Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

SKKN SINH HOC 2010-2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.49 KB, 10 trang )

1
I. TÊN ĐỀ TÀI 1 : PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH
TRONG VIỆC HỌC TẬP MÔN SINH HỌC
II. ĐẶT VẤN ĐỀ :
1. Tầm quan trọng của vấn đề nghiên cứu :
Mục đích của việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông là
thay đổi lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học theo “Phương phâp
dạy học tích cực” (PPDHTC) với câc kỹ thuật dạy, học tích cực nhằm giúp
học sinh phât huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sâng tạo, rèn luyện thói
quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kĩ năng vận dụng kiến thức văo
những tình huống khâc nhau trong học tập vă trong thực tiễn; tạo niềm tin,
niềm vui, hứng thú trong học tập. Làm cho “Học” là quá trình kiến tạo; học
sinh tìm tòi, khám phá, phát hiện, luyện tập, khai thác và xử lí thông tin, tự
hình thành tri thức, có năng lực và phẩm chất của con người mới tự tin, năng
động, sáng tạo trong cuộc sống. Tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh,
dạy học sinh câch tìm ra chân lí. Chú trọng hình thành các năng lực (tự học,
sáng tạo, hợp tâc) dạy phương pháp và kĩ thuật lao động khoa học, dạy cách
học. Học để đáp ứng những yêu cầu của cuộc sống hiện tại và tương lai.
Những điều đê học cần thiết, bổ ích cho bản thđn học sinh vă cho sự phât
triển xê hội.
PPDHTC, được dùng với nghĩa là hoạt động, chủ động, trái với không hoạt
động, thụ động. Kỹ thuật dạy, học tích cực là “hạt nhđn” của PPDHTC,
hướng tới việc tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh, nghĩa là
hướng vào phát huy tính tích cực, chủ động của người học chứ không chỉ
hướng vào việc phát huy tính tích cực của người dạy.
Vì vậy, muốn đổi mới PPDH trước hết phải hình thành PPHT tích cực cho
học sinh.
2.Thực trạng của vấn đề :
Môn sinh học là một trong những môn học mà học sinh cần phải tiếp thu
một cách chủ động chiếm lĩnh tri thức nhằm ứng dụng vào đời sống sản xuất
vì đa số các em là con em của nông dân. Hơn nữa gần 75 % dân số của


chúng ta sản xuất nông nghiệp, sẽ không thừa để cho các em học và phục vụ
cho đời sống của bản thân,gia đình và xã hộiû. Mà trên thực tế học sinh của
chúng ta rất thụ động trong việc học tập môn sinh học, các em chưa biết
được tầm quan trọng của bộ môn là nhằm ứng dụng vào cuộc sống và sản
xuất.
Khi tham gia hoạt động nhóm nhằm tiếp thu kiến thức đa số các em còn ĩ
lại,
2
trông chờ vào bạn, kết cục chẳng ai chịu tham gia góp ý kiến. Khi trình bày
kết quả của nhóm chẳng cá nhân nào chịu đứng lên trình bày.
Đó là những vấn đề tôi thường gặp trong quá trình dạy học bộ môn sinh
học 7.
3. Lí do chọn đề tài :
Nhân loại đang đứng trước sự phát triển như vũ bão của khoa học công
nghệ, trước những biến đổi không ngừng vừa theo dòng chảy quy luật vừa
đột biến bất thường. Con người trong tương lai phải là con người biết hành
động một cách năng động và sáng tạo, thích ứng được với yêu cầu mới của
thời đại, có tri thức khoa học công nghệ tiên tiến, có kĩ năng, kĩ xảo vững
chắc, có ý thức nghề nghiệp để giải quyết “đúng, nhanh, sáng tạo” các nhiệm
vụ của thực tiễn đặt ra. Để làm được điều này đòi hỏi người học phải đứng
trước các vấn đề, phải tự tìm kiếm cách giải quyết vấn đề, lập luận, thuyết
minh làm sáng tỏ vấn đề, biết hợp tác, chia sẻ để tìm đến chân lí khoa học.
Nhà trường với phương pháp cổ truyền cùng với thời gian đã hoàn thành sứ
mạnh lịch sử của nó, nhường chổ cho sự xuất hiện một nhà trường mới với
phương pháp đảm bảo cho ra đời một sản phẩm đáp ứng ngày càng cao của
thế kỉ XXI. Dạy và học tích cực là một trong những mục tiêu chung và cũng
là một tiêu chuẩn về giáo dục hiệu quả.
Việc đổi mới sách giáo khoa và phương pháp dạy học là một yêu cầu
khách quan nhằm giúp cho người học hệ thống được kiến thức, năng động
hơn, sáng tạo hơn, phát triển năng lực trí tuệ ở một mức cao hơn, đòi hỏi

