Tải bản đầy đủ (.docx) (74 trang)

BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP PHÁP LUẬT VỀ XÁC MINH ĐIỀU KIỆN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ THỰC TIỄN TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ HUYỆN MANG YANG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (469.76 KB, 74 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
PHÂN HIỆU ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TẠI KON TUM

BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP

PHÁP LUẬT VỀ XÁC MINH ĐIỀU KIỆN TRONG
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ - THỰC TIỄN TẠI CHI
CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
HUYỆN MANG YANG

Kon Tum, Tháng 6 năm 2019


ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
PHÂN HIỆU ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TẠI KON TUM

BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP

PHÁP LUẬT VỀ XÁC MINH ĐIỀU KIỆN TRONG
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ - THỰC TIỄN TẠI CHI
CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
HUYỆN MANG YANG

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN : ĐÀO THỊ NHUNG
SINH VIÊN THỰC HIỆN

: NGUYỄN THỊ THÙY DUNG

LỚP

: K915LK2



MSSV

: 15152380107060

Kon Tum, Tháng 6 năm 2019


LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực tập tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Mang Yang, thực tế
công việc và đối chiếu với lý luận của trường em đã học hỏi được những kiến thức cần
thiết và rút ra được kinh nghiệm bổ ích phục vụ cho chuyên môn nghiệp vụ của mình.
Khoảng thời gian thực tập 3 tháng tại đây là quãng thời gian quan trọng, thiết thực và bổ
ích với em. Với sự giúp đỡ chỉ bảo tận tình của các cô chú anh chị trong cơ quan, trực
tiếp làm quen tiếp xúc với công việc đã giúp em học hỏi thêm nhiều kiến thức mới và
trau dồi những kiến thức đã học trên lớp, ngoài ra em còn học được về cách ứng xử, giao
tiếp tác phong đạo đức của công chức, giúp em tích luỹ kinh nghiệm và hoàn thiện bản
thân hơn.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô Trường Đại học Đà Nẵng phân
hiệu tại Kon Tum là những người luôn tâm huyết, đã nhiệt tình tận tâm chỉ bảo dạy dỗ,
truyền đạt tâm huyết, kiến thức.
Em xin gửi lời cảm ơn tới chú Nguyễn Hữu Tài - Thủ trưởng quan Chi cục Thi hành
án Dân sự Mang Yang, Nguyễn Tấn Tài – Phó Thủ trưởng Chi cục Thi hành án Dân sự
Mang Yang, đã tiếp nhận em vào thực tập. Em gửi lời cám ơn chân thành đến anh
Nguyễn Văn Thuấn là người trực tiếp hướng dẫn em trong quá trình học hỏi ở đây. Và
đồng thời em xin cảm ơn các anh, chị trong Chi cục huyện đã tạo điều kiện giúp đỡ em
hoàn thành tốt đợt thực tập này.
Mặc dù đã có cố gắng nỗ lực trong việc tiếp thu các kinh nghiệm công tác của các
cô chú anh chị và các kiến thức từ tài liệu, song bản thân em còn nhiều hạn chế, mới tiếp
xúc thực tế công việc sẽ không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Vì vậy trong bài báo

cáo của em chắc chắn sẽ không tránh khỏi những khuyết điểm. Em rất mong thầy. cô
xem xét góp ý để bài báo cáo của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn./.


MỤC LỤC


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT
01
02
03
04
05
06
07

Cụm từ viết tắt
CBCC
XMĐKTHA
CHV
THA
THADS
TA
TANDTC

Cụm từ viết đầy
Cán bộ công chức
Xác minh điều kiện thi hành án

Chấp hành viên
Thi hành án
Thi hành án Dân sự
Tòa Án
Tòa Án Nhân Dân Tối Cao

5


DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
STT
1
2
3
4

5

6
7
8

Tên bảng biểu, sơ đồ, biểu đồ
Bản đồ. Bản đồ hành chính huyện Mang Mang
Sơ đồ 1.1. Sơ đồ cơ cấu tổ chức Chi cục Thi hành án huyện Mang
Yang (Nguồn: Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Mang Yang)
Bảng 1.1. Số lượng nhân sự tại Chi cục Thi hành án huyện Mang
Yang (Nguồn: Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Mang Yang)
Bảng 1.2. Cơ cấu độ tuổi của cán bộ công chức tại Chi cục Thi hành
án huyện Mang Yang (Nguồn:Chi cục Thi hành án Dân sự huyện

Mang Yang)
Bảng 1.3. Trình độ và số lượng của đội ngũ cán bộ công chức Chi
cục Thi hành án huyện Mang Yang
(Nguồn: Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Mang Yang)
Bảng 1.4. Trang thiết bị làm việc
Bảng 2.1. Bảng thời hạn tiến hành xác minh điều kiện thi hành án
Sơ đồ 2.2. Sơ đồ trình tự, thủ tục xác minh điều kiện thi hành án

6

Trang
6
11
12
13

13

14
31
34


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án dân sự (THADS) có vai trò quan trọng trong hoạt động tư pháp nói
chung và quá trình giải quyết vụ án nói riêng. Bản án, quyết định của Tòa án chỉ thực sự
có giá trị khi được thi hành trên thực tế. Hoạt động THADS bảo đảm cho bản án, quyết
định của Tòa án được chấp hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá

nhân và lợi ích của Nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường
hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước. Chính vì vậy, tại Điều 106 Hiến pháp năm 2013
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quy định: "Các bản án và quyết định
của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những
người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh thi hành".1
Ngoài ra, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
VII (1995), Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII
(1997), Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 08/NQTW), Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX (2004)
và Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2020 (sau đây gọi tắt là Nghị quyết
số 48/NQ-TW), Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 49/NQ-TW) cũng
đã đề cao tầm quan trọng của hoạt động THADS. Với nhiệm vụ thể chế đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước vào hệ thống pháp luật, tại kỳ họp thứ 5, ngày 14 tháng 11
năm 2008, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật THADS.
Luật THADS là văn bản pháp lý cao nhất điều chỉnh hoạt động THADS, đã kế thừa,
phát triển và điển hóa được các quy định về THADS trước đó phù hợp, tiến bộ, đồng thời
tham khảo có chọn lọc các quy định của các nước về vấn đề này. Một trong những nội
dung mới của Luật THADS là quy định rõ ràng hơn về trình tự, thủ tục THADS, thời
hiệu yêu cầu thi hành án (THA), phí THA, vấn đề xác minh điều kiện thi hành án
(XMĐKTHA)... Tuy nhiên, sau một thời gian triển khai thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật THADS (được sửa đổi bổ sung năm 2014) cho thấy vẫncòn nhiều
vướng mắc, bất cập trong đó có vấn đề xác minh trong THADS nên cần tiếp tục nghiên
cứu giải quyết.
Bên cạnh đó, qua thời gian thực tập tại Chi cục thi hành án Dân sự huyện Mang
Yang tỉnh Gia Laivà qua nghiên cứu, tìm hiểu, có thể thấy việc xác minh điều kiện
THADS là khâu quan trọng và cốt yếu, quyết định đến hiệu quả hoạt động của công tác
Thi hành án Dân sự. Bởi giai đoạn xác minh điều kiện thi hành ánđược hoàn thành tốt thì

mới đảm bảo cho việc thi hành bản án, quyết định được kịp thời, đầy đủ và đúng pháp
luật.Từ những lí do trên, em đã lựa chọn đề tài: “Những quy định của pháp luật về vấn
đề xác minh trong thi hành án dân sự. Những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng tại
7


Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Mang Yang” để làm báo cáo thực tập trong thời
gian thực tập tại đơn vị.
Đề tài này nhằm mục đích trình bày những vấn đề cốt lõi của quá trình xác mimh
điều kiện thi hành án Dân sự, thực trạng của hoạt động từ đó tìm ra các phương hướng
hoàn thiện quy định pháp luật Dân sự góp phần giải quyết những vướng mắc, bất cập
trong việc XMĐKTHA của cơ quan tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Mang Yang,
tỉnh Gia Lai.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất: Mục tiêu nghiên cứu của Báo cáo thực tập này chính là làm rõ một số vấn
đề lý luận cơ bản về XMĐKTHA; đánh giá đúng thực trạng các quy định của pháp luật
về XMĐKTHA và thực tiễn thực hiện công tác xác minh, để từ đó tìm ra các giải pháp
góp phần giải quyết những vướng mắc, bất cập trong việc XMĐKTHA để nâng cao hiệu
quả, hiệu lực trong công tác THADS.
Thứ hai: Để đạt được mục đích đó, nhiệm vụ nghiên cứu của bài báo cáo này được
xác định trên những khía cạnh sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về XMĐKTHA như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, cơ
sở của việc quy định pháp luật về XMĐKTHA;
- Phân tích, đánh giá thực tiễn việc áp dụng những quy định của pháp luật THADS về xác
minh trong THADS tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Mang Yang để thấy được những
mặt tích cực, mặt hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện các quy định này qua tình
huống cụ thể.
Thứ ba: Làm rõ những khó khăn trong công tác xác minh điều kiện thi hành án dân
sự để từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật
THADS về XMĐKTHA nhất là tại Chi cục thi hành án Dân sự huyện Mang Yang tỉnh

Gia Lai.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu đề tài là những vấn đề lý luận về XMĐKTHA, các quy định
của pháp luật THADS về XMĐKTHA và thực tiễn thực hiện các quy định này trong
THADS.
"Xác minh điều kiện thi hành án"bao gồm nhiều nội dungkhác nhau.Tuy vậy, trong
phạm vi của đề tài báo cáo này, việc nghiên cứu chỉ tập trung vào những vấn đề cơ bản
về XMĐKTHA như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, cơ sở của việc pháp luật quy định
XMĐKTH; nội dung các quy định của Luật THADS về XMĐKTHA và thực tiễn thực
hiện trong công tác THADS.
Phạm vi nội dung: Công tác xác minh điều kiện thi hành án Dân sự tại Chi cục Thi
hành án Dân sự huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai.
Phạm vi không gian: Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai.
Phạm vi thời gian: Từ năm 2018 đến 2019.

8


4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu được học viên tiến hành trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng của Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, những quan
điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước về cải cách hành chính, cải cách tư pháp và xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra, việc
nghiên cứu đề tài cũng được thực hiện bằng các phương pháp nghiên cứu khoa học pháp
lý truyền thống như phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp... Từ đó, rút ra những đánh
giá, kết luận và đề xuất các kiến nghị.
5. Kết cấu báo cáo
Ngoài phần mở đầu và kết luận thì đề tài báo cáo thực tập có 3 chương gồm:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về xác minh điều kiện thi hành án theo Luật thi
hình án dân sự năm 2008 được bổ sung, sửa đổi năm 2014

Chương 2. Quy định của pháp luật thi hành án Dân sự hiện hành về xác minh điều
kiện thi hành án Dân sự
Chương 3. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật Thi hành án Dân sự về
xác minh điều kiện thi hành án trên địa bàn huyện Mang Yang

9


NỘI DUNG CHÍNH
PHẦN 1.GIỚI THIỆU VỀ CƠ QUAN THỰC TẬP
1. Khái quát về huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai
1.1. Điều kiện tự nhiên
Mang Yang là huyện ở trung tâm tỉnh Gia
Lai. Huyện được thành lập theo Nghị định số
37/2000/NĐ-CP ngày 21-8-2000 của Chính
phủ trên cơ sở phần đất của huyện Mang Yang
cũ được tách ra thành hai huyện Đăk Đoa và
Mang Yang mới. Huyện lỵ của Mang Yang mới
là thị trấn Kon Dỡng nằm trên quốc lộ 19
(Pleiku-QuyNhơn). Huyện Mang Yang có diện
tích 1126,77 km2. Huyện Mang Yang nằm về
HÌNH 1. B ẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH
HUYỆN MANG YANG
phía Bắc của tỉnh Gia Lai, phía Bắc giáp huyện
Kbang, phía Nam giáp với huyện Chư Sê, phía
Đông giáp huyện Đăk Đoa, phía Tây giáp huyện Đăk Pơ và Kông Chro. Trong huyện có
12 đơn vị hành chính cấp xã, thị trấn gồm thị trấn Kon Dỡng và 11 xã: Ðăk Ya, Ðê Ar, Lơ
Pang, Ðăk Trôi, Kon Thụp, Kon Chiêng, Ðăk Djrăng, A Yun, Hra, Ðăk Jơ Ta, Ðăk Ta
Ley. Mang Yang trong tiếng Gia Rai nghĩa là cổng trời. Tên huyện được đặt theo tên một
con đèo nổi tiếng, đèoMang Yang, trên quốc lộ 19 thuộc địa phận của huyện.Trên địa bàn

huyện Mang Yang có một số danh thắng như đèo Mang Yang, thác Ðăk Trôi, v.v... Vườn
quốc gia Kon Ka Kinh có một phần nằm trên địa bàn của Mang Yang. Mang Yang do bị
ảnh hưởng của khu vực nhiệt đới gió mùa cao nguyên nên có 2 mùa rõ rệt: mùa mưa từ
tháng 5 đến tháng 10 và mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Lượng mưa trung
bình hàng năm là 2.213mm, tập trung vào các tháng 7, 8, 9. Số ngày mưa trung bình
trong năm là 154 ngày, nhiệt độ trung bình là 21,6 độ; độ ẩm trung bình là 82%. Mang
Yang có hệ thống sông suối mật độ tương đối dày, phân bổ đều trên khắp địa bàn.
1.2. Tổng quan kinh tế - văn hoá – xã hội
Trong giai đoạn từ năm 2010-2015, lĩnh vực kinh tế - xã hội của huyện phát triển ổn
định, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Công tác định canh định cư, phát
triển sản xuất, xóa đói giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số, an sinh xã hội được
chú trọng, tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 5,3% mỗi năm, thu nhập bình quân đầu người
đạt 7,5 triệu đồng/năm. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trên 14,7%, trong đó,
nông - lâm nghiệp tăng 8,44%, công nghiệp - xây dựng có tốc độ tăng cao nhất, bình
quân tăng 28%, dịch vụ - thương mại tăng 21,4%.Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng
hướng. Hoạt động tài chính, tín dụng có nhiều tiến bộ. Tổng vốn đầu tư phát triển trong 5
năm qua đạt 140 tỷ đồng với 213 dự án tập trung các lĩnh vực như: Giao thông, thủy lợi,
điện, nước, chợ, bến xe, trường học, y tế, các thiết chế văn hóa…
10


