Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác công tư ở việt nam tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (503.81 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐỌA TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐOÀN THỊ HẢI YẾN

PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ THEO HÌNH THỨC
ĐỐI TÁC CƠNG TƯ Ở VIỆT NAM

TĨM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số

: 9380107

Người hướng dẫn khoa học:
1. TS. Nguyễn Văn Tuyến
2. TS. Võ Đình Tồn

HÀ NỘI – 2020


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong điều kiện nền kinh tế hiện nay, các nước trên thế giới
nói chung và Việt Nam nói riêng đều gặp phải rất nhiều khó khăn
trong việc bảo đảm nguồn thu của ngân sách nhà nước nhằm đáp ứng


nhu cầu tài trợ cho các hoạt động của nhà nước cũng như tài trợ cho
việc xây dựng, kiến thiết hệ thống kết cấu hạ tầng. Để giảm gánh nặng
cho ngân sách nhà nước, tăng cường nguồn lực đầu tư cho xây dựng kết
cấu hạ tầng, một trong những biện pháp được áp dụng đó là thiết lập mối
quan hệ đối tác giữa nhà nước và tư nhân, hay còn được gọi là đầu tư
theo hình thức đối tác cơng tư (Public Private Partnerships sau đây xin
viết tắt là PPP).
Ở Việt Nam, quan hệ đối tác giữa Nhà nước và tư nhân trong
đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đã được triển khai thực hiện từ
những năm 1994 thông qua các dự án về năng lượng và viễn thông
theo các mô hình đầu tư BOT, BT, BTO. Tuy nhiên, việc áp dụng các
mơ hình này dường như chỉ có tính chất thử nghiệm và về lý thuyết
thì các mơ hình đầu tư BOT, BT hay BTO trong những năm trước
đây cũng chưa phản ánh đúng bản chất của mơ hình đầu tư theo hợp
đồng đối tác cơng tư. Chính vì vậy, bắt đầu từ năm 2011, với sự ra
đời của Quyết định số 71/QĐ-TTg ngày 9/11/2010 của Thủ tướng
Chính phủ về việc ban hành Quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức
đối tác cơng tư, cơ chế đầu tư theo mơ hình đối tác cơng tư mới bắt
đầu được triển khai thực hiện ở Việt Nam. Xét về bản chất, BOT
chính là một trong các hình thức PPP nhưng chính sự tồn tại đồng
thời của nhiều văn bản pháp luật khác nhau cùng điều chỉnh quan hệ
đối tác công tư đã gây ra nhiều khó khăn cho q trình áp dụng và
triển khai trên thực tiễn. Trong bối cảnh đó, Nghị định số
15/2015/NĐ-CP được ban hành, sau đó là Nghị định số 63/2018/NĐCP để đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống pháp luật trong việc điều


2
chỉnh quan hệ đối tác công tư. Tuy nhiên, do đây là một lĩnh vực còn
khá mới ở Việt Nam, thực tiễn áp dụng chưa nhiều nên pháp luật điều
chỉnh quan hệ này cịn nhiều bất cập. Vì thế, việc tìm kiếm một cơ

chế đối thoại, đối tác thực sự hiệu quả giữa Nhà nước và nhà đầu tư
tư nhân ở Việt Nam vẫn là vấn đề nan giải, cần được tiếp tục nghiên
cứu, tìm hiểu và có giải pháp tháo gỡ.
Từ thực tiễn nói trên, nghiên cứu sinh quyết định lựa chọn đề
tài: “Pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư ở Việt
Nam” để nghiên cứu và làm luận án tiến sĩ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài luận án là nhằm làm sáng tỏ
các vấn đề lý luận pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư
ở Việt Nam; trên cơ sở đó đưa ra các đề xuất về việc xây dựng mơ
hình pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.
Để đạt được mục tiêu trên, đề tài có các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, nghiên cứu lý luận về đầu tư theo hình thức đối tác
cơng tư và pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư.
Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về đầu tư
theo hình thức đối tác cơng tư ở Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, nghiên cứu so sánh pháp luật về đầu tư theo hình thức
đối tác cơng tư ở Việt Nam với các nước trên thế giới.
Thứ tư, đề xuất các các phương hướng để xây dựng và hồn
thiện pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác công tư ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quan điểm lý luận, các
học thuyết về đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư và lý thuyết điều
chỉnh pháp luật đối với quan hệ đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư;
các quy định pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác công tư của
một số nước trên thế giới và Việt Nam; thực tiễn thực hiện pháp luật
về đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư ở Việt Nam.



3
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào các vấn đề sau
đây:
- Phạm vi nội dung nghiên cứu: Về phương diện lý thuyết, tác
giả tập trung làm rõ bản chất của quan hệ đầu tư theo hình thức đối
tác cơng tư (với tính chất đặc thù là một quan hệ bất cân xứng giữa
các bên tham gia – đối tác công và đối tác tư); chỉ rõ cách thức điều
chỉnh bằng pháp luật đối với quan hệ đầu tư theo hình thức đối tác
cơng tư (trong đó làm rõ cơ chế lựa chọn nhà đầu tư và cơ chế thanh
tốn, đối trừ tài chính, cơng nợ cho nhà đầu tư). Về khía cạnh thực
tiễn, tác giả tập trung đánh giá thực trạng pháp luật về đầu tư theo
hình thức đối tác công tư ở Việt Nam, chỉ ra những hạn chế, bất cập
của lĩnh vực pháp luật này và từ đó đưa ra các đề xuất nhằm hồn
thiện pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác công tư ở Việt Nam.
- Về phạm vi thời gian và không gian nghiên cứu:
Về thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu các quy định của
pháp luật hiện hành về đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư.
Về không gian: Luận án nghiên cứu các quy định của pháp luật
thực định về đầu tư theo hình thức đối tác công tư ở Việt Nam.
4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Tác giả nghiên cứu đề tài dựa trên phương pháp luận duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử. Trên cơ sở nền tảng đó tác giả sử dụng
các phương pháp nghiên cứu cụ thể của khoa học xã hội, bao gồm:
Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so
sánh, phương pháp phân tích logic quy phạm.
5. Những đóng góp mới của luận án
Là một cơng trình khoa học nghiên cứu chun sâu, có hệ
thống, tồn diện về pháp luật đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư ở
Việt Nam, luận án có những đóng góp mới chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, luận án nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề

lý luận về đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư và pháp luật về đầu
tư theo hình thức đối tác cơng tư. Luận án phân tích về khái niệm,


