.
- Giữ vững định hướng phát triển, lành mạnh hóa môi trường kinh doanh,
chống các tệ nạn xã hội trong khách sạn và kinh doanh các dịch vụ bổ sung theo
đúng các quy định của pháp luật.
3.1.2.2 Chiến lược phát triển kinh doanh tại khách sạn Thắng Lợi
trong thời gian tới

Căn cứ vào các phương hướng, mục tiêu cụ thể khách sạn đã đưa ra các
chiến lược kinh doanh của khách sạn trong thời gian tới. Chiến lược khách sạn
đưa ra bao gồm chiến lược tổng thể và các chiến lược trong từng lĩch vực.
Chiến lược tổng thể bao gồm các yếu tố quan trọng, quyết định sự tồn tại
hay phát triển của doanh nghiệp. Để phù hợp với các mục tiêu mà khách sạn
đưa ra nâng cao công suất sử dụng phòng, nâng cao chất lượng phục vụ, duy trì
uy tín và danh tiếng của khách sạn trong quan hệ đối tác và bạn hàng. Khách
sạn tập trung vào chiến lược xâm nhập thì trường các nước trong khu vực và thị
trường nôị địa. Đồng thời khách sạn sử dụng liên kết với các khách sạn khác để
mở rộng kinh doanh. Như vậy chiến lược tổng thể mà khách sạn sử dụng là sự
phối hợp chặt chẽ và hiệu quả trong việc sử dụng nguồn lực để tập trung thu hút
khách hàng quá khứ và khách hàng tiềm năng để nâng cao doanh thu và thu
được nhiều lợi nhuận.
Chiến lược cụ thể: Từ chiển lược tổng thể, các chiến lược cụ thể trong
từng lĩnh vực được đưa ra nhằm tập trung thu hút khách như các chiến lược sản
phẩm, chiến lược giá, chiến lược phân phối, chiến lược xúc tiến và quảng cáo,
chiến lược tổ chức nhân sự, chiến lược phát triển cơ sở hạ tầng…
3.2 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH SẢN
PHẨM TẠI KHÁCH SẠN THẮNG LỢI.
Để hoàn thiện chính sách sản phẩm nhà quản trị khách sạn cần phải nắm
bắt được chu kỳ sống sản phẩm, đặc đIểm của các giai đoạn và hoạt động
marketing cho từng giai đoạn, để từ đó xem các sản phẩm của khách sạn đang ở
giai đoạn nào giai đoạn tăng trưởng, giai đoạn trưởng thành, giai đoạn chín
muồi hay đang ở giai đoạn suy thoái. Nếu nhà quản trị hiểu rõ được chu kỳ sống
của sản phẩm thì có được các biện pháp phù hợp với từng sản phẩm, qua đó
hoàn thiện được chính sách sản phẩm tại khách sạn.
Thông qua thực trạng về tình hình hoạt động kinh doanh và thực hiện
chính sách sản phẩm, qua những ưu điểm, hạn chế, mặt mạnh, mặt yếu của việc
thực hiện chính sách sản phẩm. Căn cứ vào xu hướng phát triển thị trường
khách sạn du lịch và phương hướng mục tiêu của khách sạn trong thời gian tới.

Với mục đích góp phần nhỏ bé của mình trong việc phát triển của ngành khách
sạn du lịch nói chung và của khách sạn Thắng Lợi nói riêng, tôi xin đưa ra một
số biên pháp nhằm hoàn thiện chính sách sản phẩm tại khách sạn Thắng Lợi cụ
thể như sau:
3.2.1 Nâng cao chất lượng sản phẩm hiện có tại khách sạn.
Nếu sản phẩm của khách sạn đang ở giai đoạn tăng trưởng với mức tiêu
thụ sản phẩm bắt đầu tăng mạnh, xuất hiện nhiều đối thủ cạnh tranh trên thị
trường, để sản phẩm khách sạn đứng vững mang lại lợi nhuận cao. Khai thác và
tận dụng tối đa cơ hội này thì các nhà quả trị khách sạn cần nâng cao chất lượng
sản phẩm hiện có, để tạo ra cho sản phẩm có tính chất mới kích thích được sự
tiêu dùng sản phẩm từ đó nâng cao được lợi nhuận và nhằm hoàn thiện được
chính sách sản phẩm khách sạn.
Trong thị trường cạnh tranh găy gắt, yếu tố cơ bản để phân biệt sự khách
nhau sản phẩm dịch vụ của khách sạn mình với các khách sạn khác là chất
lượng của sản phẩm dịch vụ, độ đa dạng của sản phẩm. Khách hàng ngày càng
trở nên phức tạp với nhu cầu ngày càng cao và tinh tế hơn trong đòi hỏi cuả họ
và mức độ nhu cầu dịch vụ ngày càng cao hơn, để thoả mãn được nhu cầu của
họ thì sản phẩm của khách sạn cần phải đa dạng với mức chất lượng tốt. Điều
đó là tất yếu bởi vì gần 30 năm đi vào hoạt động, trong quá trình hoạt động các
trang thiết bị của khách sạn cũng xuống cấp, lạc hậu. Do vậy để hoàn thiện
chính sách sản
phẩm của khách sạn thì khách sạn phải nâng cấp, sửa chữa các sản phẩm để
nâng cao chât lượng sản phẩm làm cho sản phẩm của khách sạn thoả mãn được
nhu cầu của khách hàng, và thu hút được khách đến khách sạn ngày càng đông.
* Đối với dịch vụ lưu trú.
Sản phẩm chính, cốt lõi của khách sạn cung cấp cho khách hàng là dịch
vụ lưu trú, đây là dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các dịch vụ của khách
sạn Thắng Lợi. Vì vậy khách sạn cần phải có biện pháp nâng cao chất lượng sản
phẩm dịch vụ lưu trú để góp phần hoàn thiện sản phẩm hiện có của mình. Đối
với lĩnh vực này khách sạn cần phải chú ý nâng cấp, sửa chữa được thể hiện như

sau:
Cơ sở vật chất của toàn bộ các khu nhà buồng của khách sạn về cơ bản đã
đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, nhưng bên cạnh đó còn một số thiết bị
cần phải được thay thế. Ga, gối tuy đã được thay thường ngày những do sử
dụng lâu, giặt tẩy nhiều nên bề mặt không được mới, trở nên lì, ố vàng…rèm
của khách sạn cũng đã cũ. Vì vậy để có được sản phẩm có chất lượng cao khách
sạn cần phải thay mới ga, gối, rèm của ở một số phòng của khách sạn.
Đối với khu nhà buồng A tuy mới được cải tạo gần đây nhất nhưng các
thiết bị đồ gỗ của nhiều phòng đã xuống cấp, cánh cửa tủ quần áo khó mở khi
mở gây tiếng ồn, mặt bàn ghế không được mới…Do vậy khu nhà buồng này cần
từng bước cải, thay mới hệ thống trang thiết bị như các thiết bị đồ gỗ, thiết bị về
điện, các đèn trong phòng. Với khu nhà buồng B và khu buồng Salê cần thay
thế hệ thống điều hoà ở một số phòng vì thiết bị này đã quá cũ nên trong quá
trình hoạt động thường phát ra tiếng ồn, ngoài ra một số phòng nhà vệ sinh bị rò
rỉ nước, ẩm mốc cần phải được khắc phục.

×