Đến nay, 9/12 xã, thị trấn có đường nhựa đến trung tâm xã; tỷ lệ hộ dùng điện đạt
99%, dùng nước hợp vệ sinh 91,4%; 100% thôn, làng định canh định cư ổn định. Thu
ngân sách nhà nước bình quân hàng năm tăng 13,2%. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 43,49%
năm 2010 xuống còn 14,91% năm 2005. Các chương trình mục tiêu quốc gia, Chương
trình 134, 135, 167, 168 của Chính phủ được chú trọng và lồng ghép với một số dự án
khác tổ chức thực hiện đạt kết quả tích cực, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội,
làm thay đổi đáng kể bộ mặt nông thôn, nhất là vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào
dân tộc thiểu số.
Tuy đạt được một số kết quả đáng ghi nhận, song kinh tế - xã hội của Mang Yang

còn gặp nhiều khó khăn, thách thức. Trước hết, huyện có xuất phát điểm về kinh tế thấp,
xa các trung tâm kinh tế lớn của tỉnh, trình độ dân trí thấp, tập quán sản xuất có nơi còn
lạc hậu, đời sống đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa đặc biệt khó khăn.
Nguồn vốn tỉnh hỗ trợ chưa đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển. Tiềm năng đầu tư lớn
nhưng chưa được khai thác; sông suối, rừng, khoáng sản, du lịch sinh thái vẫn còn đó
nhưng cơ sở hạ tầng còn hạn chế nên các nhà đầu tư chưa mặn mà.
Trong 3 năm(2015 - 2018), mục tiêu của huyện là khai thác có hiệu quả các nguồn
lực, phát triển kinh tế - xã hội với tốc độ nhanh gắn với giảm nghèo bền vững, thu hẹp
khoảng cách giữa các vùng. Một số phương hướng và giải pháp chủ yếu:
- Huy động mọi nguồn lực và tăng cường đầu tư ngân sách nhà nước cho việc đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ. Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng, chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, từng
bước nâng cao chất lượng cán bộ cơ sở. Tạo điều kiện thu hút cán bộ có trình độ cao,
sinh viên tốt nghiệp đại học về công tác tại địa phương.
- Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu theo hướng tích cực, trong đó nông nghiệp vẫn là
ngành kinh tế trọng yếu của huyện, là nhân tố thúc đẩy các ngành kinh tế phát triển. Gắn
kết phát triển nông nghiệp với thị trường tiêu thụ và phát triển công nghiệp chế biến,
thương mại dịch vụ, mở rộng ngành nghề ở nông thôn, giải quyết việc làm, nâng cao thu
nhập cho nhân dân, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số… Huyện
phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm từ 15% trở lên.
Nhìn mặt bằng chung thì huyện có xuất phát điểm về kinh tế thấp, xa các trung tâm
kinh tế lớn của tỉnh, trình độ dân trí thấp, tập quán sản xuất có nơi còn lạc hậu, đời sống
đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa đặc biệt khó khăn.
2. Giới thiệu chung về Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Mang Yang
2.1. Khái quát về sự hình thành và pháttriển của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện
Mang Yang
Tên cơ quan: Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai
Địa chỉ: Thị trấn Kon Dơng - huyện Mang Yang – tỉnh Gia Lai
Điện thoại: 0914168256
Email:
Ngày 18 tháng 12 năm 1980, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của thời kỳ hoà bình, đánh dấu một dấu mốc lịch sử
quan trọng khi đất nước ta chuyển mình sang một giai đoạn mới: Thời kỳ quá độ lên chủ
11


nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước. Hiến pháp năm 1980 lần đầu tiên đã ghi nhận thành
nguyên tắc hiến định về giá trị thi hành của các bản án, quyết định: Các bản án và quyết
định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, các
tổ chức xã hội và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm
túc chấp hành (Điều 137). Đây chính là những cơ sở pháp lý quan trọng giúp các cơ quan
Thi hành án dân sự có những chuyển biến quan trọng trong lịch sử phát triển của mình
trong giai đoạn 1981-1989.
Ngày 18 tháng 7 năm 1982, Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân Tối cao đã ký Thông tư
liên ngành số 472 về công tác quản lý thi hành án trong thời kỳ trước mắt, trong đó quy
định: Tại các Toà án nhân dân cấp tỉnh có Phòng Thi hành án nằm trong cơ cấu bộ máy và
biên chế của Toà án giúp Chánh án chỉ đạo công tác thi hành án; tại các Toà án cấp huyện
có Chấp hành viên hoặc cán bộ làm công tác thi hành án dưới sự chỉ đạo của Chánh án.
Ngày 28 tháng 8 năm 1989, Pháp lệnh Thi hành án dân sự đầu tiên được ban hành,
tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tăng cường, hoàn thiện tổ chức và hoạt động thi hành
án dân sự. Trên cơ sở đó, Quy chế Chấp hành viên đã được ban hành kèm theo Nghị định
số 68/HĐBT ngày 06 tháng 3 năm 1990 của Hội đồng Bộ trưởng. Theo quy định của Pháp
lệnh Thi hành án dân sự năm 1989 và Quy chế Chấp hành viên thì chỉ có Chấp hành viên
là người được nhà nước giao trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định của Tòa án (trước
đây việc thi hành án ngoài Chấp hành viên còn có thể do cán bộ thi hành án thực hiện). Bộ
trưởng Bộ Tư pháp quy định số lượng biên chế Chấp hành viên, cán bộ thi hành án cho
từng Tòa án địa phương. Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Chấp hành viên do Bộ trưởng Bộ Tư
pháp quyết định theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân địa phương. Chấp hành viên
được bổ nhiệm ở các Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án nhân dân cấp huyện.
Trên tinh thần đó Phòng thi hành án tỉnh Gia Lai được thành lập và huyện Mang
Yang có 03 chấp hành viên làm công tác thi hành án dân sự thuộc chỉ đạo của Chánh án

Tòa án nhân dân huyện Mang Yang
Ngày 02/6/1993 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 266-TTg về việc triển
khai việc bàn giao và tăng cường công tác thi hành án dân sự; liên ngành giữa Bộ Tư pháp,
Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Ban Tổ chức - cán bộ Chính phủ,
Bộ Tài chính và Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã ban hành Thông tư liên ngành số 01TTLN ngày 26/5/1993 hướng dẫn việc bàn giao công tác thi hành án dân sự.
Ngày 14/01/2004, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh Thi hành án dân
sự năm 2004 với nhiều đổi mới quan trọng về thi hành án dân sự, trong đó có cả đổi mới về
tổ chức, cán bộ các cơ quan thi hành án dân sự và trình tự, thủ tục thi hành án dân sự.
Để tiếp tục củng cố và hoàn thiện về tổ chức, bộ máy và cơ sở pháp lý, tạo điều kiện thúc
đẩy công tác thi hành án dân sự ngày càng hiệu quả, ngày 14/11/2008, Quốc hội khoá XII
đã thông qua Luật Thi hành án dân sự năm 2008, văn bản có giá trị pháp lý cao nhất từ
trước tới nay.Tiếp theođó,ngày 09/09/2009, Chính phủ ban hành Nghị định
số74/2009/NĐCP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành
án dân sự về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan Thi hành án dân sự và công chức
làm công tác thi hành án dân sự. Theo đó, Hệ thống các cơ quan thi hành án dân sự được
12


xác định rõ hơn theo nguyên tắc quản lý tập trung, thống nhất theo ngành dọc từ Trung
ương đến cấp huyện, với một vị thế mới, tương xứng với nhiệm vụ chính trị được giao và
phù hợp với yêu cầu của cải cách tư pháp.
Ngày 25 tháng 5 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 17/CT-TTg
về việc triển khai công tác thi hành hành chính, trong đó giao Bộ Tư pháp Bộ Tư pháp chủ
trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan: Sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, biên chế
công chức, tăng cường cơ sở vật chất cho các cơ quan thi hành án dân sự bảo đảm triển
khai thực hiện có hiệu quả công tác thi hành án hành chính.
Để tiếp tục hoàn thiện thể chế về thi hành án dân sự, ngày 25 tháng 11 năm 2014 tại
Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án
dân sự, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2015, ngày 20 tháng 7 năm 2015,
Chính phủ ban hành Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định chi tiết hướng dẫn thi hành

Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự, các văn bản này đã tạo
hành lang pháp lý vững chắc cho công tác thi hành án dân sự, góp phần nâng cao hiệu quả
công tác thi hành án dân sự trong thời gian tới.
Hiện tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Mang Yang cũng đã được thành lập
trên tinh thần của Nghị định số 74/2009/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật Thi hành án dân sự về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan
Thi hành án dân sự và công chức làm công tác thi hành án dân sự phát triển từ đó đến nay.
2.2. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức biên chế của Chi cục
Thi hành án Dân sự huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai
2.2.1. Vị trí chức năng
Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mang Yang là cơ quan thi hành án dân sự huyện
trực thuộc Cục Thi hành án dân sự tỉnh Gia Lai. Chi cục Thi hành án dân sự huyện thực
hiện chức năng thi hành án dân sự và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy
định của pháp luật.
Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Mang Yang là cơ quan trực thuộc Bộ tư pháp,
thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước về công
tác thi hành án dân sự và thi hành án hành chính trong phạm vi cả nước; thực hiện
quản lý chuyên ngành về thi hành án dân sự và thi hành án hành chính theo quy định của
pháp luật
Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Mang Yang có tư cách pháp nhân, con dấu có
hình Quốc huy, tài khoản riêng tại Kho bạc Nhà nước. Trụ sở của Chi cục Thi hành án
Dân sự huyện Mang Yang đặt tại Trung tâm hành chính của Ủy ban nhân dân huyện tại
Thị trấn Kong Dỡng, huyện Mang Yang.
2.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạncủa Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Mang Yang,
tỉnh Gia Lai
Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Mang Yang có những nhiệm vụ và quyền hạn sau:
- Trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết định theo quy định của pháp luật
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự thuộc thẩm quyền theo quy định
của pháp luật.
13



- Thực hiện quản lý công chức, cơ sở vật chất, kinh phí và phương tiện hoạt động
được giao theo hướng dẫn, chỉ đạo của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh.
- Thực hiện chế độ thống kê, báo cáo công tác tổ chức, hoạt động thi hành án theo
quy định của pháp luật và hướng dẫn của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh.
- Lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án dân sự.
- Giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định
pháp luật
- Báo cáo công tác thi hành án dân sự trước Hội đồng nhân dân khi có yêu cầu.
2.2.3. Cơ cấu tổ chức, biên chế của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Mang Yang,
tỉnh Gia Lai
a)Cơ cấu tổ chức
Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mang Yang hiện có 07 cán bộ, công chức và 03
nhân viên hợp đồng theo Nghị định 68 (02 bảo vệ; 01 tạp vụ). Trong đócó 01 Chi cục
trưởng đồng thời là Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, 01 Phó Chi cục trưởng đồng
thời là Phó Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, 01 Chấp hành viên sơ cấp, 01 Thư ký,
01 Thẩm tra viên thi hành án, 01 kế toán trưởng, 01 văn thư.
Về trình độ chuyên môn có 06 cán bộ, công chức có bằng đại học, 01 công chức có
bằng trung cấp.
Lý luận chính trị có 01 đồng chí có trình độ Cao cấp lý luận chính trị; 02 dồng chí
có trình độ trung cấp lý luận chính trị.
Bồi dưỡng nghiệp vụ có 05 đồng chí đã qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ thi hành án.
Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự huyện phụ trách và theo dõi một số mặt
công tác, chịu trách nhiệm trước Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh và trước pháp
luật về toàn bộ hoạt động của Chi cục Thi hành án dân sự huyện. Phó Chi cục trưởng Chi
cục Thi hành án dân sự huyện chịu trách nhiệm trước Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án
dân sự huyện và trước pháp luật về lĩnh vực công tác được phân công phụ trách. Khi Chi
cục trưởng vắng mặt Phó Chi cục trưởng ủy nhiệm điều hành điều hành các hoạt động
của cơ quan.

Về việc bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, điều động, biệt phái, đánh giá, khen thưởng, kỷ
luật, miễn nhiệm, cho từ chức và thực hiện chế độ, chính sách khác đối với Chi cục
trưởng, Phó Chi cục trưởng do Cục trưởng Thi ành án Dân sự Tỉnh quyết định theo quy
định.
Chuyên viên theo dõi công tác cơ sở thì có nhiệm vụ tiếp nhận, xử lý các hồ sơ,
công văn và các văn bản chỉ đạo về công tác xây dựng.
b)Biên chế
Biên chế công chức của Chi cục Thi hành án dân sự huyện do Chi cục trưởng Chi
cục Thi hành án dân sự quyết định trong tổng biên chế công chức của huyện đã được cấp
14


có thầm quyền phê duyệt.Việc bố trí công tác đối với công chức của Chi cục trưởng Chi
cục Thi hành án dân sự phải căn cứ vào vị trí việc làm, tiêu chuẩn ngạch công chức và
phẩm chất, trình độ, năng lực của công chức.

15


Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mang Yang:

Chi cục trưởng
Phó Chi cục trưởng

Chấp hành viên

Thẩm tra viên

Kế toán
trưởng


Thư ký

Thủquỹ

(Nguồn: Phòng Chi cục thi hành án Dân sự huyện Mang Yang)
2.3. Vị trí, chức năng nhiệm phòng của người đứng đầu, đơn vị bộ phận của Chi cục
Thi hành án Dân sự huyện Mang Yang
2.3.1. Ban lãnh đạo
Ông Nguyễn Hữu Tài – Thủ trưởng cơ quan: Phụ trách việc điều động, hướng
dẫn nghiệp vụ, chỉ đạo, kiểm tra công tác thi hành án đối với Chấp hành viên, công chức
khác thực hiện công tác chuyên môn, nghiệp vụ và những việc khác theo hướng dẫn, chỉ
đạo của cơ quan quản lý thi hành án dân sự cấp tỉnh thuộc Bộ Tư pháp.
Ông Nguyễn Tấn Tài – Phó Thủ trưởng: Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo sự
phân công hoặc ủy quyền của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự và chịu trách nhiệm
trong phạm vi công việc được giao.
2.3.2. Cán bộ công chức
Ông Tô Đình Huấn – Thẩm tra viên: Có những nhiệm vụ sau:
- Thực hiện các nhiệm vụ khác do Thủ trưởng cơ quan giao và tham mưu cho Thủ
trưởng cơ quan trả lời kháng nghị, kiến nghị của Viện Kiểm sát nhân dân theo thẩm
quyền.
- Thực hiện việc thẩm tra, kiểm tra những vụ việc thi hành án đã và đang thi hành;
thẩm tra xác minh các vụ việc có đơn thư khiếu nại, tố cáo theo sự chỉ đạo của Thủ
trưởng cơ quan quản lý thi hành án dân sự và cơ quan thi hành án dân sự; thẩm tra thống
kê, báo cáo, dữ liệu thi hành án dân sự và những hồ sơ, tài liệu khác có liên quan đến
công tác thi hành án dân sự.