4
đặc điểm và nội dung của hình thức đầu tư này.
Thứ hai, luận án đã chỉ rõ bản chất của quan hệ đầu tư theo
hình thức đối tác cơng tư vốn dĩ là một quan hệ có tính chất bất cân
xứng giữa các bên tham gia (Nhà nước và Tư nhân), trong đó các bên
xác lập quan hệ hợp tác dựa trên việc ký kết hợp đồng dự án để đạt
được những mục tiêu mà mỗi bên theo đuổi.
Thứ ba, luận án đã chỉ ra vai trò, chức năng, nhiệm vụ cũng
như những ưu thế của các chủ thể tham gia quan hệ đầu tư này. Sự
tham gia của nhà nước thơng qua các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền và các nhà đầu tư tư nhân thông qua hợp đồng sẽ phát huy thế
mạnh của mỗi bên góp phần thực hiện thành công dự án PPP.
Thứ tư, luận án làm rõ nhà đầu tư trong các dự án PPP là tổ
chức và chỉ ra các tiêu chí để lựa chọn được nhà đầu tư có năng lực
thực hiện dự án. Luận án cũng đã chứng minh được nếu như quy định
doanh nghiệp nhà nước được tham gia với tư cách là nhà đầu tư trong
các dự án PPP là không phù hợp với bản chất của quan hệ đầu tư theo
hình thức PPP.
Thứ năm, luận án đã chứng minh được những hạn chế trong
các quy định pháp luật về đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư cịn có những
bất cập như thế nào và cần phải chuyển đổi qua hình thức đấu thầu
qua mạng để bảo đảm tính cơng khai, minh bạch trong quá trình lựa
chọn nhà đầu tư.
Thứ sáu, luận án đã chứng minh được việc quyết toán cơng
trình dự án theo quy định pháp luật hiện nay đối với dự án PPP là
khơng phù hợp với hình thức đầu tư này và cần phải thay đối theo

hướng .
Thứ bảy, luận án đã chứng minh việc cần bổ sung các quy định
nhằm bảo đảm sự hỗ trợ của nhà nước cho các dự án PPP thì mới có
thể thu hút được sự tham gia của các nhà đầu tư, qua đó góp phần
chia sẻ rủi ro giữa nhà nước và nhà đầu tư.


5
Thứ tám, trên cơ sở những hạn chế, tồn tại của các quy định
hiện hành, luận án đã đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật về đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Luận án là cơng trình nghiên cứu khoa học chun sâu, có hệ
thống và tồn diện để giải quyết những vấn đề lý luận cốt lõi và thực
tiễn về đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư.
- Luận án là nguồn tài liệu hữu ích đối với các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền trong việc đánh giá hiệu quả của các quy định
pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư, làm cơ sở cho việc
hoàn thiện pháp luật trong thời gian tới.
- Luận án cịn là nguồn tài liệu có giá trị đối với các cơ sở nghiên
cứu khoa học, giảng dạy, học tập về pháp luật về đầu tư theo hình thức
đối tác cơng tư.
- Với những cơ sở lý luận và thực tiễn được rút ra từ quá trình
nghiên cứu, các giải pháp và kiến nghị được luận án đưa ra có giá trị
tham khảo đối với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong q
trình hồn thiện pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư.
7. Kết cấu của luận án
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
luận án được thiết kế gồm:

Phần thứ nhất: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề
tài luận án.
Phần thứ hai: Nội dung của luận án gồm 3 chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về đầu tư theo hình thức đối
tác cơng tư và pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư.
- Chương 2: Thực trạng pháp luật về đầu tư theo hình thức đối
tác công tư ở Việt Nam.
- Chương 3: Yêu cầu và giải pháp hoàn thiện pháp luật về đầu
tư theo hình thức đối tác cơng tư ở Việt Nam.


6
Phần thứ nhất
TỔNG QUAN
TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án và
hướng triển khai nghiên cứu đề tài luận án
Qua khảo sát tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án,
tác giả rút ra một số nhận định và đánh giá sau đây:
1.1. Những kết quả đạt được về mặt lý thuyết và thực tiễn liên quan
đến đề tài luận án
1.1.1. Những kết quả đạt được về mặt lý thuyết và thực tiễn của các
cơng trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề đầu tư theo hình thức đối
tác cơng tư
Về phương diện lý luận: Các cơng trình nghiên cứu đã đề cập,
phân tích và làm rõ nhiều vấn đề lý luận về đầu tư theo hình thức đối
tác cơng tư như khái niệm, đặc điểm và vai trị của hình thức đầu tư này
trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư vào kết cấu hạ tầng và cung cấp
dịch vụ công.

