Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

Tiểu luận cao học, tác PHẨM KINH điên, tuyên ngôn của đảng cộng sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171 KB, 38 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là tác phẩm kinh điển chủ yếu của chủ
nghĩa xã hội khoa học. Những nguyên lý C .Mác và Ph.Ăng ghen trình bày trong
tác phẩm là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho toàn bộ phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế. Trải qua mọi thử thách, hơn một thế kỷ qua, phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế, nhiều vấn đề mới đặt ra đòi hỏi giải quyết
nhưng chủ nghĩa Mác không hề lỗi thời. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã đặt
nền tảng tư tưởng cho những vấn đề về Đảng và xây dựng Đảng. Những tư
tưởng đó có ý nghĩa thiết thực trong công tác xây dựng Đảng của Đảng ta.
Được sự uỷ nhiệm của những người cộng sản, ngày 24 tháng 2 năm
1848, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản do C.Mác và Ph.Ăngghen soạn thảo được
công bố trước toàn thế giới.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản giữ địa vị đặc biệt quan trọng trong kho
tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin. Sự ra đời của tác phẩm vĩ đại này đánh
dấu sự hình thành về cơ bản lý luận của chủ nghĩa Mác bao gồm ba bộ phận hợp
thành: triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa cộng sản khoa học.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản còn là cương lĩnh chính trị của phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế, là kim chỉ nam hành động của toàn bộ
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là ngọn cờ dẫn dắt giai cấp công nhân và
nhân dân lao động toàn thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản,
giải phóng loài người vĩnh viễn thoát khỏi mọi áp bức, bóc lột giai cấp, bảo đảm
cho loài người được thực sự sống trong hòa bình, tự do và hạnh phúc.
2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài xoay quanh nghiên cứu, tìm hiểu và đi sâu vào học thuyết chính trị
của Các Mác và Angghen thông qua tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”.
Tại đây, thông qua hoàn cảnh, tư tưởng và nội dung của tác phẩm ta có thể hiểu
1



rõ ràng và sâu sắc hơn tư tưởng mà Mác và Angghen gửi gắm tới Đảng cộng
sản. Đồng thời, tập trung vào cái điểm sáng của Tác phẩm để rút ra được ý nghĩa
và bài học.
3. Mục đích và ý nghĩa
a, Mục đích
Hiện nay,còn xảy ra sự mơ hồ, chưa thực sự hiểu hết về học thuyết chính
trị của Các Mác và Angghen của phần đông đa số cán bộ vô sản. Chính vì vậy,
thông qua tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” để giúp các cán bộ vô sản
xóa bỏ sự khúc mắc, chưa hiểu hơn về học thuyết của Các Mác và Angghen. Vì
Tác phẩm “Tuyên ngôn Đảng cộng sản” là một tác phẩm hay, nêu lên sự hình
thành của giai cấp vô sản và sự đấu tranh của giai cấp vô sản và tư sản trong lịch
sử, bên cạnh đó, đây còn là một tác phẩm mang tính chính trị sâu sác và mang
giá trị lịch sử to lớn.
b, Ý nghĩa
Việc nghiên cứu học thuyết của Các Mác và Angghen là việc mà các cán
bộ vô sản nên làm để từ đó hiểu hơn về giá trị của học thuyết. Cũng thông qua
Tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” mà học thuyết ấy được rõ ràng và
cụ thể, giúp các cán bộ vô sản thấm sâu hơn về học thuyết.
4. Đối tượng nghiên cứu
Họ thuyết Các Mác và Angghen thông qua tác phẩm “Tuyên ngôn của
Đảng cộng sản”
5. Bố cục nghiên cứu
Ngoài phần Mở đầu, Nội dung và Kết luận thì đề tài còn có Danh mục tài
liệu tham khảo.

2


NỘI DUNG
LÝ LUẬN CỦA HỌC THUYẾT CHÍNH TRỊ CỦA C.MÁC –

AWNGGHEN QUA TÁC PHẨM “ “TUYÊN NGÔN ĐẢNG CỘNG SẢN”
I- Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
I. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản”
Vào đầu thế kỷ XIX cuộc cách mạng công nghiệp đã hoàn thành ở nước Anh,
được đẩy mạnh ở Pháp và các nước Tây Âu khác. Lực lượng sản xuất đã phát triển
hơn giai đoạn trước rất nhiều. Đặc biệt từ những năm 40 của thế kỷ XIX quan hệ sản
xuất Tư bản chủ nghĩa ở nhiều nước đã trở thành quan hệ sản xuất thống trị, làm cho
mâu thuẫn nội tại trong phương thức sản xuất Tư bản chủ nghĩa tăng lên không
ngừng.
C.Mác là người sớm tìm đến với chủ nghĩa duy vật, từ khi đến Pháp năm
1843 trở đi, ở C.Mác đã hình thành những quan điểm có tính hệ thống về chủ nghĩa
xã hội khoa học. Ông đã sống và tắm mình trong phong trào công nhân những năm
30 và 40 của thế kỉ XIX. Bắt đầu từ giữa thế kỉ XIX trở đi, chủ nghĩa tư bản châu Âu
đã có những bước tiến đáng kể sau khi tiến công dinh lũy của chế độ phong kiến. Xã
hội tư bản lúc ấy là xã hội tư bản đang lên ở nước Anh, cuộc cách mạng công nghiệp
đã hoàn thành cơ bản. Tiếp đó là ở Pháp và một số nước khác, cuộc cách mạng công
nghiệp đã tác động mạnh mẽ đến tốc độ phát triển của lực lượng sản xuất. Cơ sở
kinh tế - xã hội đó làm nảy sinh một cách rõ rệt nhất hai giai cấp đối kháng: tư sản và
vô sản.
Dù là một xã hội đang lên và giai cấp tư sản có vai trò to lớn trong việc
xóa bỏ chế độ phong kiến, nhưng trong lòng xã hội đó đã chứa chất những mâu
thuẫn lớn giữa hai giai cấp nói trên. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân
đã nổ ra ngay từ khi mới ra đời và dâng cao vào những năm 30 - 40 của thế kỉ
XIX, tiêu biểu là những cuộc khởi nghĩa của công nhân dệt ở thành phố Lyông
(Pháp) năm 1837, cuộc nổi dậy của công nhân dệt Xilêdi (Đức) năm 1844,
3