người dạy phải đầu tư nghiên cứu nhiều nhằm giúp học sinh có được những
kiến thức cơ bản.
Để góp phần thực hiện mục tiêu “Đào tạo học sinh thành những con người
năng động,độc lập và sáng tạo.Tiếp thu được những tri thức khoa học,kĩ
thuật hiện đại biết vận dụng tìm ra những giải pháp hợp lí nhằm giải quyết
những vấn đề thường gặp trong cuộc sống của bản thân và xã hội”.
Học tập văn hóa chiếm một vị trí rất quan trọng và có ý nghĩa rất lớn lao
đối với trẻ em, là một hoạt động chủ đạo của học sinh cấp II vì nó chiếm
nhiều thời gian trong cuộc sống của các em và quan trọng hơn là tạo ra
những phẩm chất tâm lí lứa tuổi.
Bộ môn sinh học nói chung là bộ môn khoa học thực nghiệm ...với nội
dung chứa đựng một kho tàng kiến thức sinh động, phong phú, hấp dẫn dể
kích thích tính tò mò, ham hiểu biết của học sinh, tạo điều kiện tốt cho việc
hình thành động cơ, thái độ học tập hứng thú của học sinh.
Một trong những yêu cầu giảng dạy môn sinh học: “ Tích cực hóa hoạt
động học tập của học sinh theo hướng có tổ chức để học sinh tự lực, chủ
động chiếm lĩnh khoa học.” Chính vì lẽ đó mà tôi đã chọn đề tài này.
4.Giới hạn nghiên cứu của đề tài:
3
Do điều kiện không thuận lợi nên tôi chỉ tìm hiểu được các đối tượng học
sinh mình đang dạy ở trường THCS Hướng Hiệp và THCS Abung và một
số học sinh ở các trường khác trên địa bàn huyện Đakrông thông qua trao
đổi với đồng nghiệp. Việc thực nghiệm đề tài vẩn còn chút hạn chế do học
sinh chọn thực nghiệm chưa tích cực, tự giác. Tài liệu chính thống để tham
khảo không nhiều, nguồn tài liệu chủ yếu của đề tài là khai thác mạng
INTERNET
III. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Muốn phát huy tính tích cực học tập của học sinh thì trước hết
chúng ta phải hiểu tích cực là một hiện tượng sư phạm, biểu hiện sự gắng
sức cao về nhiều mặt trong hoạt động học tập và nói đến tính tích cực học

tập thực chất là nói đến tính tích cực nhận thức, nó được biểu hiện: Học sinh
có nhu cầu tiếp thu kiến thức, kĩ năng, vận dụng kĩ năng để giao tiếp, gây
hứng thú học tập, từ đây các em sẽ tự giác học tập, chủ động huy động vốn
kinh nghiệm đã tích luỹ (vốn từ, quy tắc ngữ pháp…) để bắt chước, tái hiện,
tìm tòi cách ứng xử và ứng xử sáng tạo trong các tình huống giao tiếp. Học
sinh chủ động lựa chọn kiến thức và thao tác tư duy thích hợp để có những
ứng xử ngôn ngữ cần thiết, phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp, biết bộc lộ nhận
thức và sự hiểu biết của mình bằng lời nói, bài viết thông qua ngôn ngữ. Các
em biết cách làm việc theo cặp, theo nhóm, hợp tác với bạn khi cần thiết
trong quá trình luyện tập ngôn ngữ theo yêu cầu của giáo viên. Học sinh
mong muốn được đóng góp thêm những thông tin mới thu nhận được từ
những nguồn khác nhau, có khi vượt ra ngoài bài học… Ba cấp độ biểu hiện
tính tích cực học tập là:
Bắt chước Tìm tòi Sáng tạo
Từ tư duy tích cực tiến tới tư duy sáng tạo là kết quả quá trình hoạt
động không ngừng của cả thầy và trò. Nên đòi hỏi người giáo viên phải tìm
ra phương pháp dạy học phù hợp, đó là cách dạy học hướng tới người học,
giúp người học được hoạt động để nhận thức, phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo, tạo điều kiện cho người học tìm tòi, khám phá, phát hiện kiến
thức chống lại thói quen học tập thụ động. NQTW2 (khoá VIII) nêu rõ:
“Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đạo tạo, khắc phục lối truyền
thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp
dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy
học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh. Phát
triển mạnh phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong
toàn dân”. Đó chính là sự khuyến khích quan điểm dạy học tích cực, thể hiện
tư tưởng dạy-học “ lấy người học làm trung tâm”
4
Để làm tốt được điều này thì giáo viên cần xây dựng tập thể lớp tự giác
học tập. Từ đây các em thấy được tầm quan trọng của tính tự giác trong học