Về phương diện thực tiễn: Các cơng trình nghiên cứu đã đề cập
tới thực tiễn về đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư của các quốc gia
điển hình trên thế giới, các kết quả nghiên cứu này có ý nghĩa rất
quan trọng đối với tác giả và đối với luận án là đã khái quát được một
cách đầy đủ thực trạng đầu tư theo hình thức này trên thế giới được
quy định như thế nào, từ đó giúp cho tác giả có cơ sở để nghiên cứu
so sánh và nghiên cứu thực trạng pháp luật Việt Nam và có thể đưa
đến một số câu hỏi nghiên cứu và giải pháp xây dựng Luật Đầu tư
theo hình thức đối tác công tư ở Việt Nam.
2.1.2. Những kết quả về mặt lý thuyết và thực tiễn của các cơng trình
nghiên cứu liên quan đến vấn đề pháp luật đầu tư theo hình thức đối
tác cơng tư
- Về phương diện lý thuyết: Các cơng trình nghiên cứu của các
học giả nước ngồi về pháp luật đầu tư theo hình thức đối tác công tư


7
đã đề cập và phân tích về thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng
pháp luật tại một số quốc gia điển hình. Khơng chỉ có vậy, các học
giả còn chỉ ra những bài học kinh nghiệm về điều chỉnh pháp luật đối
với phương thức đầu tư này tại các quốc gia. Đây là nguồn tư liệu
quý giá để giúp tác giả luận án kế thừa và phát triển trong quá trình
giải quyết các yêu cầu đặt ra của luận án. Mặt khác, các cơng trình
nghiên cứu trong nước về pháp luật đầu tư theo hình thức đối tác
cơng tư cũng đã bước đầu tiếp cận và phân tích dưới góc độ lý luận
và thực tiễn về đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư. Trong đó chủ
yếu các cơng trình tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận về pháp
luật điều chỉnh hợp đồng BOT như bản chất, đặc điểm và vai trò của
pháp luật về hợp đồng BOT. Các phân tích này sẽ tiếp tục được tác
giả luận án nghiên cứu, đánh giá, bình luận và đưa ra nhận định riêng

của bản thân về cơ sở lý luận và thực trạng pháp luật của Việt Nam
về đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư.
- Về phương diện thực tiễn: Các cơng trình nghiên cứu ở nước
ngồi có tính thực nghiệm về PPP trên thế giới rất phong phú, nhiều
kết quả quan trọng đã được công bố, cụ thể các nghiên cứu khẳng
định không tồn tại một hình thức PPP chuẩn và mỗi nước đều có
chiến lược riêng tùy thuộc bối cảnh, thế chế, nguồn tài trợ và tính
chất của dự án.
Trong khi đó, các cơng trình nghiên cứu ở trong nước về thực
tiễn thực hiện pháp luật đầu tư theo hình thức đối tác công tư ở Việt
Nam đã đặt trọng tâm nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp luật về
hợp đồng BOT. Qua đó các cơng trình đã phân tích, đánh giá có hệ
thống các quy định pháp luật về hợp đồng BOT, chỉ ra những điểm
phù hợp, những điểm còn hạn chế, bất cập để từ đó đưa các các kiến
nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng BOT ở Việt Nam.
1.2. Những vấn đề liên quan đến đề tài luận án chưa được các
cơng trình đã cơng bố giải quyết hoặc đã giải quyết nhưng chưa
thỏa đáng, hoặc cịn có ý kiến khác nhau cần được tiếp tục nghiên
cứu trong luận án


8
Thứ nhất, về phương diện lý thuyết, đã có nhiều nghiên cứu
về bản chất của quan hệ đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư nhưng
chủ yếu dưới góc độ kinh tế, dưới góc độ pháp lý đã có nghiên cứu
nhưng chưa nghiên cứu toàn diện về quan hệ đầu tư theo hình thức
đối tác cơng tư, đặc biệt trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp
quyền, hội nhập quốc tế.
Thứ hai, về phương diện thực tiễn, đã có các cơng trình nghiên
cứu về thực trạng pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư

nhưng chưa nghiên cứu và đánh giá một cách toàn diện và đặc biệt là
chưa chỉ ra và phân tích một cách đầy đủ, sâu sắc về những hạn chế,
bất cập của pháp luật hiện hành về đầu tư theo hình thức đối tác công
tư ở Việt Nam để trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm hồn
thiện khung pháp lý về đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư ở Việt
Nam hiện nay.
2. Lý thuyết nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết nghiên
cứu
2.1. Lý thuyết nghiên cứu
Nội dung luận án được triển khai dựa trên cơ sở lý thuyết chung
về đầu tư, trong đó trọng tâm là lý thuyết về hình thức đầu tư theo hình
thức đối tác cơng tư.
Hình thức đầu tư theo hình thức đối tác công tư được thực hiện
bởi sự tham gia của đối tác công và đối tác tư nếu thiếu một trong hai
bên thì khơng thể thực hiện đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư
được mà sẽ thực hiện theo hình thức đầu tư cơng hoặc đầu tư tư nhân.
Bên cạnh đó, luận án được thực hiện dựa trên cơ sở lý thuyết
chung về hợp đồng.
2.2. Câu hỏi nghiên cứu
Dựa trên kết quả đánh giá tình hình nghiên cứu đề tài và dự
kiến hướng triển khai nghiên cứu đề tài luận án, tác giả xác định các
câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu chủ yếu cần được chứng
minh trong luận án như sau:


9
Đề tài nghiên cứu được thực hiện để tìm câu trả lời cho câu
hỏi: “Quy định pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư ở
Việt nam có những hạn chế nào cần khắc phục để đảm bảo các quy
định pháp luật về PPP thực sự thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động đầu tư

theo hình thức đối tác cơng tư ở Việt Nam?”. Để tìm đáp án cho câu
hỏi này, luận án sẽ nghiên cứu để tìm câu trả lời cho một số câu hỏi
nhỏ sau:
- Bản chất pháp lý của quan hệ đầu tư theo hình thức đối tác
công tư?
- Pháp luật cần điều chỉnh như thế nào, theo cơ chế, nguyên lý
như thế nào đối với quan hệ đầu tư theo hình thức đối tác công tư?
- Để xác lập quan hệ hợp đồng đầu tư do các bên toàn quyền
quyết định hay theo chịu sự chỉ đạo của Nhà nước? Các bên chủ thể
tham gia quan hệ hợp đồng đầu tư có địa vị pháp lý bình đẳng với
nhau hay khơng? Pháp luật Việt Nam khi quy định về chủ thể tham
gia quan hệ này có đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên
chủ thể hay chưa?
- Trình tự, thủ tục đầu tư theo quy định của pháp luật Việt Nam
hiện nay đã phù hợp với bản chất của quan hệ này cũng như phù hợp
với thông lệ quốc tế hay chưa ? Việc lựa chọn nhà đầu tư theo quy
định hiện hành đã bảo đảm tính cơng khai, minh bạch chưa ? Các tiêu
chí để lựa chọn nhà đầu tư đã thực sự phù hợp để bảo đảm lựa chọn
được nhà đầu tư có năng lực tốt nhất để thực hiện dự án hay không ?
- Việc quy định về quyết toán dự án đối với dự án thực hiện
đầu tư theo hình thức PPP đã phù hợp và phản ánh đúng bản chất của
mối quan hệ này hay không ?
- Hoạt động đầu tư theo hình thức PPP thường diễn ra trong
một thời gian dài nên dễ xảy ra tranh chấp giữa các bên chủ thể
tham gia hoặc tranh chấp giữa người sử dụng dịch vụ và nhà đầu
tư. Vậy khi xảy ra tranh chấp thì cơ chế giải quyết tranh chấp nào
sẽ được áp dụng để giải quyết các mâu thuẫn, bất đồng xảy ra?


10

2.3. Giả thuyết nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu Nghị định số 63/2018/NĐ-CP, Luật
Đầu tư, Luật Đầu tư công, Luật Đấu thầu, Luật Ngân sách Nhà nước
cùng các văn bản hướng dẫn thi hành các đạo luật này, luận án đặt ra
hai giả thuyết nghiên cứu như sau:
- Giả thuyết nghiên cứu thứ nhất:
Để nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư theo hình thức PPP,
cần phải có quy chế pháp lý phù hợp theo đó: Các quy định pháp luật
được ban hành cần phản ánh đúng bản chất của quan hệ đầu tư theo
hình thức đối tác cơng tư; Quy định về địa vị pháp lý các chủ thể
tham gia quan hệ này quyền hạn, trách nhiệm, năng lực của các bên
khi tham gia quan hệ; Nhà đầu tư trong quan hệ này phải đạt được
những điều kiện nhất định nên khơng phải cá nhân, tổ chức nào cũng
có thể tham gia với tư cách là nhà đầu tư; Để đảm bảo lựa chọn được
nhà đầu tư có năng lực cần phải thực hiện đấu thầu công khai, minh
bạch hạn chế đến mức thấp nhất việc áp dụng chỉ định thầu; Sự tham
gia của nhà nhà nước bằng việc hỗ trợ về mặt tài chính là cần thiết
đối với một số dự án nhất định; Cần phải quy định các biện pháp bảo
đảm của nhà nước để bù đắp những rủi ro mà nhà đầu tư có thể phải
gánh chịu; Cần phải có các quy định nhằm bảo đảm lợi ích của những
người sử dụng dịch vụ được cung cấp; Các chế tài được áp dụng phải
đủ mạnh để có thể ngăn ngừa vi phạm xảy ra, đồng thời trừng phạt
nghiêm khắc đối với chủ thể vi phạm.
- Giả thuyết nghiên cứu thứ hai:
Để nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư theo hình thức PPP các
quy định pháp luật được ban hành hướng tới bảo đảm quyền và lợi
ích cho phía đối tác cơng nhiều hơn để thực hiện mục tiêu quản lý đối
với hoạt động đầu tư; Trong quan hệ này nhà nước có quyền can
thiệp bằng các mệnh lệnh hành chính để yêu cầu nhà đầu tư thực hiện
hoặc không thực hiện một công việc nhất định mà không được giao

kết trong hợp đồng; Nhà đầu tư chỉ cần đáp ứng điều kiện năng lực


11
về tài chính là có thể tham gia dự án PPP; Nhà nước khơng cần hỗ trợ
về mặt tài chính cũng như các biện pháp bảo đảm đầu tư để chia sẻ
rủi ro với nhà đầu tư vì nếu như vậy rất có thể dẫn đến việc nhà nước
sẽ phải gánh chịu mọi rủi ro; Khơng cần có các quy định pháp luật
nhằm bảo đảm lợi ích của người sử dụng dịch vụ vì đây là quan hệ
này được xác lập thơng qua hình thức pháp lý là hợp đồng giữa nhà
nước và nhà đầu tư.