phong trào Hiến chương ở Anh kéo dài 10 năm (1838-1848). Tư tưởng của nhà

dân chủ cách mạng C.Mác có điều kiện thuận lợi khi gặp được “cốt vật chất”
của phong trào công nhân. Bản thân C.Mác lại được sinh ra và lớn lên ở Đức,
khi đó là một quốc gia sôi động cách mạng với những bộ óc kiệt xuất của những
nhà triết học. Tổ chức phong trào công nhân Đức là Liên đoàn bí mật những
người dân chủ và cộng hòa được thành lập năm 1834, sau đó một số người bị
trục xuất sang Pari đã lập ra Liên đoàn những người chính nghĩa năm 1836.
Ngay khi đến Pháp năm 1843, Mác đã hoạt động trong lĩnh vực tư tưởng và
dần trở thành nhà cách mạng thật sự khi chủ trương “phê phán chế độ tư bản bằng vũ
khí” và phát hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là người đào huyệt chôn
chủ nghĩa tư bản. Năm 1844, Ph.Ăng ghen đến Pari gặp C.Mác và ông đã trở thành
cây vĩ cây vĩ cầm thứ hai bên cạnh Mác”, có cùng quan điểm với C.Mác về học
thuyết cách mạng. Học thuyết của hai ông hình thành thông qua hoạt động của Liên
đoàn những người cộng sản và chính Tuyên ngôn ra đời trong quá trình hai ông tham
gia Liên đoàn.
Liên đoàn những người chính nghĩa được lập ở Pari năm 1836 và phát
triển rất nhanh nhưng lúc bấy giờ mới chỉ là một bộ phận Đức của “chủ nghĩa
cộng sản công nhân Pháp”. C.Mác và Ph.Ăngghen luôn luôn dõi theo hoạt động
của Liên đoàn, mặc dù không tán thành những quan điểm chính trị - xã hội mơ
hồ và những hành động lệch lạc trong thực tế hoạt động của họ. Sau thất bại của
cuộc khởi nghĩa tháng 5-1839, một số lãnh tụ của Liên đoàn bị bắt và trục xuất
sang Anh, trung tâm của Liên đoàn lúc này đã chuyển từ Pari sang Luân Đôn và
phát triển rất nhiều chi bộ ở cả Anh, Pháp, Đức… Liên đoàn đã trở thành một tổ
chức quốc tế.
Trước năm 1847, tuy không tham gia Liên đoàn những người cộng sản
nhưng hai ông tích cực tìm cách làm cho những quan điểm của mình về chủ
nghĩa cộng sản thâm nhập vào tổ chức đó, làm cho nó đi đúng hướng. Đến năm
1845, vì bị coi là một nhà cách mạng nguy hiểm, C.Mác bị trục xuất sang
Brucxen (Bỉ), ở đây ông lại tiếp tục hoạt động tích cực trong phong trào công
nhân. Những hoạt động tích cực của Mác và Ăngghen trong hoàn cảnh ấy đã
4



góp phần quan trọng vào sự chuyển biến lặng lẽ diễn ra trong nội bộ Liên đoàn
những người Cộng sản. Ban lãnh đạo Liên đoàn ngày càng thấy rằng, những
quan điểm trước đây của họ về chủ nghĩa cộng sản là không còn phù hợp nữa và
hệ thống lý luận mới của Mác và Ăngghen là đúng đắn. Do vậy mùa xuân năm
1847, G.Môn - một trong những người lãnh đạo của Liên đoàn đã đến Brucxen
gặp C.Mác sau đó đến Pari gặp Ph.Ăngghen để mời hai ông gia nhập Liên đoàn.
Những người lãnh đạo Liên đoàn muốn cải tổ và cho rằng: “cần phải đưa Liên
đoàn thoát khỏi những hình thức và truyền thống hoạt động âm u cũ”. Theo họ,
điểm chủ yếu nhất là phải cải tổ nền tảng lý luận của Mác và Ăng ghen tạo điều
kiện cho hai ông trình bày những quan điểm về chủ nghĩa cộng sản trong một
đại hội của Liên đoàn dưới dạng một bản tuyên ngôn và coi đó như một tuyên
ngôn chung của Liên đoàn.
Những đại hội cải tổ Liên đoàn đã diễn ra theo tinh thần cách mạng của
C.Mác và Ph.Ăngghen. Đại hội lần thứ nhất diễn ra vào mùa hè năm 1847. Cuối
tháng 11 đầu tháng 12 năm 1847, Đại hội lần thứ hai đã diễn ra, Đại hội thảo
luận và thông qua Điều lệ gồm 10 chương, 50 điều. C.Mác và Ph.Ăngghen được
đại hội giao cho nhiệm vụ soạn thảo tuyên ngôn - một văn kiện cương lĩnh. Hai
ông đã hoàn thành nhiệm vụ được giao trong hơn một tháng, gửi đi Luân Đôn để
in trước mấy tuần diễn ra cuộc cách mạng Tháng Hai năm 1848.
Như vậy, xuất phát từ nhu cầu của lịch sử, Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản đã ra đời, đây là kết quả trí tuệ của C.Mác và Ph.Ăngghen với phong trào
công nhân quốc tế những năm 30 và 40 của thế kỉ XIX; là cái mốc mở ra thời kì
mới của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế và vẫn còn giá trị lý luận thực tiễn rất lớn đối với hôm nay và mai sau.
1.1Những tư tưởng cơ bản của tác phẩm.“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
Một là, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” khẳng định hai
nguyên lý của chủ nghĩa Mác: Phương thức sản xuất và trao đổi kinh
tế cùng với cơ cấu xã hội của phương thức đó quyết định sự sự hợp


5


thành nền tảng của xã hội; Lịch sử phát triển của xã hội có giai cấp là
lịch sử của đấu tranh giai cấp.
Hai là, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” khẳng định giai cấp
vô sản chỉ có thể tự giải phóng khỏi tình trạng bị áp bức bóc lột, nếu
đồng thời và vĩnh viễn giải phóng toàn bộ xã hội khỏi tình trạng bị áp
bức bóc lột, phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Ba là, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” công khai trình bày
trước toàn bộ thế giới về chiến lược, sách lược của Đảng Cộng sản và
đập tan những hư truyền về “bóng ma cộng sản” mà các thế lực chính
trị phản động đang loan truyền ở châu Âu lúc bấy giờ.
Bốn là, Từ khi ra đời cho đến nay đã trên 156 năm, “Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản” luôn là nền tảng tư tưởng và là kim chỉ nam
cho hành động của phong trào cộng sản và công nhân thế giới, nó soi
sáng con đường tiến lên của cách mạng thế giới. Đồng thời, mỗi thắng
lợi trong sự nghiệp đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động thế giới lại càng khẳng định tính chất khoa học và cách mạng, và
làm phong phú thêm những tư tưởng thiên tài của C.Mác và
Ph.Ăngghen đã nêu trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
1.2. Nội dung cơ bản của “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
Các lời tựa
Các lời tựa của C.Mác và Ph.Ăngghen đề cập đến hai nội dung
chính:
Một là, hai ông khẳng định “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
là Cương lĩnh của ‘Đồng minh những người Cộng sản’ công bố công
khai với toàn thế giới những nguyên lý của Đảng Cộng sản. Bản
Cương lĩnh này gọi là “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” mà không
gọi là “Tuyên ngôn xã hội chủ nghĩa” là để phân biệt tính chất giai cấp

của phong trào cộng sản với các trào lưu xã hội chủ nghĩa đương thời.