16



- Lập kế hoạch, tổ chức thực hiện hoặc phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên
quan để xác minh, kiểm tra và đề xuất biện pháp giải quyết theo nhiệm vụ được phân
công.
Ông Bùi Quang Vinh- Chấp hành viên:
-Tham mưu cho Thủ trưởng cơ quan trong việc tổ chức thi hành vụ việc được phân
công; ra các quyết định về thi hành án.
- Triệu tập đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để giải quyết việc thi
hành án.
- Xác minh tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; yêu cầu cơ
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu để xác minh địa chỉ, tài sản của
người phải thi hành án hoặc phối hợp với cơ quan có liên quan xử lý vật chứng.
- Quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành
án; lập kế hoạch cưỡng chế thi hành án; thu giữ tài sản thi hành án.
- Lập biên bản về hành vi vi phạm pháp luật về thi hành án; xử phạt vi phạm hành
chính theo thẩm quyền; kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm
hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người vi phạm.
- Quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế để thu hồi tiền, tài sản đã chi trả cho
đương sự không đúng quy định của pháp luật, thu phí thi hành án và các khoản phải nộp
khác.
Ông Nguyễn Văn Thuấn – Thư ký: Tham mưu giúp Chấp hành viên thực hiện các
trình tự, thủ tục trong công tác thi hành án dân sự, thi hành án hành chính hoặc giúp
Thẩm tra viên cao cấp, Thẩm tra viên chính thực hiện nhiệm vụ thẩm tra những vụ việc
đã và đang thi hành án, thẩm tra, xác minh các vụ việc có đơn thư khiếu nại, tố cáo về thi
hành án dân sự theo quy định của pháp luật.
Bà Nguyễn Thúy Hằng: Tham mưu cho lãnh đạo cơ quan theo dõi các lĩnh vực:
Thi đua – khen thưởng; thực hiện công tác văn thư – lưu trữ.
Bà Nguyễn Thị Phúc: Tham mưu cho lãnh đạo phòng theo dõi các lĩnh vực: Tổ
chức bộ máy; vị trí việc làm; biên chế công chức và cơ cấu ngạch công chức trong các cơ
quan, tổ chức hành chính nhà nước; vị trí việc làm, cơ cấu cán bộ theo chức danh nghề
nghiệp và số lượng người làm việc trong đơn vị; tiền lương đối với cán bộ, công chức lao

động hợp đồng trong cơ quan.
2.4.Thống kê số lượng, chất lượng biên chế cơ quan
2.4.1. Số lượng nhân sự
STT Chỉ tiêu
Số lượng
1
Cán bộ
2
2
Công chức
5
Bảng 1.1. Số lượng nhân sự tại Chi cục Thi hành án huyện Mang Yang(Nguồn: Chi
cục Thi hành án Dân sự huyện Mang Yang)

17


2.4.2. Chất lượng nhân sự
Độ tuổi
Số lượng
Tỉ lệ (%)
2
20
Bảng 1.2. Cơ Trên 50
cấu độ tuổi
Từ
31
đến
40
5

80
của CBCC tại
Chi cục Thi
hành án huyện Mang Yang (Nguồn: Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Mang Yang)
Thông qua bảng số liệu cho thấy, nguồn công chức của Chi cục Thi hành án Dân sự
huyện Mang Yang có tuổi đời trẻ chiếm phần lớn. Dưới 40 tuổi chiếm đến 80 %. Đây là
nguôn nhân lực trẻ và giàu năng động, sáng tạo và thích ứng được môi trường công việc.
Bên cạnh đó, đội ngũ CBCC lớn tuổi cũng là nguồn kinh nghiệm dày dặn cho các thế hệ
đi sau học hỏi.
Stt Trình độ
Số lượng
Tỉ lệ (%)
Sơ cấp
0
0
Trung cấp
2
20
01 Chuyên môn
Cao đẳng
0
0
Đại học
6
80
Chưa qua đào tạo
0
0
Sơ cấp
4

73
02 Lý luận chính trị
Trung cấp
2
18
Cao cấp
1
9
Trung cấp trở lên
1
9
03 Tin học
Chứng chỉ
6
91
Đại học trở lên
0
0
04 Ngoại ngữ
Chứng chỉ (A, B, B1)
7
100
Bảng 1.3. Trình độ và số lượng của đội ngũ CBCC
Thông qua bảng thống kê trình độ của Cán bộ, công chức tại phòng cho thấy chất
lượng nhân sự tương đối cao. Trình độ chuyên môn, lý luận chính trị và quản lý nhà nước
được trang bị khá đồng đều. Bên cạnh đó, trình độ ngoại ngữ và tin học được trang bị đầy
đủ phục vụ cho quá trình thực thi nghiệp vụ.
2.5. Cơ sở vật chất, tài chính của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Mang Yang
- Chi cục THADS huyện Mang Yang có 01 Trụ sở làm việc tại đường Trường
Chinh, thị trấn Kon Dơng, huyện Mang Yang, Tỉnh Gia Lai

- Hiện Chi cục THADS chưa được cấp xe, trụ sở xuống cấp do đã được xây lâu
năm(xây từ năm 2001)
- Nguồn tài chính để đảm bảo hoạt động được chi từ nguồn ngân sách và được cấp
theo dự toán ngân sách hàng năm.
Số
Số
Stt
Tên thiết bị
Stt
Tên thiết bị
lượng
lượng
1.

Mạng nội bộ ( LAN)

2

6.

2.

Máy tính (PC)

10

7.

3.


Máy tính xách tay

2

8.

4.

Máy in

4

9.
18

Máy Scan
Máy điện thoại cố
định
Tủ đựng hồ sơ, tài
liệu
Bàn

1
2
6
12


5.