12
Phần thứ hai
NỘI DUNG CỦA LUẬN ÁN
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ
THEO HÌNH THỨC ĐỐI TÁC CƠNG TƯ VÀ
PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ THEO HÌNH THỨC ĐỐI TÁC
CÔNG TƯ
1.1. Những vấn đề lý luận về đầu tư theo hình thức đối tác cơng

1.1.1. Khái niệm đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư
Theo quan điểm của tác giả: “Đầu tư theo hình thức đối tác
cơng tư là một quan hệ hợp tác đặc biệt giữa Nhà nước (thơng qua
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền) với nhà đầu tư, được xác lập
và thực hiện trên cơ sở hợp đồng hợp tác đầu tư nhằm mục đích xây
dựng, cải tạo, vận hành, kinh doanh, quản lý cơng trình hạ tầng,
cung cấp dịch vụ cơng, trong đó các bên đạt được thỏa thuận về việc

phân bổ hợp lý các nguồn lực tài chính, chia sẻ rủi ro, trách nhiệm
pháp lý và các lợi ích phát sinh trong quá trình thực hiện hoạt động
đầu tư.”
Khái niệm trên cho thấy bản chất của mối quan hệ đối tác công
tư – vốn dĩ không phải là một quan hệ đối tác hồn tồn bình đẳng
giữa các bên tham gia, mặc dù các bên vẫn cùng nhau giao kết hợp
đồng để tạo ra các quyền, nghĩa vụ pháp lý cho chính mình thực hiện.
1.1.2. Đặc điểm của đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư
Thứ nhất, về khía cạnh bản chất pháp lý.
Đặc điểm về bản chất pháp lý của đầu tư theo hình thức đối tác
cơng tư là quan hệ hợp đồng, trong đó phản ánh tính chất “bất cân
xứng” giữa các bên tham gia cùng với những khác biệt về lợi thế mà
mỗi bên sở hữu.
Thứ hai, về khía cạnh chủ thể tham gia quan hệ đầu tư.
Điểm khác biệt quan trọng giữa đầu tư theo hình thức đối tác


13
công tư so với đầu tư công hay đầu tư tư là ở chỗ, hình thức đầu tư
này ln có sự tham gia của hai bên chủ thể, trong đó một bên là Nhà
nước (thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền) và một bên là
nhà đầu tư tư nhân.
Thứ ba, về khía cạnh nguồn vốn đầu tư.
Trên nguyên tắc, nguồn vốn được sử dụng để đầu tư trong hợp
đồng đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư thường bao gồm hai
nguồn: (i) vốn đầu tư của đối tác công là nhà nước; (ii) vốn đầu tư
của đối tác tư là các nhà đầu tư tư nhân.
Thứ tư, về khía cạnh mục đích đầu tư.
Đối với chủ thể là nhà đầu tư tư nhân, mục đích tham gia quan
hệ đầu tư này chính là lợi nhuận, cịn đối với chủ thể là Nhà nước thì

mục đích tham gia quan hệ đầu tư này chính là khai thác nguồn vốn
đầu tư của khu vực tư nhân, kinh nghiệm chuyên môn và khả năng
quản lý, điều hành của chủ thể này để xây dựng kết cấu hạ tầng và
cung cấp dịch vụ công.
Thứ năm, về đối tượng đầu tư là xây dựng kết cấu hạ tầng và
cung cấp dịch vụ cơng cho xã hội.
1.1.3. Vai trị của đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư
Thứ nhất, việc đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư sẽ tạo ra
nhiều khoản đầu tư hơn cho kết cấu hạ tầng.
Thứ hai, việc đầu tư theo mơ hình đối tác cơng tư sẽ nâng cao
hiệu quả trong việc xây dựng và vận hành các cơng trình cơng cộng.
Thứ ba, việc đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư sẽ phân bổ
và quản lý rủi ro tốt và hiệu quả hơn.
Thứ tư, việc đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư sẽ góp
phần cải thiện chất lượng kết cấu hạ tầng và các dịch vụ công
được cung cấp.
1.2. Những vấn đề lý luận về điều chỉnh pháp luật đối với quan
hệ đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư
1.2.1. Khái niệm pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác công tư


14
Ở mức độ khái quát, có thể đưa ra khái niệm pháp luật về đầu
tư theo hình thức đối tác cơng tư như sau:
Pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác công tư là tổng thể
các quy phạm pháp luật do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, nhằm
điều chỉnh quan hệ hợp tác đầu tư giữa Nhà nước với nhà đầu tư tư
nhân để xây dựng, cải tạo, kinh doanh, quản lý cơng trình hạ tầng và
cung cấp dịch vụ công.
1.2.2. Nguyên tắc điều chỉnh của pháp luật về đầu tư theo hình

thức đối tác cơng tư
Về lý thuyết thì việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với quan hệ
đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư cần tuân thủ một số nguyên tắc
cơ bản sau đây:
Thứ nhất, pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác công tư
phải được thiết kế và ban hành theo hướng đảm bảo thỏa mãn lợi ích
chính đáng và hợp pháp của các bên liên quan.
Thứ hai, pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư
phải đảm bảo nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của nhà đầu tư
tư nhân trong quan hệ đầu tư.
Thứ ba, pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác công tư phải
đảm bảo thực hiện được mục tiêu cơ bản, cốt lõi là xây dựng, cải tạo,
vận hành, kinh doanh và quản lý các cơng trình hạ tầng và dịch vụ
công, đồng thời tránh nguy cơ “trục lợi” từ phía các nhà đầu tư tư
nhân thơng qua việc thiết kế các điều khoản thiếu cơng bằng, khơng
có lợi cho Nhà nước trong hợp đồng đầu tư theo hình thức đối tác
công tư (hợp đồng dự án).
1.2.3. Cấu trúc của pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác
công tư
Theo ý kiến của tác giả luận án, mô hình cấu trúc của pháp luật
về đầu tư theo hình thức đối tác công tư sẽ bao gồm nhưng không
giới hạn bởi các nhóm quy phạm pháp luật chủ yếu sau đây:
(i) Các quy phạm pháp luật quy định về chủ thể và quyền,


15
nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ đầu tư theo hình thức đối
tác cơng tư.
(ii) Các quy phạm pháp luật quy định về hợp đồng đầu tư theo
hình thức đối tác cơng tư.