6


Hai là, với tư cách là một cương lĩnh của Đảng Cộng sản, về
mặt lý luận “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” trình bày thế giới quan
của giai cấp vô sản về đấu tranh giai cấp, cách mạng vô sản và chuyên
chính vô sản; thuyết minh sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản,
vai trò của giai cấp vô sản; phân định ranh giới giữa chủ nghĩa xã hội
khoa học với các trào lưu xã hội chủ nghĩa khác (chủ nghĩa xã hội
không tưởng).
Về mặt chỉ đạo thực tiễn, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” nêu
lên những nhiệm vụ và những biện pháp cụ thể để thực hiện bước quá
độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội; những nguyên lý sách
lược và thái độ của Đảng Cộng sản đối với các Đảng Xã hội-Dân chủ.
Nhiệm vụ của “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” là tuyên bố sự diệt
vong của chủ nghĩa tư bản cũng tất yếu như sự thắng lợi của chủ nghĩa
xã hội, giai cấp vô sản hiện đại là người có sứ mệnh đào huyệt chôn
chủ nghĩa tư bản và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản.
Trong lời tựa viết cho bản tiếng Đức xuất bản năm 1872, C.Mác
và Ph.Ăngghen viết: “Mặc đầu hoàn cảnh đã thay đổi nhiều trong
mười lăm năm qua, nhưng cho đến nay, xét về đại thể, những nguyên
lý tổng quát trình bày trong Tuyên ngôn này vẫn còn hoàn toàn đúng.
Ở đôi chỗ, có một vài chi tiết cần phải xem lại. Chính ngay Tuyên
ngôn cũng đã giải thích rõ rằng bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp
dụng những nguyên lý đó cũng phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử đương
thời, và do đấy, không nên quá câu nệ những biện pháp cách mạng
nêu ra ở cuối chương II...Và cũng hiển nhiên là những nhận định về

thái độ của người cộng sản đối với các đảng đối lập (chương IV) nếu
cho đến nay vẫn còn đúng trên những nét cơ bản thì trong chi tiết,
những nhận định ấy đã cũ rồi, vì tình hình chính trị đã hoàn toàn thay
đổi và sự tiến triển lịch sử đã làm tiêu tan phần lớn những đảng được
kể ra trong đó.”
7


Trong lời tựa viết cho bản tiếng Nga xuất bản năm 1882 C.Mác
và Ph.Ăngghen đã chỉ ra, nếu Tuyên ngôn được xuất bản bằng tiếng
Nga vào đầu những năm 60 giỏi lắm chỉ là một của lạ về văn chương
mà thôi, thì tình hình ngày nay không còn như thế nữa. Bởi lẽ, “Trong
cuộc cách mạng 1848-1849, bọn vua chúa ở châu Âu cũng hệt như
giai cấp tư sản châu Âu, đều coi sự can thiệp của nước Nga là phương
tiện duy nhất để cứu thoát chúng thoát khỏi tay giai cấp vô sản vừa
mới bắt đầu giác ngộ về lực lượng của mình. Chúng tôn Nga Hoàng
làm trùm phe phản động châu Âu. Hiện nay Nga Hoàng, ở Ga-tsi-na,
đã là tù binh của cách mạng, và nước Nga đang đi tiên phong trong
phong trào cách mạng châu Âu” “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
ngày nay ở Nga có nhiệm vụ tuyên bố diệt vong không tránh khỏi và
sắp xảy ra của chế độ sở hữu tư sản.
Sau khi phân tích những thay đổi cơ bản của xã hội Nga, C.Mác
và Ph.Ăngghen tiên đoán tài tình rằng “nếu cách mạng Nga báo hiệu
một cuộc cách mạng vô sản ở phương Tây và nếu cả hai cuộc cách
mạng ấy bổ sung cho nhau thì chế độ ruộng đất công cộng ở Nga hiện
nay sẽ có thể là khởi điểm của một sự tiến triển cộng sản chủ nghĩa.”[
Trong lời tựa viết cho bản tiếng Đức xuất bản năm 1883,
Ph.Ăngghen chỉ ra, do C.Mác đã mất nên không thể nói đến việc sửa
lai hay bổ sung Tuyên ngôn nữa. Ph.Ăngghen khẳng định: “Tư tưởng
cơ bản và chủ đạo của Tuyên ngôn là: trong mỗi thời đại lịch sử sản

xuất kinh tế và cơ cấu xã hội - cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất
kinh tế mà ra - cả hai cái đó cấu thành cơ cấu của lịch sử chính trị và
lịch sử tư tưởng của thời đại ấy: do đó (từ khi chế độ công hữu ruộng
đất nguyên thủy tan rã), toàn bộ lịch sử là lịch sử các cuộc đấu tranh
giai cấp, đấu tranh giữa những giai cấp bị bóc lột và những giai cấp đi
bóc lột, giữa những giai cấp bị trị và những giai cấp thống trị, qua các
giai đoạn của sự phát triển xã hội của họ; nhưng cuộc đấu tranh ấy
hiện nay đã đến một giai đoạn mà giai cấp bị bóc lột và giai cấp bị áp
8


bức (tức giai cấp vô sản) không còn có thể tự giải phóng khỏi tay giai
cấp bóc lột và áp bức mình (tức giai cấp tư sản) được nữa, nếu không
đồng thời và vĩnh viễn giải phóng toàn thể xã hội khỏi ách bóc lột, ách
áp bức và khỏi những cuộc đấu tranh giai cấp.Tư tưởng chủ chốt ấy
hoàn toàn và tuyệt đối là của C.Mác”
Trong lời tựa viết cho bản tiếng Anh xuất bản năm 1888, sau
khi chỉ ra sự ra đời và sức sống của Tuyên ngôn trên thế giới,
Ph.Ăngghen giải thích, sở dĩ tên gọi của Tuyên ngôn là “Tuyên ngôn
của Đảng Cộng sản” mà không gọi là “Tuyên ngôn xã hội chủ nghĩa”
là để phân biệt đây là tuyên ngôn của giai cấp vô sản giác ngộ chứ
không là khát vọng không tưởng của giai cấp tư sản và tiểu tư sản về
xã hội chủ nghĩa. Ông cũng lại khẳng định, tuy Tuyên ngôn là tác
phẩm viết chung, nhưng luận điểm chủ yếu làm hạt nhân cho sách là
của C.Mác.
Trong lời tựa viết cho bản tiếng Đức xuất bản năm 1890,
Ph.Ăngghen viết: “Vô sản tất cả các nước doàn kết lại!”. Chỉ có một
vài tiếng đáp lại chúng tôi, khi chúng tôi tung lời kêu gọi ấy với thế
giới, cách đây bốn mươi hai năm, ngay trước ngày cuộc cách mạng
đầu tiên nổ ra ở Pa Ri, trong đó giai cấp vô sản đã xuất hiện với những

yêu sách của chính mình. Nhưng ngày 28 tháng 9 năm1864, những
người vô sản trong phần lớn các nước Tây Âu đã liên hợp lại để lập ra
Hiệp hội lao động quốc tế, một hội mà tên tuổi vẻ vang được ghi nhớ
mãi mãi. Thật ra bản thân Quốc tế chỉ sống có Chín năm. Nhưng sự
đoàn kết bất diệt do Quốc tế đã xây dựng được giữa những người vô
sản tất cả các nước vẫn tồn tại và càng mạnh hơn bao giờ hết. Bởi vì
ngày hôm nay, khi tôi viết những dòng này, giai cấp vô sản châu Âu
và châu Mỹ đang điểm lại lực lượng chiến đấu của mình, lực lượng
lần đầu tiên được huy động thành một đạo quân duy nhất, dưới cùng
một ngọn cờ và nhằm cùng một mục đích trước mắt là đòi pháp luật
quy định ngày làm việc bình thường là tám giờ, yêu sách đã được
9