Máy photocopy
2
10.
Ghế
Bảng 1.4. Trang thiết bị làm việc

19

25


PHẦN 2. ĐỀ TÀI BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Tên đề tài: PHÁP LUẬT VỀ XÁC MINH TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ HUYỆN
MANG YANG.
CHƯƠNG 1:
NHỮNGVẤNĐỀLÝLUẬNVỀXÁCMINHĐIỀUKIỆNTHIHÀNHÁNTHEO
LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ NĂM 2008 ĐƯỢC BỔ SUNG, SỬA ĐỔI
NĂM 2014
1.1. Khái niệm xác minh điều kiện thi hành án dân sự
Thi hành án dân sự xuất phát và gắn liền với hoạt động xét xử của TA. Tuy nhiên,
còn có nhiều quan điểm khác nhau về THADS. Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, THADS là
một dạng của hoạt động hành chính, bởi THADS là hoạt động mang tính điều hành và
chấp hành, đây là đặc điểm đặc trưng của hoạt động hành chính. Loại ý kiến thứ hai lại
cho rằng, THADS là một dạng của hoạt động hành chính - tư pháp vì THADS là hoạt
động mang tính điều hành và chấp hành quyết định của TA. Hơn nữa, trong quá trình
THADS còn tiến hành các hoạt động mang tính hành chính như chứng thực bản sao giấy
tờ, ủy quyền THADS… Hoạt động xét xử và thi hành án là hai giai đoạn kế tiếp nhau,
không cắt khúc và gián đoạn, do đó, luôn luôn có sự gắn kết, liên thông giữa Tòa án đã ra
bản án, quyết định đó bằng việc giao cho Tòa án ra quyết định THA; cơ quan THA tổ
chức thi hành theo quyết định THA của Tòa án. Loại ý kiến thứ ba cho rằng, THADS là

một dạng của hoạt động tư pháp vì THADS gắn liền với hoạt động xét xử và do cơ quan
tư pháp có thẩm quyền tổ chức thực hiện. 1 Do vậy, việc xác định bản chất của THADS
vẫn là vấn đề còn nhiều tranh luận cả từ góc độ lý luận và thực tiễn.
Theo Từ điển Từ và ngữ Việt Nam do Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh xuất
bản năm 1998 thì "xác minh" được hiểu là làm cho rõ với chứng cứ cụ thể, còn theo Đại
Từ điển Tiếng Việt do Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin xuất bản năm 1998 thì "xác
minh" được hiểu là làm rõ thực chất sự việc với những chứng cứ cụ thể. Như vậy, có thể
hiểu "xác minh" là việc đi tìm các chứng cứ, tài liệu để tìm hiểu, làm rõ một hoặc nhiều
vấn đề nào đó. Xác minh được tiến hành bởi chủ thể nhất định, tùy theo mục đích và yêu
cầu của vấn đề cần được xác minh mà chủ thể tiến hành xác minh là chủ thể nào. Cũng
theo Từ điển Từ và ngữ Việt Nam thì "điều kiện" là điều cần thiết phải có để đạt được
mục đích còn theo Đại Từ điển Tiếng Việt thì "điều kiện" là điều cần phải có để có thể
thực hiện được, đạt được mục đích .
Trong pháp luật Việt Nam, cho đến nay vẫn chưa có điều luật nào định nghĩa về "có
điều kiện thi hành án" và "xác minh điều kiện thi hành án". Trong các công trình nghiên
cứu khoa học pháp lý về THA đã được công bố cũng chỉ đề cập đến những vấn đề thuộc

1 />%C3%AAn%29+%282010%29%2C+Gi%C3%A1o+tr%C3%ACnh+Lu%E1%BA%ADt+t%E1%BB%91+t%E1%BB%A5ng+d
%C3%A2n+s%E1%BB%B1+Vi%E1%BB%87t+Nam%2C+Nxb+C%C3%B4ng+an+nh%C3%A2n+d%C3%A2n%2C+H
%C3%A0
20


về chủ thể, nội dung và một vài thủ tục của XMĐKTHA mà chưa đưa ra định nghĩa, khái
niệm về "có điều kiện thi hành án" và "xác minh điều kiện thi hành án".
Xác minh điều kiện thi hành án dân sự là hoạt động trung tâm, quan trọng nhất
trong quá trình tổ chức thi hành án dân sự. Kết quả xác minh là cơ sở để Chấp hành viên
(CHV) thuyết phục đương sự tự nguyện, thỏa thuận thi hành án, là cơ sở để Thủ trưởng
cơ quan thi hành án ra các quyết định ủy thác, hoãn, đình chỉ thi hành án hay lựa chọn
biện pháp cưỡng chế thi hành án thích hợp. Có thể nói, xác minh điều kiện thi hành

án chính là căn cứ làm phát sinh hàng loạt các tác nghiệp khác trong quá trình tổ chức thi
hành các bản án, quyết định, đòi hỏi CHV cần thiết phải nắm vững cơ sở pháp lý của việc
xác minh, kỹ năng xác minh và xử lý kết quả xác minh phù hợp với quy định của pháp
luật về thi hành án dân sự.2
Tuy nhiên, trong quá trình công tác thi hành án dân sự có thể đúc kết khái niệm như
sau: "Xác minh điều kiện thi hành án dân sự là việc chấp hành viên thu thập thông tin,
tiếp cận, xác định đối tượng mục tiêu cần phải thi hành (tài sản, thu nhập của người
phải thi hành án, vật, giấy tờ, nhà phải trả…) và các thông tin khác phục vụ cho quá
trình tổ chức thi hành án như: nhân thân, hoàn cảnh gia đình của người phải thi hành
án…".
1.2. Đặc điểm của xác minh điều kiện thi hành án
Với tính chất là một thủ tục rất quan trọng, quyết định đến kết quả, thành công của
các hoạt động tiếp theo của toàn bộ quy trình, thủ tục THA, XMĐKTHA có đặc điểm cơ
bản sau đây:
Thứ nhất, việc XMĐKTHA được thực hiện tại nhiều thời điểm, nhiềuđịa điểm khác
nhau trong quá trình THA.Việc XMĐKTHA được thực hiện tại nhiều thời điểm khác
nhau trong quá trình THA. Chẳng hạn, trong trường hợp người được THA tự
XMĐKTHA của người phải THA thì việc xác minh được tiến hành trước khi người được
THA nộp đơn yêu cầu THA. Trường hợp THA chủ động hoặc xác minh theo yêu cầu của
đương sự thì việc XMĐKTHA được thực hiện ngay tại thời điểm ra quyết định THA.
Trường hợp sau khi người được THA tiến hành XMĐKTHA của người phải THA và nộp
đơn yêu cầu THA mà Chấp hành viên không đồng ý với kết quả xác minh này thì Chấp
hành viên sẽ tiến hành XMĐKTHA lại. Trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời thì việc XMĐKTHA được thực hiện trước, trong và sau khi áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Việc XMĐKTHA cũng được thực hiện tại nhiều địa điểm khác nhau tùy thuộc vào
đối tượng xác minh. Chẳng hạn, khi xác minh hiện trạng nhà đất thì địa điểm tiến hành
xác minh là tại nơi có nhà đất, khi xác minh chủ sở hữu phương tiện giao thông thì địa
điểm tiến hành xác minh là tại Phòng cảnh sát giao thông; khi xác minh về tiền, tài khoản
thì địa điểm xác minh là tại Ngân hàng, các tổ chức tín dụng…