(iii) Các quy phạm pháp luật quy định về trình tự, thủ tục đầu
tư dự án PPP
(iv) Các quy phạm pháp luật quy định về nguồn vốn thực hiện
dự án PPP
(v) Các quy phạm pháp luật quy định về ưu đãi và bảo đảm
đầu tư
(vi) Các quy phạm pháp luật quy định về quyết toán cơng trình
dự án PPP
(vii) Các quy phạm pháp luật quy định về tổ chức quản lý
dự án, kiểm tra, giám sát hoạt động đầu tư theo hình thức đối tác
cơng tư.
(viii) Các quy phạm pháp luật quy định về xử lý vi phạm pháp
luật và giải quyết tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện dự án
đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư.


16
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ THEO HÌNH THỨC
ĐỐI TÁC CÔNG TƯ Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng quy định về chủ thể tham gia quan hệ đầu tư
theo hình thức đối tác cơng tư
Ở mức độ khái qt, có thể chỉ ra một số hạn chế, bất cập chủ
yếu sau:
Thứ nhất, pháp luật hiện hành quy định chưa hợp lý về việc cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ủy quyền ký hợp đồng dự án cho các
đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư.
Thứ hai, pháp luật hiện hành còn để ngỏ các quy định về trách
nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong trường hợp các cơ
quan này khơng thực hiện theo đúng cam kết trong hợp đồng PPP.

Thứ ba, pháp luật hiện hành quy định khá chung chung, thiếu
cụ thể về nhà đầu tư tham gia vào các dự án đầu tư theo hình thức đối
tác cơng tư, dẫn đến những bất cập trong quá trình thực hiện trong
thực tế.
Thứ tư, pháp luật hiện hành chưa quy định rõ về địa vị pháp lý
của doanh nghiệp dự án và mối quan hệ pháp lý giữa doanh nghiệp
dự án với nhà đầu tư và cơ quan nhà nước có thẩm quyền (đối tác
cơng) trong q trình thực hiện dự án PPP.
2.2. Thực trạng quy định về hợp đồng đầu tư theo hình thức đối
tác cơng tư ở Việt Nam
Thứ nhất, về tên gọi của hợp đồng đầu tư theo hình thức đối
tác cơng tư.
Hợp đồng đầu tư theo hình thức đối tác công tư được ghi nhận
tại khoản 2 Điều 3 Nghị định số 63/2018/NĐ-CP dưới tên gọi “Hợp
đồng dự án”.
Thứ hai, về các loại hợp đồng đầu tư theo hình thức đối tác
cơng tư.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, hợp đồng đầu tư theo


17
hình thức đối tác cơng tư (hay hợp đồng dự án) có thể được các bên
giao kết theo một trong các loại chủ yếu sau:
- Hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao (BOT);
- Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh (BTO);
- Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao (BT);
- Hợp đồng Xây dựng - Sở hữu - Kinh doanh (BOO);
- Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Thuê dịch vụ (BTL);
- Hợp đồng Xây dựng - Thuê dịch vụ - Chuyển giao (BLT);
- Hợp đồng Kinh doanh - Quản lý (O&M).

Thứ ba, về nội dung của hợp đồng dự án.
Nội dung hợp đồng là các điều khoản đã được các bên bàn bạc,
thỏa thuận trên cơ sở hợp tác và cùng có lợi, trong đó trực tiếp ấn
định quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia vào quan hệ hợp
đồng.
Thứ tư, về ký kết và thực hiện hợp đồng dự án.
Theo quy định tại Điều 39 Nghị định số 63/2018/NĐ-CP, căn
cứ quyết định phê duyệt kết quả lựa chọn nhà đầu tư và kết quả đàm
phán, hoàn thiện hợp đồng, cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức
việc ký kết hợp đồng dự án.
Thứ năm, về vấn đề công khai hợp đồng dự án.
Theo quy định tại Điều 41 Nghị định số 63/2018/NĐ-CP, công
khai thông tin hợp đồng dự án là một thủ tục bắt buộc phải thực hiện
nhằm đảm bảo tính cơng khai, minh bạch và bảo đảm quyền tiếp cận
thông tin của xã hội và cộng đồng.
Thứ sáu, về chuyển nhượng quyền, nghĩa vụ của nhà đầu tư
theo hợp đồng dự án cho tổ chức, cá nhân khác.
Trong thời hạn thực hiện hợp đồng dự án, nếu nhà đầu tư và
doanh nghiệp dự án không thể hoặc không muốn tiếp tục thực hiện
hợp đồng dự án, có thể chuyển nhượng quyền, nghĩa vụ này cho chủ
thể khác.
Qua nghiên cứu các quy định về hợp đồng đầu tư theo hình


18
thức đối tác cơng tư, có thể chỉ ra một số hạn chế, bất cập sau đây:
Một là, pháp luật hiện hành chưa có sự thống nhất về tên gọi
của hợp đồng được ký kết giữa nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án với
cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thực hiện dự án đầu tư theo hình
thức đối tác công tư.