tuyên bố từ 1866 tại Đại hội của Quốc tế ở Giơ-ne-vơ và sau này lại
được tuyên bố lần nữa tại Đại hội công nhân ở Pa ri năm 1889. Cảnh
tượng ngày hôm nay sẽ chỉ cho bọn tư bản và bọn địa chủ tất cả các
nước thấy rằng những người vô sản tất cả các nước đã thật sự đoàn kết
với nhau.”
Trong lời tựa viết cho bản tiếng Ba Lan xuất bản năm 1892,
Ph.Ăngghen chỉ ra ảnh hưởng to lớn và rộng rãi của Tuyên ngôn trong
công nhân châu Âu và sự in mới của Tuyên ngôn bằng tiếng Ba lan là
bằng chứng chứng tỏ yêu cầu ngày càng tăng sự phổ biến về Tuyên
ngôn trong công nhân công nghiệp Ba lan. Ph.Ăngghen cũng chỉ rõ:
“Chỉ có thể có được sự hợp tác quốc tế thành thực giữa các dân tộc
châu Âu khi nào mỗi dân tộc đó là người chủ tuyệt đối trong nhà
mình... Chỉ có giai cấp vô sản Ba Lan trẻ tuổi mới có thể giành được
nền độc lập đó, và nắm trong tay họ, nền độc lập đó sẽ được bảo vệ
chắc chắn.”[3;34,35]
Trong lời tựa viết cho bản tiếng Ý xuất bản năm 1893,

Ph.Ăngghen viết: “nếu cách mạng 1848 không phải là một cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa thì ít ra nó cũng dọn đường, chuẩn bị địa bàn
cho cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chế độ tư sản đã làm cho đại công
nghiệp phát triển ở tất cả các nước thì đồng thời cũng tạo ra ở khắp
nơi, trong bốn mươi lăm năm gần đây, một giai cấp vô sản đông đảo,
đoàn kết chặt chẽ và mạnh; do đó nó đã sinh ra, như Tuyên ngôn đã
nói, những người đào huyệt chôn nó... Tuyên ngôn hoàn toàn thừa
nhận vai trò cách mạng mà chủ nghĩa tư bản đã đóng trong quá
khứ...Hiện nay, cũng như năm 1300, đang mở ra một kỷ nguyên lịch
sử mới. Để đời đời truyền tụng sự nảy sinh của kỷ nguyên mới này, kỷ
nguyên vô sản, liệu nước Ý có cung cấp được cho chúng ta một Đantơ mới chăng?”[3;37,38]
Mở đầu.
10


Chỉ với 26 dòng, lời mở đầu đã thể hiện tính khoa học và tính
chiến đấu của “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”. “Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản” khẳng định CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN đa được tất ca
các thế lực Giáo hoàng, Nga hoàng, bọn cấp tiến Pháp, bọn cảnh sát
Đức.. ở châu Âu thừa nhận là một thế lực, chứ không còn là một bóng
ma đang ám ảnh châu Âu. Do đó đã đến lúc những người cộng sản
phải công khai trình bày trước toàn thế giới những quan điểm, mục
đích và ý đồ của mình để đập lại câu chuyện hoang đường về bóng ma
cộng sản.
Chương 1: Tư sản và Vô sản
Trong chương này, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” nêu lên
sự đối lập giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản - hai giai cấp cơ bản
trong xã hội tư bản; sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản cùng
với giai cấp tư sản. Hai ông đã làm rõ:
Lịch sử xã hội loài người từ khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ

tan rã cho đến nay là lịch sử đấu tranh giai cấp giữa giai cấp bị áp bức,
bóc lột với giai cấp bóc lột, thống trị. Cuộc đấu tranh ấy diễn ra không
ngừng và kết thúc bằng một cuộc cách mạng xã hội, hoặc bằng sự diệt
vong của cả hai giai cấp đấu tranh với nhau. Trong xã hội tư sản hiện
đại, cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản hiện đại với giai cấp tư sản
dẫn đến sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi của chủ
nghĩa cộng sản.
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đã làm rõ vai trò lịch sử của
hai giai cấp tư sản và vô sản hiện đại.
Giai cấp tư sản là sản phẩm của một quá trình phát triển lâu dài
của một loạt các cuộc cách mạng trong phương thức sản xuất và trao
đổi. Khi mới ra đời giai cấp tư sản đã đóng vai trò hết sức cách mạng
trong lịch sử. Nó đại diện cho sự phát triển của lực lượng sản xuất
đang lên, đánh đổ sự thống trị của giai cấp phong kiến, thiết lập nền
chuyên chính tư sản thực hiện những tiến bộ xã hội. “Chưa đầy một
11


thế kỷ, giai cấp tư sản thống trị đã tạo ra được một lực lượng sản xuất
nhiều và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia
gộp lại”. Đại diện cho lực lượng sản xuất mới, giai cấp tư sản đã đập
tan xiềng xích của chế độ phong kiến, thay vào đó là chế độ tự do
cạnh tranh thích hợp với sự thống trị về chính trị của giai cấp tư sản.
Là một giai cấp tư hữu bóc lột, nên vai trò của giai cấp tư sản bị hạn
chế ngay từ đầu, đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản nổ
ra ngay từ khi chủ nghĩa tư bản mới ra đời. Giai cấp tư sản không
những đã rèn vũ khí để giết mình, mà còn tạo ra những người sử dụng
vũ khí ấy để đánh đổ chính bản thân giai cấp tư sản: “Những vũ khí
mà giai cấp tư sản đã dùng để đánh đổ chế độ phong kiến thì ngày nay
quay lại đập vào chính ngay giai cấp tư sản. Nhưng giai cấp tư sản

không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình; nó còn tạo ra những
người sử dụng vũ khí ấy - những công nhân hiện đại, những người vô
sản”.
Giai cấp vô sản hiên đại là người có sứ mệnh đào huyệt chôn
chủ nghĩa tư bản và và sáng tạo ra một xã hội mới tốt đẹp hơn. Sứ
mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản do vị trí kinh tế - xã hội của
giai cấp vô sản trong lịch sử quy định. Giai cấp vô sản hoàn toàn có
khả năng hoàn thành sứ mệnh lịch sử thế giới của mình, do họ là giai
cấp tiên tiến gắn liền với nền đại công nghiệp, lớn lên cùng nền đại
công nghiệp; là sản phẩm của nền đại công nghiệp, đại biểu cho xu
hướng tiến lên của đại công nghiêp. Họ là giai cấp thực sự cách mạng,
dưới chủ nghĩa tư bản những người vô sản bị tước hết mọi tư liệu sản
xuất nên họ chẳng có gì là của riêng mình để bảo vệ cả. Muốn giải
phóng, họ phải phá huỷ hết thảy những gì từ trước đến nay vẫn bảo
đảm và bảo vệ chế độ tư hữu.
Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản, trước hết là phải
thanh toán xong giai cấp tư sản trong nước mình, đánh đổ toàn bộ sự
thống trị của giai cấp tư sản cả về kinh tế, chính trị, đạo đức, pháp
12


luật... mưu lợi ích cho tuyệt đại đa số nhân dân, sau đó tiến lên hoàn
thành sự nghiệp giải phóng thế giới khỏi ách áp bức bóc lột giai cấp.
Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản diễn ra
ngay tư khi giai cấp vô sản mới ra đời và phát triển đi từ thấp đến cao,
từ tự phát lên tự giác. Thắng lợi của giai cấp vô sản trong cuộc đấu
tranh chống lại giai cấp tư sản là tất yếu. Cuộc đấu tranh này sẽ dẫn
đến bùng nổ cách mạng công khai, giai cấp vô sản thiết lập sự thống
trị của mình bằng cách dùng bạo lực cách mạng lật đổ giai cấp tư sản.
“Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều tất