Thứ hai, việc XMĐKTHA có thể do người đượcTHA,Chấp hànhviên hoặc Thừa
phát lại thực hiện.Nghĩa vụ làm rõ điều kiện THA của người phải THADS trước hết là
của người được THA vì họ là một trong những người đưa ra yêu cầu THADS. Tuy vậy,
2 />21


trong những trường hợp cơ quan THADS chủ động THA hay trong những trường hợp
người được THA không thể XMĐKTHA của người phải THA được thì cơ quan THADS
phải tiến hành xác minh THA. Ngoài ra, các Văn phòng Thừa phát lại cũng được tổ chức
THA khi đương sự yêu cầu. Vì vậy, tương ứng với ba trường hợp này là ba chủ thể thực
hiện việc XMĐKTHA, cụ thể là:
- Người được THA thực hiện việc XMĐKTHA của người phải THA trong trường
hợp THA theo đơn yêu cầu. Người được THA có thể tự mình hoặc ủy quyền cho người
khác XMĐKTHA.
- Chấp hành viên thực hiện việc XMĐKTHA trong trường hợp chủ động ra quyết
định THA hoặc theo yêu cầu của người được THA sau khi họ đã áp dụng các biện pháp
cần thiết mà không thể tự mình xác minh được điều kiện THA của người phải THA hoặc
khi không đồng ý với kết quả xác minh của người được THA.
Thứ ba, nội dung XMĐKTHA chủ yếu là làm rõ thông tin về thunhập, tài sản của
người phải THA.Phần lớn nghĩa vụ THADS là nghĩa vụ về tài sản. Vì vậy, trừ những
trường hợp đặc biệt cần xác minh về nhân thân, thái độ của người phải THADS để thi
hành nghĩa vụ bắt buộc thực hiện hoặc không thực hiện một công việc nhất định thì nội
dung chủ yếu của việc xác minh là làm rõ thông tin về thu nhập, tài sản của người phải
THA. Để tổ chức THADS thì phải làm rõ tài sản, thu nhập của người phải THADS có
những gì? Số lượng và chủng loại cụ thể? Tài sản của người phải THA do họ giữ hay do
người khác giữ? Tài sản vô hình hay tài sản hữu hình? Tài sản hiện có hay tài sản được
hình thành trong tương lai?…
Thứ tư, việc XMĐKTHA phải được thực hiện một cách đầy đủ, chínhxác theo đúng
trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định.Pháp luật THADS quy định cụ thể về trình tự, thủ
tục THADS nhằm đảm bảo hiệu quả THADS. XMĐKTHA là một khâu của quá trình

THADS.Vì vậy, việc XMĐKTHA phải được thực hiện một cách đầy đủ, chính xác theo
đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định từ chủ thể yêu cầu xác minh, thể thức văn
bản yêu cầu xác minh, chủ thể tiến hành xác minh, thời hạn thực hiện việc xác minh; nơi
thực hiện việc xác minh, biên bản xác minh… để tránh những trường hợp áp dụng một
cách tùy tiện.
1.3. Ý nghĩa của xác minh điều kiện thi hành án
Việc XMĐKTHA của người phải THA là cơ sở pháp lý để Chấp hành viên áp dụng
các biện pháp tiếp theo nhằm tổ chức THA như trả đơn yêu cầu THA, ủy thác, hoãn, tạm
đình chỉ, đình chỉ THA, áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế THA… Mặt
khác, việc XMĐKTHA còn là cơ sở để phân loại án, là căn cứ cho việc thống kê số án
tồn đọng. Vì vậy, việc XMĐKTHA có các ý nghĩa sau đây:
Thứ nhất, giúp cho việc phân loại án được chính xác, góp phần nângcao chất lượng
và hiệu quả công tác THA, giảm bớt áp lực đối với cơ quan THADS vì không mất nhiều
thời gian, công sức để giải quyết những việc THADS chưa có điều kiện thi hành.
Trong THADS thì án dân sự được phân làm hai loại là án dân sự có điều kiện thi
hành và án dân sự chưa có điều kiện thi hành. Căn cứ để phân loại án dân sự có điều kiện
thi hành và án dân sự chưa có điều kiện thi hành dựa trên điều kiện THADS. Vì vậy,
22


XMĐKTHA là thủ tục quan trọng, cần thiết để xác định xem việc THADS đó có điều
kiện thi hành hay chưa có điều kiện thi hành. Nếu XMĐKTHA được thực hiện đầy đủ và
đúng quy định của pháp luật thì việc phân loại việc THADS (có điều kiện thi hành và
chưa có điều kiện thi hành) sẽ chính xác, từ đó cơ quan THADS sẽ tập trung thời gian,
nhân lực, chi phí cho việc thi hành những việc THADS có điều kiện thi hành và không
phải mất thời gian, công sức vào những việc THADS chưa có điều kiện thi hành. Do đó,
việc XMĐKTHA có ý nghĩa quan trọng trong việc góp phần nâng cao chất lượng và hiệu
quả của công tác THADS, giảm án tồn đọng, giảm áp lực đối với cơ quan THADS.
Thứ hai, góp phần bảo đảm quyền của người đượcTHA.Trong các giao dịch dân sự,
các bên thực hiện trên nguyên tắc tự do, tự nguyện, cam kết, thỏa thuận và được pháp

luật bảo vệ. Tại Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: " Mọi cá nhân, pháp nhân đều
bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử; được pháp luật bảo hộ
như nhau về các quyền nhân thân và tài sản.Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm
dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận.
Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có
hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng."
Như vậy, pháp luật bảo vệ các giao dịch dân sự bằng cơ chế tài phán: Khi một trong
các bên không tôn trọng, không thực hiện các cam kết, thỏa thuận thì tranh chấp phát
sinh và các bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Do các giao dịch dân sự được xác
lập trên nguyên tắc tự nguyện, các bên tự thỏa thuận và tự giao kết giao dịch với nhau
nên để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp thì các bên có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ
và chứng minh cho yêu cầu của mình (khác với vụ án hình sự). Người được THA có
được THA hay không phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện THA của người phải THA. Do
vậy, việc quy định người được THA có nhiệm vụ XMĐKTHA của người phải THA cũng
là một hình thức để bảo đảm quyền, lợi ích của người được THA do họ có trách nhiệm
hơn trong việc chủ động tìm kiếm thông tin về tài sản và điều kiện THA của người phải
THA.
Thứ ba, XMĐKTHAcòngóp phần nâng cao ý thức của người dântrong việc
THA.Căn cứ vào kết quả XMĐKTHA, Chấp hành viên sẽ tiến hành các công việc tiếp
theo như áp dụng biện pháp bảo đảm THA, áp dụng biện pháp cưỡng chế THA… Nếu
người phải THA không tự nguyện thi hành bản án, quyết định của Tòa án thì sau khi
người được THA hoặc Chấp hành viên tiến hành XMĐKTHA thì họ sẽ có thể bị áp dụng
biện pháp bảo đảm THA, biện pháp cưỡng chế THA và họ chắc chắn phải chịu những chi
phí phát sinh không đáng có. Do vậy, việc quy định về XMĐKTHA góp phần nâng cao ý
thức của người dân nói chung và ý thức của người phải THA nói riêng trong việc thi
hành bản án, quyết định của Tòa án.
Tóm lại, việc XMĐKTHA có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, ảnh hưởngtrực tiếp đến
kết quả giải quyết việc THA vì việc xác minh này là căn cứ, cơ sở để CHV ra các quyết
định tác nghiệp của mình. Kết quả XMĐKTHA như là chứng cứ để chứng minh, bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của các bên trong vụ án dân sự. Vì vậy, để bảo đảm quyền, lợi