Hai là, các quy định về hợp đồng dự án hiện nay chưa thể hiện
rõ việc giao kết, thực hiện hợp đồng có phải tuân thủ các nguyên tắc
cơ bản đã được quy định trong Bộ luật dân sự hay không?
Ba là, các quy định về hợp đồng dự án hiện nay chưa đủ sức
ngăn ngừa nguy cơ lợi dụng việc triển khai các dự án đầu tư theo
hình thức đối tác cơng tư để trục lợi và chiếm đoạt tài sản cơng hoặc
gây thất thốt, lãng phí nguồn lực tài chính của quốc gia, hình thành
lợi ích nhóm trong q trình thực hiện dự án PPP.
Bốn là, pháp luật hiện hành chưa có quy định thống nhất về
mẫu hợp đồng dự án để đảm bảo phù hợp với tính chất đặc thù của
mỗi loại hợp đồng dự án.
2.3. Thực trạng quy định về trình tự, thủ tục đối với hoạt động
đầu tư theo hình thức đối tác công tư ở Việt Nam
Qua nghiên cứu, khảo sát thực trạng quy định về trình tự, thủ
tục liên quan đến hoạt động đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư,
trong đó có thủ tục lựa chọn nhà đầu tư, tác giả luận án cho rằng các
quy định này đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, các quy định hiện hành về thủ tục lựa chọn nhà đầu
tư cho các dự án PPP bằng phương thức chỉ định thầu được quy định
rất chung chung, chưa rõ ràng, dễ bị lợi dụng và gây khó khăn cho
q trình áp dụng trong thực tiễn.
Thứ hai, pháp luật quy định việc áp dụng hình thức chỉ định
thầu để lựa chọn nhà đầu tư cho các dự án PPP khơng chỉ làm hạn chế
tính cạnh tranh, làm giảm hiệu quả đầu tư của dự án, mà còn tạo kẽ hở
để tình trạng tham nhũng, lợi ích nhóm có cơ hội tồn tại, phát triển
thơng qua các dự án PPP.


19
2.4. Thực trạng quy định về nguồn vốn thực hiện dự án đầu tư

theo hình thức đối tác cơng tư
Qua khảo sát thực tiễn thực hiện pháp luật về đầu tư theo hình
thức đối tác cơng tư, tác giả luận án cho rằng nhóm quy phạm pháp
luật quy định về nguồn vốn thực hiện dự án đầu tư theo hình thức đối
tác công tư đã bộc lộ một số điểm hạn chế, bất cập sau đây:
Thứ nhất, hạn chế, bất cập của quy định về phần vốn góp của
nhà đầu tư.
Theo quy định của Nghị định số 63/2018/NĐ-CP, nguồn vốn
góp là vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư tối thiểu phải là 20% trên tổng
vốn đầu tư của dự án (đối với các dự án đầu tư có tổng vốn đầu tư
đến 1.500 tỷ đồng) và tối thiểu 10% tổng vốn đầu tư (đối với phần
vốn đầu tư vượt quá 1.500 tỷ đồng).
Việc quy định tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng vốn đầu tư như
quy định hiện nay là chưa phù hợp và còn thấp.
Thứ hai, hạn chế, bất cập của quy định về phần vốn tham gia
của Nhà nước.
Các bằng chứng cho thấy cấu trúc tài trợ vốn rất quan trọng đối
với sự thành công của PPP, trong đó cấu trúc tài trợ vốn được hiểu
bao gồm tỷ lệ phần vốn góp của Nhà nước và tư nhân trong dự án
PPP. Chính phủ cần mở rộng biên độ hỗ trợ vốn nhằm tăng tính khả
thi về tài chính của dự án PPP.
2.5. Thực trạng quy định về ưu đãi và bảo đảm đầu tư cho
các dự án đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư
Có thể nhận thấy, hạn chế, bất cập trong quy định về ưu đãi,
bảo đảm đầu tư đối với dự án đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư
được thể hiện ở một số khía cạnh chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, các quy định về ưu đãi đầu tư chưa rõ ràng, cụ thể
nên khó áp dụng trong thực tế.
Thứ hai, các quy định về chia sẻ rủi ro chưa được để cập đến
cả về mặt nguyên tắc cũng như cơ chế xác định và phân bổ rủi ro cho



20
mỗi bên ra sao trong quá trình triển khai, thực hiện, vận hành các dự
án PPP.
2.6. Thực trạng quy định về quyết tốn cơng trình dự án đầu tư
theo hình thức đối tác công tư
Một là, theo quy định hiện nay tại Nghị định số 63/2018/NĐCP, nhà làm luật chỉ đưa ra thời gian nhà đầu tư phải hồn thành
cơng tác quyết tốn cơng trình hồn thành mà chưa hướng dẫn đối
với việc quyết toán hợp đồng dự án trong giai đoạn kinh doanh, khai
thác cơng trình. Mặt khác, theo quy định tại Nghị định số
63/2018/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư và Thơng tư
số 88/2018/TT-BTC, việc quyết tốn vốn đầu tư cơng trình dự án
PPP thực hiện như quyết tốn dự án hồn thành thuộc nguồn vốn
nhà nước, tức là thủ tục quyết toán được thực hiện như dự án đầu
tư công. Rõ ràng, quy định như vậy là khơng đảm bảo tính khoa
học vì bản chất việc nhà đầu tư xây dựng cơng trình với vòng đời
20 - 30 năm sẽ khác so với dự án sử dụng vốn đầu tư của Nhà
nước. Hơn nữa, quy định về quyết tốn cơng trình dự án PPP như
hiện nay là chưa phù hợp với thông lệ quốc tế về kiểm sốt đầu ra
thay vì đầu vào của dự án.
Hai là, việc phê duyệt quyết tốn cơng trình dự án theo quy
định hiện nay trong Luật Xây dựng cũng không phù hợp đối với các
dự án PPP.
2.7. Thực trạng quy định về hoạt động kiểm tra, giám sát đối với
hoạt động đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư
Ở mức độ khái qt, có thể cho rằng các quy định này đã bộc
lộ một số điểm hạn chế, bất cập chủ yếu sau đây:
Một là, chưa có quy định cụ thể về việc kiểm tốn nhà nước
đối với các dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư.