yếu như nhau”[3;65]. Kết luận này của hai ông trong “Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản” không những vững vàng và khoa học mà còn sâu sắc
về chính trị.
Chương 2: Những người vô sản và những người cộng sản.
Trong chương này hai ông tập trung trình bày về tính giai cấp
của Đảng Cộng sản, mối quan hệ giữa Đảng và giai cấp, những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa cộng sản khoa học, một số nguyên lý
chiến lược và sách lược cách mạng của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Tính chất giai cấp của Đảng Cộng sản và quan hệ giữa Đảng
với giai cấp: Đảng là đội quân tiên phong, bộ phận giác ngộ nhất của
giai cấp vô sản.
Về mặt lý luận Đảng có ưu thế hơn bộ phận còn lại của giai cấp
vô sản ở chỗ có nhận thức sáng suốt về điều kiện, tiến trình và kết quả
chung của phong trào vô sản.
Về mặt thực tiễn, Đảng là bộ phận kiên quyết nhất bao giờ cũng
cổ vũ phong trào vô sản tiến lên giành thắng lợi; Đảng là bộ phận
không tách rời giai cấp, luôn bảo vệ lợi ích của giai cấp và đại biểu
cho lợi ích của toàn bộ phong trào vô sản. Phải có Đảng lãnh đạo giai
cấp vô sản mới là tròn sứ mệnh lịch sử của mình. Nhiệm vụ của Đảng
trước hết là tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự
thống trị của giai cấp tư sản, giành lấy chính quyền.
13


Tóm lại, Đảng là bộ phận gắn liền với giai cấp vô sản, là bộ
phận tiên tiến nhất và kiên quyết cách mạng nhất của giai cấp vô sản,
Có sự lãnh đạo của Đảng, giai cấp vô sản mới hoàn thành được sứ
mệnh lịch sử thế giới của mình.
Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa cộng sản khoa học:
Về sở hữu: hai ông cho rằng, tư bản vận động được là nhờ sự

hoạt động chung của xã hội. Do đó việc biến tư bản thành sở hữu
chung chỉ có nghĩa là thay đổi tính chất giai cấp của nó - giải phóng
lực lượng sản xuất có trình độ xã hội hoá cao. Hai ông tuyên bố xoá
bỏ mọi chế độ tư hữu và thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.
Về vấn đề tự do cá nhân, hai ông tuyên bố phải xoá bỏ cá tính
tư sản, tính độc lập tư sản và tự do tư sản, thứ tự do buôn bán và bóc
lột sức lao động của người khác.
Về vấn đề gia đình, hai ông khẳng định những người cộng sản
chủ trương xoá bỏ gia đình tư sản, bởi lẽ quan hệ gia đình tư sản dựa
trên tư bản, lợi nhuận cá nhân nhà tư sản, người phụ nữ bị coi như là
một công cụ sản xuất, cha mẹ bóc lột con cái, cộng thê, mãi dâm
chính thức và không chính thức. Chưa thỏa mãn với việc phá hoại
hạnh phúc của những người vô sản, họ còn lấy việc cắm sừng lẫn
nhau làm thú vui đặc biệt.
Về vấn đề giáo dục: Người cộng sản không bịa ra tác động của
xã hội đối với giáo dục, vì nó là cái vốn sẵn có, mà chỉ thay đổi tính
chất của sự tác động ấy và kéo giáo dục ra khỏi ảnh hưởng của giai
cấp tư sản mà thôi.
Về vấn đề dân tộc, tổ quốc và quốc tế: “Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản” khẳng định dưới chủ nghĩa tư bản giai cấp vô sản và nhân
dân lao động không có tổ quốc, bởi mọi quyền đại diện tổ quốc, dân
tộc và tất cả các lợi ích khác đều do giai cấp tư sản nắm giữ. Chính
thế, giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải tự mình thành giai cấp
dân tộc, phải tự mình thành dân tộc nhưng không phải theo kiểu như
14


giai cấp tư sản hiểu. “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” cũng khẳng
định: “Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc
không còn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng thời mất

theo”. Không có độc lập, thống nhất cho từng dân tộc thì không thể
thực hiện được sự liên hợp quốc tế của giai cấp vô sản.
Về vấn đề tôn giáo, triết học và những quan điểm ý thức tư
tưởng nói chung, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” quan niệm đó là
công cụ thống trị về tinh thần của các giai cấp bóc lột thống trị, dưới
chủ nghĩa tư bản nó nói lên thời kỳ thống trị của cạnh tranh tự do
trong lĩnh vực tri thức mà thôi. “Cách mạng cộng sản chủ nghĩa là sự
đoạn tuyệt triệt để nhất với chế độ sở hữu cổ truyền, không có gì đáng
lấy làm lạ khi thấy rằng trong tiến trình phát triển của nó, nó đoạn
tuyệt một cách triệt để nhất với những tư tưởng cổ truyền”.
Những nguyên lý chiến lược và sách lược cách mạng:
Cách mạng CSCN phải trải qua hai giai đoạn: Giai đoạn 1,
Phải xây dựng giai cấp vô sản thành giai cấp thống trị. Sau khi nắm
được chính quyền giai cấp vô sản phải dùng thế lực chính trị của mình
tập trung phát triển lực lượng sản xuất đồng thời với việc phát triển sự
nghiệp văn hoá, giáo dục... “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” cũng đã
nêu ra 10 biện pháp cụ thể mà C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng có thể
áp dụng ở những nước tư bản phát triển nhất lúc bấy giờ nhằm cải tạo
xã hội cũ xây dựng xã hội mới. Trong đó, sáu biện pháp đầu nói về
cách mạng quan hệ sản xuất như tước đoạt sở hữu ruộng đất, đánh
thuế luỹ tiến, xoá bỏ quyền thừa kế, tập trung tín dụng vào ngân hàng
nhà nước, tập trung phương tiện vận tải quan trọng vào tay nhà nước...
Ba biện pháp tiếp theo nói về phát triển lực lượng sản xuất như tăng
cường các xí nghiệp quốc doanh, tiến hành khai hoang cải tạo ruộng
đất, thi hành nghĩa vụ lao động, kết hợp lao động nông nghiệp với lao
động công nghiệp, xoá dần khoảng cách giữa thành thị với nông
thôn... Biện pháp thứ mười nói về giáo dục công cộng và kết hợp giáo
15