ích hợp pháp của mình thì người làm đơn yêu cầu THA phải chứng minh được người
23


phải THADS có điều kiện THA, làm cơ sở cho cơ quan THADS thụ lý hồ sơ và tổ chức
THA. Việc quy định XMĐKTHA có ý nghĩa lớn trong việc nâng cao ý thức của người
dân trong việc tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, tăng tính chủ động cho các
bên đương sự, đồng thời giảm sức ép đối với cơ quan THADS, giảm án tồn đọng và góp
phần nâng cao chất lượng hoạt động THADS.3
1.4. Cơ sở của việc pháp luật thi hành án dân sự quy định về xác minh điều kiện thi
hành án
1.4.1. Cơ sở lý luận của việc pháp luật thi hành án dân sự quy định về xác minh
điều kiện thi hành án
XMĐKTHA là một trong những hoạt động cơ bản của THADS. Việc pháp luật
THADS quy định về XMĐKTHA xuất phát từ những cơ sở lý luận sau đây:
Thứ nhất, từ yêu cầu bảo đảm hiệu lực các bản án, quyết định của Tòaán được thi
hành.Thi hành án là giai đoạn cuối cùng nhằm bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa
án được chấp hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà
nước. Với tầm quan trọng như vậy, THA có mục đích và nhiệm vụ làm cho các quyết
định của Tòa án trong các bản án, quyết định trở thành hiện thực trên thực tế. Tuy vậy,
điều này lại phụ thuộc rất nhiều vào khả năng thực tế người phải THA có tài sản, thu
nhập để THA hay không? Nói cách khác là người phải THA có điều kiện THA hay
không? Vì vậy, để tổ chức thi hành được các bản án, quyết định của Tòa án thì trước khi
tổ chức THA cần phải làm rõ người phải THA có điều kiện THA hay không, tức là phải
XMĐKTHA của người phải THA. Chính vì vậy, việc pháp luật THADS quy định
XMĐKTHA là để bảo đảm việc tổ chức thi hành có hiệu quả các bản án, quyết định của
Tòa án và bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật.
Thứ hai, từ yêu cầu xã hội hóa công tácTHA.Chủ trương xã hội hóa đã được đề cập
nhiều trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng. Nghị quyết số 24/2008/QH12 của Bộ

Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã xác định
cần xã hội hóa một số hoạt động tư pháp. Trong lĩnh vực THA, đặc biệt là THADS cần
phải tích cực xã hội hóa, bởi có xã hội hóa thì mới chia sẻ được gánh nặng công việc
THA cho Nhà nước, mới nâng cao được hiệu quả công tác THA. Hiện nay, một số công
việc về THA mà tư nhân có thể thực hiện được thì nên chuyển giao cho tư nhân thực hiện
như việc sao, gửi các bản án, quyết định của Tòa án; đôn đốc các bên tự nguyện THA;
xác minh tài sản, điều kiện THA của người phải THA… Đây là chủ trương vừa phù hợp
với truyền thống THADS của Việt Nam, vừa phù hợp với xu hướng phát triển của kinh
tế, xã hội. Do đó, Nghị quyết số 49/2005/NQ-TW của Bộ Chính trị đã khẳng định: "Từng
bước thực hiện việc xã hội hóa và quy định những hình thức, thủ tục để giao cho tổ chức
không phải là cơ quan nhà nước thực hiện một số công việc thi hành án". Bên cạnh đó,
Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ Chính trị cũng nêu: "Nghiên cứu chế định Thừa phát
lại (thừa hành viên); trước mắt, có thể tổ chức thí điểm tại một số địa phương, sau vài
năm, trên cơ sở tổng kết, đánh giá thực tiễn sẽ có bước đi tiếp theo".
3o/threads/xac-minh-dieu-kien-thi-hanh-an-dan-su.39576/
24


Mục đích của THADS là thực hiện các quyết định trong bản án, quyết định dân sự
được đưa ra thi hành nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ
chức và lợi ích của Nhà nước. Công tác THADS bao gồm nhiều công việc khác nhau,
nếu chỉ do cơ quan THADS thực hiện thì nhiều khi cơ quan này không thể thực hiện
được vì bị quá tải trong công việc và sẽ dẫn đến sự chây ỳ, chậm trễ trong THADS. Nếu
việc THADS chỉ do các cơ quan THADS thực hiện thì cũng không thể huy động được
các nguồn lực trong xã hội để tạo ra sức mạnh tổng hợp cho công tác tổ chức THADS.
Việc THADS chỉ do các cơ quan THADS thực hiện sẽ rất lớn và là một trong những
nguyên nhân gây bội chi ngân sách nhà nước. Hơn nữa, THADS trước hết là vì quyền,
lợi ích của các đương sự vì các đương sự là người được hưởng lợi ích trực tiếp từ việc
THADS cho nên nếu mọi việc về THADS đều do cơ quan THADS đảm nhiệm thực hiện
là chưa phù hợp. Vì vậy, việc xã hội hóa một số nội dung hoạt động trong THADS sẽ

mang nhiều ý nghĩa quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của THADS.
Như vậy, qua phân tích trên cho thấy, việc pháp luật THADS quy định XMĐKTHA
là dựa trên cơ sở yêu cầu của việc bảo đảm hiệu lực các bản án, quyết định của Tòa án
được thi hành và thực hiện chủ trương xã hội hóa công tác THA mà Đảng và Nhà nước
đã đề ra, đã được đề cập trong nhiều văn kiện của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
1.4.2. Cơ sở thực tiễn của việc pháp luật thi hành án dân sự quy định về xác minh
điều kiện thi hành án
Ngoài cơ sở lý luận được phân tích ở trên thì quy định về XMĐKTHA còn xuất
phát từ cơ sở thực tiễn như sau:
Thứ nhất, trong suốt thời gian dài từ trước cho đến khi ban hành LuậtTHADS,
chúng ta vẫn luôn cho rằng những việc tranh chấp đã được Tòa án thụ lý giải quyết thì cơ
quan THADS phải có trách nhiệm thi hành, có trách nhiệm sử dụng quyền lực nhà nước
để bảo vệ, khôi phục quyền lợi cho các đương sự. Người dân luôn nghĩ rằng việc cơ quan
THADS buộc người phải THA nộp tiền hoặc xử lý phát mãi tài sản là việc rất hiển nhiên
và việc này được thực hiện đơn giản, nhanh chóng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy thì mặc
dù người phải THA có tài sản, có điều kiện thi hành nhưng nếu họ không tự nguyện thi
hành thì việc cưỡng chế xử lý tài sản của họ cũng phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định
của pháp luật về trình tự, thủ tục, tốn khá nhiều thời gian, công sức. Thực tế thì rất nhiều
người được THA cho rằng, việc họ được thi hành bản án, quyết định của Tòa án là việc
đương nhiên, họ chỉ cần đến cơ quan THADS nhận tiền, tài sản của mình mà không cần
biết cơ quan THADS khó khăn, vất vả mới có được để trao trả cho họ. Khi được cán bộ
THA giải thích việc làm đơn yêu cầu THA phải thực hiện theo trình tự, thủ tục do pháp
luật quy định; khả năng bản án, quyết định được thực hiện đến đâu phụ thuộc vào nhiều
yếu tố, trong đó có yếu tố là điều kiện THA của người phải THA mà không hẳn là do cơ
quan THADS quyết định… thì đa phần họ tỏ thái độ bức xúc, khó chịu với cơ quan
THADS. Thực tế này cho thấy, người dân không nghĩ rằng hiệu lực thi hành trên thực tế
của bản án, quyết định của Tòa án không chỉ phụ thuộc vào việc tổ chức thi hành của cơ
quan THADS mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Trong THADS, quyền và
nghĩa vụ dân sự được xác lập, phát sinh từ bản án, quyết định của Tòa án cũng có thể
25



×