tập và cảm thấy ham học, nổ lực thi đua nhau trong học tập. Thành công của
một tiết dạy phụ thuộc rất nhiều vào học sinh.
Trong những năm qua, cùng với việc đổi mới chương trình, sách giáo
khoa thì việc đổi mới phương pháp dạy học được coi là một nhiệm vụ trọng
tâm, một yêu cầu bức thiết đối với tất cả các cấp học, bậc học nước ta. Đổi
mới phương pháp dạy học nhằm góp phần đào tạo những con người: tích
cực, tự giác, năng động, sáng tạo, có năng lực vận dụng những kiến thức
được học vào cuộc sống.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện việc đổi mới, giáo viên chỉ chú
trọng đến việc đổi mới trong tổ chức các hoạt động học tập của học sinh,
hoàn thiện các bước dạy theo hướng đổi mới, chứ chưa chú trọng đến sự
tham gia tích cực của các đối tượng học sinh và đối tượng tiếp cận với sự
đổi mới này chủ yếu là học sinh khá giỏi, còn đại bộ phận học sinh vẫn
chưa theo kịp và vẫn thụ động chờ kết quả của bạn mình đưa ra.
Nhận thức rõ vai trò của học sinh trong việc tự học, chính nó đã quyết
định giờ dạy tốt hay không tốt, chất lượng và kết quả giờ dạy.
Bộ môn sinh học nói chung và bộ môn sinh học 7 nói riêng là bộ môn
khoa học thực nghiệm. Tri thức sinh học chủ yếu được hình thành bằng
phương pháp quan sát, mô tả,thí nghiệm,thực nghiệm... với nội dung chứa
đựng một kho tàng kiến thức sinh động,phong phú,hấp dẫn dễ kích thích
tính tò mò của học sinh,tạo điều kiện tốt cho việc hình thành động cơ,thái
độ hứng thú học tập của học sinh.
IV. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
• Đối tượng: Học sinh trên địa bàn huyện Đakrông.
• Phương pháp nghiên cứu:
- Điều tra.
- Vấn đáp
- Quan sát
- Thử nghiệm bằng cách chọn 2 lớp đối chứng.
5

V. NỘI DUNG:
1.Tính thuyết phục của đề tài:
Từ thực trạng trên tôi đã dùng các phương pháp đã nêu ở mục IV và tiến
hành nghiên cứu để đưa ra các giải pháp sau. Tôi hi vọng rằng sau khi ứng
dụng đề tài này học sinh sẽ tích cực, tự giác hơn trong việc lĩnh hội kiến thức
sinh học.
2. Các giải pháp:
Giải pháp 1: khảo sát chất lượng học sinh
- Qua kiểm tra miệng
- Qua bài học và chuẩn bị bài ở nhà
- Qua chuẩn bị các mẫu vật,đồ dùng học tập
- Qua việc tiếp thu kiến thức,quan sát thực tế và sự hứng thú say mê trong
học tập
Giải pháp 2: Tăng cường tính tích cực của học sinhtrong học tập là
một giải pháp cơ bản có vai trò quan trọng trong việc phát triển tư duy của
học sinh.
a. Tính tích cực trong nghiên cứu bài mới: học sinh phải tự mình
quan sát,phân tích đối tượng để mô tả hình dạng và hoạt động sống của các
động vật điển hình thuộc các lớp dựa trên vật mẫu,mô hình,tranh vẽ...Mô tả
và so sánh những đặc điểm về cấu tạo và hoạt động sống của các cơ quan
bên trong cơ thể của những động vật điển hình đang học và đã học để rút ra
kết luận về sự tiến hóa.
Quan sát đặc điểm cấu tạo của các động vật hóa thạch tìm những điểm
giống nhau với các động vật khác để xác định nguồn gốc.
Đọc SGK,quan sát hình vẽ để trả lời câu hỏi giáo viên yêu cầu
b.Vẽ sơ đồ về hình dạng,cấu tạo của các động vật đã học như sơ đồ hệ
tuần hoàn máu,sơ đồ hệ tuần hoàn,hệ thần kinh...
c.Tập nhận biết,vẽ hình để mô tả các đặc điểm về hình dạng,cấu tạo và
hoạt động sống của các cơ quan, hệ cơ quan trên các đối tượng chưa quen.
Vd: khi dạy bài hình dạng và cấu tạo ngoài của thằn lằn bóng thích nghi

hoàn toàn ở cạn. Giáo viên có thể nêu câu hỏi và yêu cầu học sinh nêu ra
những đặc điểm của tắc kè thích nghi với đời sống hoàn toàn ở cạn, cũng có
thể cho học sinh xác định từng phần cơ thể.
d. Cũng cố kiến thức cũ: điền hoặc lập bảng so sánh, tổng kết, hệ
thống hóa những kiến thức đã học.
VD: Lập bảng so sánh sự thích nghi của cá với đời sống hoàn toàn ở nước,
ếch nhái vừa ở nước vừa ở cạn, bò sát hoàn toàn ở cạn, chim bay lượn trên
không...
e. Biết vận dụng kiến thức thực tiễn vào đời sống sản xuất.
VD: khi dạy bài tầm quan trọng của cá, giáo viên có thể nêu câu hỏi cho học
sinh trả lời tại sao khi nuôi cá ở ao hồ người ta không chỉ thả một loại cá mà
thả kết hợp nhiều loại như trắm cỏ,chép,rô phi...
Quan điểm một số người cho rằng:”cá được sinh ra từ bùn,chấy rận được
sinh ra từ tóc và da “.Quan niệm này sai ở đâu ?

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×