dục với sản xuất. Trong mười biện pháp trên, cho đến nay nhiều biện
pháp còn mang đầy đủ tính hiện thực phổ biến của nó đối với con
đường lên chủ nghĩa xã hội ở nhiều nước, trong đó có Việt Nam.
Giai đoạn 2, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đã phác hoạ ra
xã hội Cộng sản trong tương lai. Ở đó không còn giai cấp và không
còn đấu tranh giai cấp. Nhà nước với tư cách là bộ máy thống trị giai
cấp cũng không còn nữa. Một thế liên hợp của người lao động phát
triển toàn diện xuất hiện, trong đó “sự phát triển tự do của mỗi người
là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”.
Về Cách mạng phát triển không ngừng: Điều này có liên quan
đến lời tựa hai ông viết năm 1882 “Nếu cách mạng Nga báo hiệu một
cuộc cách mạng vô sản ở phương Tây và nếu cả hai cuộc cách mạng
ấy bổ sung cho nhau thì chế độ ruộng đất công cộng ở Nga hiện nay
sẽ có thể là khởi điểm của một sự tiến triển cộng sản chủ nghĩa”.
Về vấn đề chính quyền nhà nước “Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản” coi nó là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng. Trong “Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản”, hai ông chưa dùng đến thuật ngữ chuyên
chính vô sản, nhưng tư tưởng về chuyên chính vô sản đã được diễn
đạt một cách rõ ràng qua các thuật ngữ “Giai cấp vô sản nắm chính
quyền”, “giai cấp vô sản tự xây dựng thành giai cấp thống trị”. Sau
này, trong thư gửi Vây-ơ-đờ-mây-e ngày 5/3/1852 C.Mác đã sử dụng
khái niệm “chuyên chính vô sản” - một trong những nguyên lý cơ bản
nhất của chủ nghĩa cộng sản khoa học.
Chương 3: Văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Trong chương này, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” tập trung
phân tích, phê phán những trào lưu xã hội chủ nghĩa phi vô sản nhằm
bảo đảm thắng lợi cho việc truyền bá học thuyết chủ nghĩa cộng sản
khoa học vào phong trào công nhân. Tinh thần, thái độ, phương pháp
phân tích, phê phán của hai ông đối với các trào lưu văn học xã hội
chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa phi mac-xít luôn là cơ sở khoa học

16


giúp chúng ta phân biệt ranh giới giữa chủ nghĩa cộng sản khoa học
với các trào lưu xã hội chủ nghĩa phản động, phản bội, cải lương, xét
lại, không tưởng hiện nay.
Hai ông vạch rõ tính chất phản động kéo lùi lịch sử, chống lại
phong trào cộng sản của các trào lưu xã hội chủ nghĩa phong kiến và
tiểu tư sản:
Chủ nghĩa xã hội phong kiến là thứ văn học của bọn quý tộc
phong kiến bị gạt khỏi địa vị thống trị bởi giai cấp tư sản. Bọn này
một mặt giơ cái bị ăn mày lên làm cớ để lôi kéo nhân dân, mặt khác
lại “không bỏ qua cơ hội để lượm lấy những quả táo bằng vàng và
đem lòng trung thành, tình yêu và danh dự mà đổi lấy việc buôn bán
len, củ cải đường và rượi mạnh.”[3;83]
Chủ nghĩa xã hội của Cơ đốc giáo là thứ chủ nghĩa xã hội đi sát
với chủ nghĩa xã hội phong kiến, nó là thứ nước thánh mà bọn thầy tu
dùng để xức cho nỗi giận hờn của bọn quý tộc phong kiến và phủ lên
chủ nghĩa khổ hạnh một lớp sơn xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản tuy phân tích sâu những mâu thuẫn
của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, nhưng nó có tính chất không tưởng
và có tính chất phản động. Tính chất phản động tiêu biểu của nó là
muốn đem nền sản xuất đại công nghiệp đặt vào trong chiếc áo chật
hẹp của chủ nghĩa phường hội, và về sau trào lưu này chỉ còn là
những lời oán thán hèn nhát.
Chủ nghĩa xã hội chân chính Đức chỉ là sự cưỡng hôn giữa tư
tưởng xã hội chủ nghĩa Pháp với Triết học Đức. Nó là loại văn học
bẩn thỉu và khó chịu. Một mặt nó là thứ ngáo ộp mà giai cấp tiểu tư
sản hằng mơ ước để dọa lại giai cấp tư sản. Mặt khác nó là thứ vũ khí
trong tay chính phủ chuyên chế Đức để chống lại giai cấp tư sản non

trẻ và đem “cái lối giả nhân giả nghĩa đường mật của nó bổ sung cho
roi vọt và súng đạn mà những chính phủ ấy đã dùng để trấn áp những
cuộc khởi nghĩa của công nhân Đức”[3;89,90]
17


Hai ông phân tích và phê phán chủ nghĩa xã hội bảo thủ (chủ
nghĩa xã hội tư sản). Hai ông coi tư tưởng xã hội chủ nghĩa của giai
cấp tư sản là bảo thủ, bởi lẽ nó muốn duy trì chủ nghĩa tư bản chứ
không kéo lùi lịch sử như các trào lưu xã hội chủ nghĩa khác. Loại chủ
nghĩa xã hội này do đủ loại các nhà cải lương ngồi xó buồng nặn ra
nhằm chữa bệnh cho xã hội tư bản, hy vọng tẩy trừ được những yếu tố
làm cho xã hội tư bản tan rã. Nội dung chủ nghĩa xã hội bảo thủ có thể
tóm lại là “sở dĩ những người tư sản là những người tư sản, đó là vì
lợi ích của giai cấp công nhân”[3;93]. Có nghĩa chúng thừa nhận sự
tồn tại của giai cấp tư sản là vì lợi ích của giai cấp vô sản.
Với chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản không tưởng cuối
thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX theo đánh giá của “Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản” thì:
+ Họ đả kích mạnh mẽ xã hội đương thời và vẽ lên bức tranh
toàn cảnh về một xã hội tương lai hợp với nguyện vọng bản năng đầu
tiên của giai cấp vô sản, góp phần thức tỉnh cuộc đấu tranh của giai
cấp vô sản.
+ Họ nêu lên những đề nghị tích cực, những dự kiến rất có giá
trị về một xã hội tương lai, trong đó có những luận điểm mà sau này
hai ông kế thừa, phát triển thành những luận điểm của chủ nghĩa cộng
sản khoa học.
+ Tuy nhiên những biện pháp thực hiện lại không mang tính
cách mạng. Họ chỉ bằng những hành động gương mẫu, những cuộc thí
nghiệm nhỏ, những lời kêu gọi lòng từ thiện của những người giàu

có...
+ Những hạn chế này của họ là do những điều kiện vật chất cần
thiết cho sự giải phóng của giai cấp vô sản chưa đầy đủ và những
người đại biểu cho cho trào lưu tư tưởng này chưa thấy được sứ mệnh
lịch sử của giai cấp vô sản. Chính vậy, họ đã đi tìm một khoa học xã
hội ở ngoài xã hội, lấy tài ba cá nhân thay thế cho hoạt động xã hội,
18


lấy những điều tưởng tượng chủ quan thay thế cho những điều kiện
lịch sử cụ thể, đem một xã hội hoàn thiện, hoàn mỹ hư cấu từ trong tư
duy chụp lên xã hội hiện tại. Những đề nghị, những biện pháp của họ
dù vĩ đại cũng chỉ là ước mơ.
+ Khi phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản mới bắt đầu thì
họ là những nhà cách mạng xét về nhiều phương diện. Nhưng khi
phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản trở nên
quyết liệt thì các môn đồ của họ trở thành những kẻ thông thái rởm
một cách có hệ thống, những kẻ bảo thủ và phản động. Chẳng hạn
tông phái Rô-bet Ô-oen chống lại phong trào Hiến Chương ở Anh,
tông phái Sác-lơ Phu-ri-ê chống lại phái Cải cách ở Pháp...
Chương 4: Thái độ của những người cộng sản đối với các đảng
đối lập.
Trong chương này hai ông khẳng định lập trường kiên định của
Đảng Cộng sản về những vấn đề chiến lược và sách lược mềm dẻo
của Đảng đối với các Đảng Xã hội-Dân chủ Tư sản hoặc Tiểu tư sản
đang đối lập với các thế lực phản động cầm quyền ở các nước Pháp,
Thuỵ Sỹ, Đức, Ba Lan... lúc bấy giờ. Ở đây đã thể hiện tư tưởng cách
mạng không ngừng, có ý nghĩa chỉ đạo chiến lược đối với phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế và là kim chỉ nam soi sáng con đường
tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước có trình độ chậm phát triển về