Hai là, việc thiếu vắng các quy định về tham vấn ý kiến, về
quyền giám sát của cộng đồng dân cư đối với các dự án PPP là một
trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng thiếu đồng thuận từ phía


21
người dân đối với dự án PPP khi các dự án này đi vào hoạt động.
2.8. Thực trạng quy định về xử lý vi phạm pháp luật và giải
quyết tranh chấp trong hoạt động đầu tư theo hình thức đối tác
công tư
Ở mức độ khái quát, các quy định này cũng bộc lộ một số điểm
hạn chế, bất cập sau đây:
Một là, pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể về các
hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đầu tư theo hình thức đối
tác cơng tư, ngoại trừ một số quy định về hành vi bị cấm trong hoạt
động đầu tư.
Hai là, pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể về việc
quyền tham gia tố tụng của các tổ chức, cá nhân là người sử dụng cơ
sở hạ tầng và dịch vụ công được tạo ra từ các dự án đầu tư theo hình
thức đối tác công tư.


22
Chương 3
YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU
TƯ THEO HÌNH THỨC ĐỐI TÁC CƠNG TƯ Ở VIỆT NAM
3.1. Mục tiêu và các yêu cầu cơ bản đặt ra đối với việc hoàn thiện
pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư ở Việt Nam
3.1.1. Mục tiêu của việc hoàn thiện pháp luật về đầu tư theo hình
thức đối tác cơng tư ở Việt Nam

Xuất phát từ nhu cầu phát triển ở Việt Nam, việc xây dựng và
hoàn thiện các quy định pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác
cơng tư là hết sức cần thiết và cấp bách, nhằm hướng đến các mục
tiêu cơ bản sau đây:
Thứ nhất, thể chế hóa chủ trương, quan điểm của Đảng về thu
hút nguồn lực đầu tư từ khu vực tư nhân vào phát triển kết cấu hạ
tầng quốc gia; nâng cấp các quy định tại Nghị định hiện hành nhằm
nâng cao cơ sở pháp lý của các quy định, xử lý các nội dung chồng
chéo giữa các Luật và bổ sung các quy định cịn thiếu.
Thứ hai, tạo dựng mơi trường đầu tư theo hình thức PPP với cơ
sở pháp lý cao, thống nhất, đồng bộ, hạn chế rủi ro về mặt thay đổi
chính sách.
Thứ ba, hoàn thiện các quy định pháp luật về PPP nhằm nâng
cao hiệu quả đầu tư theo hình thức PPP, gắn với trách nhiệm của các
bên có liên quan bao gồm Bộ, ngành và địa phương là cơ quan nhà
nước có thẩm quyền; nhà đầu tư; doanh nghiệp dự án; ngân hàng, tổ
chức tín dụng và các cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán.
3.1.2. Các yêu cầu cơ bản đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật
về đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư ở Việt Nam
Xuất phát từ quan điểm nhận thức như vậy, tác giả luận án cho
rằng việc hoàn thiện pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác cơng
tư cần đáp ứng một số yêu cầu cơ bản sau đây:
Thứ nhất, việc hoàn thiện pháp luật về đầu tư theo hình thức
đối tác cơng tư phải đảm bảo u cầu vừa giải quyết được mục tiêu


23
cơ bản của phương thức đầu tư đặc thù này là thúc đẩy việc xây dựng
kết cấu hạ tầng và dịch vụ công trên cơ sở tiếp nhận nguồn vốn đầu
tư và kinh nghiệm chuyên môn trong thiết kế, xây dựng, vận hành và

khai thác cơng trình dự án của khu vực tư, vừa đảm bảo giải quyết
được yêu cầu về quyền lợi của nhà đầu tư khi tham gia đầu tư vào các
dự án PPP.
Thứ hai, phải đảm bảo tính tồn diện, thống nhất đồng bộ và
tính khả thi của hệ thống pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác
cơng tư.
Thứ ba, việc hồn thiện pháp luật về đầu tư theo hình thức đối
tác cơng tư phải bảo đảm tính phù hợp với tình trạng xã hội và nền
kinh tế hiện tại của Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi sang nền
kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Thứ tư, việc hoàn thiện pháp luật về đầu tư theo hình thức đối
tác cơng tư phải bảo đảm tính tương thích và phù hợp với thơng lệ,
chuẩn mực quốc tế.
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về đầu tư theo hình thức
đối tác cơng tư ở Việt Nam
3.2.1. Những giải pháp chung
Thứ nhất, khắc phục tình trạng chồng chéo và mâu thuẫn giữa
các văn bản pháp luật liên quan đến đầu tư theo hình thức đối tác
cơng tư.
Thứ hai, pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư
phải được hồn thiện trên cơ sở kết hợp hài hịa mối quan hệ lợi ích
giữa đối tác công, đối tác tư và bên thứ ba trong quá trình hình thành,
đàm phán, ký kết và thực hiện dự án đầu tư.
3.2.2. Các giải pháp cụ thể nhằm hồn thiện pháp luật về đầu tư
theo hình thức đối tác cơng tư
Thứ nhất, hồn thiện các quy định pháp luật về chủ thể tham
gia quan hệ đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư.
Thứ hai, cần sửa đổi, bổ sung quy định về hợp đồng được giao



24
kết giữa đối tác công và đối tác tư trong quan hệ đầu tư theo hình
thức đối tác cơng tư.
Thứ ba, hoàn thiện các quy định về thủ tục lựa chọn nhà đầu
tư cho các dự án đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư.
Thứ tư, hồn thiện các quy định về nguồn vốn thực hiện dự án
đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư
Thứ năm, hồn thiện quy định về chia sẻ, phân bổ rủi ro giữa
các bên trong hoạt động đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư.
Thứ sáu, hồn thiện quy định về cách thức quyết tốn cơng
trình dự án phù hợp với bản chất của dự án PPP
Thứ bảy, hoàn thiện quy định về hoạt động kiểm tra, giám
sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cộng đồng dân cư đối
với các dự án PPP.
Thứ tám, hoàn thiện quy định pháp luật về xử lý vi phạm pháp
luật và giải quyết tranh chấp trong hoạt động đầu tư theo hình thức
đối tác công tư


×