kinh tế:
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” khẳng định: Những người
cộng sản chiến đấu cho những mục đích và những lợi ích trước mắt
của giai cấp vô sản, nhưng đồng thời trong phong trào hiện tại họ
cũng bảo vệ và đại biểu cho tương lai của phong trào.
Trong khi liên hợp với các Đảng phái để chống lại thế lực phản
động đang thống trị những người cộng sản vẫn giành cho mình quyền
phê phán những lời nói suông, những ảo tưởng và “không giờ phút
nào Đảng Cộng sản lại quên gây cho công nhân một ý thức sáng suốt
19


và rõ ràng về sự đối kháng kịch liệt giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô
sản”[3;100], để sau khi thanh toán xong các thế lực phản động thống
trị là có thể tiến hành ngay cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản.
Mục đích của những người cộng sản chỉ có thể đạt được bằng
cách dùng bạo lực lật đổ toàn bộ trật tự xã hội hiện có. Trong cuộc
cách mạng ấy, những người vô sản không mất gì hết ngoài những
xiềng xích trói buộc họ. Trong cuộc cách mạng ấy họ giành được cả
một thế giới về mình.
1.1.5 Ý nghĩa của tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”
Hiện nay có một số ý kiến của giai cấp tư sản và những người phi mác-xít
nhằm phủ nhận giá trị của “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, nhưng từ khi ra
đời cho đến nay đã trãi qua hơn 156 năm, nó vẫn còn nguyên giá trị lịch sử và
cách mạng của nó:
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” là văn kiện mang tính cương
lĩnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, nó đánh dấu sự ra
đời của chủ nghĩa Mác-Lênin. Tuy chỉ là một tập sách nhỏ chưa đầy
100 trang, nhưng chứa đựng tri thức đồ sộ bằng nhiều bộ sách. Khi
nghiên cứu “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” cần phải nghiên cứu

những lời tựa C.Mác và Ph.Ăngghen viết cho những lần xuất bản sau
1848.
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” có những giá trị lâu dài sau:
Lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng, triết học, sử học xuất hiện một
quan niệm khoa học và có hệ thống về lịch sử phát triển của xã hội
loài người, về những động lực của phát triển lịch sử. Hai ông đã xuất
phát từ sự vận động của đời sống kinh tế-xã hội mà phân tích xã hội
và xuất phát từ kinh tế-xã hội mà phân tích chính trị và văn hoá.
Tuyên ngôn đã chỉ ra những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật
biện chứng áp dụng triệt để trong lĩnh vực lịch sử, từ đó chỉ ra quy
luật chung của sự phát triển của xã hội loài người. Đây là cơ sở lý
20


luận, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin. Học thuyết của
C.Mác về hình thái kinh tế-xã hội đến nay vẫn giữ nguyên giá trị.
Bằng thế giới quan khoa học, bằng phương pháp luận duy vật
biện chứng, hai ông đi sâu phân tích những quy luật vận động của xã
hội tư bản, vạch ra quy luật vận động kinh tế của xã hội tư bản là quy
luật giá trị thặng dư, cũng tức là vạch ra bản chất của chủ nghĩa tư
bản. “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” khẳng định tính tất yếu về mặt
lịch sử của sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản, đồng thời
vạch ra những mâu thuẫn nội tại của chủ nghiã tư bản, phân tích
những cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, khẳng
định cuộc đấu tranh này sẽ dẫn đến kết quả: Xã hội tư bản sẽ bị thay
thế bằng một xã hội khác tiến bộ hơn, phát triển hơn, đó là xã hội
cộng sản.
Hạt nhân chủ đạo của “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” là:
Phương thức chủ yếu của sản xuất kinh tế và trao đổi cùng với cơ cấu
xã hội do phương thức đó quyết định đã cấu thành cơ sở cho lịch sử

chính trị của thời đại và lịch sử của sự phát triển trí tuệ của thời đại.
Do đó toàn bộ lịch sử của nhân loại có giai cấp là lịch sử của đấu
tranh giai cấp, đấu tranh giữa những giai cấp bóc lột và những giai cấp
bị bóc lột, giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị áp bức. Giai cấp vô
sản không thể tự giải phóng mình, nếu không đồng thời giải phóng
toàn xã hội, giải phóng con người khỏi ách bóc lột, áp bức, khỏi tình
trạng phân chia giai cấp và áp bức giai cấp. Tức giải phóng giai cấp,
giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại đồng thời đều là sứ mệnh của
giai cấp công nhân.
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” chủ trương xây dựng một xã
hội Cộng sản thay thế xã hội Tư bản, đó là một xã hội công bằng,
nhân đạo, không còn tình trạng người áp bức, bóc lột người. Xã hội
Cộng sản là một liên hợp trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là
điều kiện phát triển tự do của tất cả mọi người. Mục đích đó của CHỦ
21


NGHĨA CỘNG SẢN không phải là mong muốn chủ quan mà là chiều
hướng khách quan của sự phát triển của lịch sử. Một xã hội phát triển
cao như vậy không thể được hình thành một cách dễ dàng, tự phát, mà
phải trải qua cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa: Lật đổ sự thống trị của
giai cấp tư sản, giai cấp công nhân và nhân dân lao động phải dành
được chính quyền, xây dựng và sáng tạo ra xã hội mới cao hơn, tiến
bộ hơn xã hội tư bản về mọi phương diện.
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” và các tác phẩm khác của hai
ông đề ra các vấn đề chiến lược, sách lược chủ yếu về hình thức,
phương pháp, về con đường quá độ từ xã hội cũ lên xã hội mới. Hai
ông chỉ rõ thái độ khoa học, phương pháp luận duy vật biện chứng
trong nghiên cứu, vận dụng các tư tưởng, luận điểm, kết luận trong
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”.

Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản luôn đồng hành với Đảng và cách mạng
Việt Nam. Tư tưởng khoa học và phương pháp cách mạng của tuyên ngôn đã
được Đảng cộng sản Việt Nam vận dụng sáng tạo trong những năm đấu tranh
giải phóng dân tộc cũng như trong công cuộc đổi mới xây dựng đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Giá trị khoa học của Tuyên ngôn trước
hết giúp Đảng có được cơ sở lý luận và phương pháp luận đúng đắn trong phát
triển lý luận, tổng kết thực tiễn nhằm làm sáng tỏ hơn về Chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. 163 năm là quãng thời gian dài so
với đời của một con người, nhưng lại là ngắn so với lịch sử tiến hóa của nhân
loại. Vượt qua thời gian của lịch sử, những giá trị của Tuyên ngôn của Đảng
cộng sản là bất diệt, là mặt trời, là ngọn đèn soi sáng con đường cách mạng Việt
Nam đi tới tương lai .
II-

Ý nghĩa thực tiễn của tác phẩm

Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là tác phẩm kinh điển chủ yếu của chủ nghĩa
xã hội khoa học. Những nguyên lý C .Mác và Ph.Ăng ghen trình bày trong tác
phẩm là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho toàn bộ phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế. Trải qua mọi thử thách, hơn một thế kỷ qua, phong trào cộng
22


sản và công nhân quốc tế, nhiều vấn đề mới đặt ra đòi hỏi giải quyết nhưng chủ
nghĩa Mác không hề lỗi thời. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã đặt nền tảng tư
tưởng cho những vấn đề về Đảng và xây dựng Đảng. Những tư tưởng đó có ý
nghĩa thiết thực trong công tác xây dựng Đảng của Đảng ta.
- Về vai trò của Đảng: Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta đều khẳng định: Sự
lãnh đạo của Đảng là điều kiện quyết định mọi thắng lợi của cách mạng và sự lãnh
đạo của Đảng là tất yếu trong tất cả các giai đoạn cách mạng.

- Trong công tác xây dựng Đảng, Đảng ta khẳng định vấn đề nâng cao bản
chất giai cấp công nhân là tư tưởng xuyên suốt trong công tác xây dựng Đảng để
bảo đảm cho Đảng hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo.
- Sự thống nhất lợi ích của Đảng và giai cấp - tư tưởng này làm cơ sở cho
những chủ trương xóa những đặc quyền, đặc lợi của Đảng.
- Trong Tuyên ngôn, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phân tích và kết luận bản
chất lập trường quan điểm của các tầng lớp, các giai cấp trong xã hội, những kết
luận đó vận dụng trong công tác phát triển Đảng, công tác cán bộ sẽ tránh được chủ
nghĩa thành phần. Những tư tưởng quan điểm về xây dựng Đảng trong Tuyên
ngôn luôn luôn là kim chỉ nam trong công tác xây dựng Đảng của Đảng ta.

23


CHƯƠNG II: Ý NGHĨA LÝ LUẬN HỌC THUYẾT CHÍNH TRỊ CỦA
C.MÁC – ĂNGGHEN QUA TÁC PHẨM “ TUYÊN NGÔN ĐẢNG CỘNG
SẢN”
Thắng lợi của toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam kể từ năm 1930,
nhất là thắng lợi của công cuộc đổi mới đã khẳng định tính đúng đắn của con
đường mục tiêu của cách mạng Việt Nam gắn liền với độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Thắng lợi đó cùng với thắng lợi của cách mạng, của chủ nghĩa xã
hội ở các nước khác đã chứng minh ý nghĩa lịch sử, giá trị cách mạng và khoa
học của tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản do Mác và Ăngghen soạn
thảo.
Cuối 1847, Các Mác và Phriđích Ăngghen viết tác phẩm Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản và tác phẩm được xuất bản lần đầu vào năm 1848. Trong Lời
tựa viết cho bản tiếng Đức xuất bản năm 1872, Mác và Ăngghen đã nêu rõ sự
cần thiết ra đời tác phẩm. “Liên đoàn những người cộng sản - một tổ chức công
nhân quốc tế, trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, tất nhiên chỉ có thể là một tổ chức bí
mật - đã uỷ cho những người ký tên dưới đây, là đại biểu dự Đại hội họp ở Luân

Đôn tháng 11-1847, khởi thảo ra một cương lĩnh của Đảng có đầy đủ chi tiết,
vừa về mặt lý luận, vừa về mặt thực tiễn, để đưa ra công bố”(1). Trong Lời
tựa viết cho bản tiếng Anh xuất bản năm 1888, Ăngghen khẳng định lại Tuyên
ngôn là Cương lĩnh của Liên đoàn những người cộng sản. “Tại Đại hội của Liên
đoàn họp ở Luân Đôn tháng 11-1847, Mác và Ăngghen được giao nhiệm vụ
khởi thảo một cương lĩnh lý luận và thực tiễn của Đảng, có đầy đủ chi tiết, để
đưa ra công bố. Công việc đó đã được hoàn thành vào tháng giêng 1848; bản
thảo viết bằng tiếng Đức đã được gửi tới Luân Đôn để in, vài tuần trước khi
Cách mạng 24-2 nổ ra tại Pháp”.
Tuyên ngôn là cương lĩnh của Đảng Cộng sản, điều đó đã được chính Mác
và Ăngghen khẳng định khi khởi thảo văn kiện lịch sử này. Trong Lời tựa viết
cho bản tiếng Đức xuất bản năm 1883 Ăngghen đã nhấn mạnh: “Tư tưởng cơ
bản và chủ đạo của “Tuyên ngôn” là: trong mỗi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế
24


và cơ cấu xã hội - cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra, - cả hai cái
đó cấu thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy; do đó
(từ khi chế độ công hữu ruộng đất nguyên thuỷ ta rã) toàn bộ lịch sử là lịch sử
các cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa những giai cấp bị trị và những giai
cấp thống trị, qua các giai đoạn của sự phát triển của họ; những cuộc đấu tranh
ấy hiện nay đã đến một giai đoạn mà giai cấp bị bóc lột và bị áp bức (tức là giai
cấp vô sản) không còn có thể tự giải phóng khỏi tay giai cấp bóc lột và áp bức
mình (tức là giai cấp tư sản) được nữa, nếu không đồng thời và vĩnh viễn giải
phóng toàn thể xã hội khỏi ách bóc lột, ách áp bức và khỏi những cuộc đấu tranh
giai cấp, - tư tưởng chủ chốt ấy hoàn toàn là của Mác”.
Từ khi xã hội loài người phân chia các giai cấp như Mác và Ăngghen
khẳng định là lịch sử đấu tranh giai cấp. Đó là cuộc đấu tranh của các giai cấp
đối lập nhau về quyền và lợi ích, địa vị trong xã hội. “Người tự do và người nô
lệ, quý tộc và bình dân, chúa đất và nông nô, thợ cả phường hội và thợ bạn, nói

tóm lại, những kẻ áp bức và những người bị áp bức luôn luôn đối kháng với
nhau, đã tiến hành một cuộc đấu tranh không ngừng, lúc công khai, lúc ngấm
ngầm, một cuộc đấu tranh bao giờ cũng kết thúc hoặc bằng một cuộc cải tạo
cách mạng toàn bộ xã hội, hoặc bằng sự diệt vong của cả hai giai cấp đấu tranh
với nhau”.
Ở mỗi thời đại lại có giai cấp tiêu biểu đứng ở trung tâm và diễn ra đấu
tranh giai cấp trong những điều kiện mới. Mác và Ăngghen cho rằng: Xã hội tư
sản hiện đại, sinh ra từ trong lòng xã hội phong kiến đã bị diệt vong, không xoá
bỏ được những đối kháng giai cấp. Nó chỉ đem những giai cấp mới, những điều
kiện áp bức mới, những hình thức đấu tranh mới thay thế cho những giai cấp,
những điều kiện áp bức, những hình thức đấu tranh cũ mà thôi. Trong thời đại tư
bản chủ nghĩa - thời đại của giai cấp tư sản: Xã hội ngày càng chia thành hai phe
lớn thù địch với nhau, hai giai cấp lớn hoàn toàn đối lập với nhau: giai cấp tư
sản và giai cấp vô sản.
Với sự nghiên cứu sâu sắc tiến trình lịch sử loài người, đặc biệt nghiên
cứu sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản, của các cuộc cách mạng tư sản,
25


×