Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

HUY ĐỘNG các lực LƯỢNG xã hội TRONG GIÁO dục ý THỨC xây DỰNG NÔNG THÔN mới CHO CỘNG ĐỒNG dân cư HUYỆN KIẾN THỤY, THÀNH PHỐ hải PHÒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (653.12 KB, 118 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN AN QUANG

HUY ĐỘNG CÁC LỰC LƯỢNG XÃ HỘI TRONG GIÁO DỤC
Ý THỨC XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI CHO CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ
HUYỆN KIẾN THỤY, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

Chuyên ngành: Giáo dục và Phát triển cộng đồng
Mã ngành: Thí điểm

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: TS VŨ THỊ NGỌC TÚ

HÀ NỘI - 2019


LỜI CẢM ƠN
Bằng tấm lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến TS Vũ Thị
Ngọc Tú – cô giáo hướng dẫn, nhà khoa học tâm huyết luôn cảm thông, chia sẻ
những khó khăn của học trò, khích lệ, động viên, nhiệt tình hướng dẫn cho em trong
quá trình nghiên cứu luận văn tốt nghiệp.
Xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô tham gia giảng dạy học viên cao học
chuyên ngành Giáo dục và phát triển cộng đồng khóa K27, Khoa Tâm lí – Giáo dục
học, trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Xin trân trọng cảm ơn Phòng Sau Đại học, trường Đại học Sư phạm Hà Nội;
các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng; người
thân, bạn bè, đồng nghiệp đã ủng hộ, tạo những điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá
trình học tập, nghiên cứu.


Tác giả luận văn

Nguyễn An Quang


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CB
CĐDC
ĐTB
LLXH
NTM
NXB
SL
UBND
NN&PTNT

:
:
:
:
:
:
:
:
:

Cán bộ
Cộng đồng dân cư
Điểm trung bình
Lực lượng xã hội

Nông thôn mới
Nhà xuất bản
Số lượng
Ủy ban nhân dân
Nông nghiệp và phát triển nông thôn


MỤC LỤC

1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề.....................................................................6
Sơ đồ 1.1. Mô hình tổ chức nông thôn mới.....................................................24
3.1. Định hướng đề xuất biện pháp.................................................................68
3.4. Mối quan hệ giữa các biện pháp...............................................................86
3.5. Khảo nghiệm mức độ cần thiết và tính khả thi của các biện pháp...........87
Kết luận chương 3...........................................................................................93
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ..................................................................94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................99

DANH MỤC BẢNG

1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề.....................................................................6
Sơ đồ 1.1. Mô hình tổ chức nông thôn mới.....................................................24
Sơ đồ 1.1. Mô hình tổ chức nông thôn mới.....................................................24
3.1. Định hướng đề xuất biện pháp.................................................................68
3.4. Mối quan hệ giữa các biện pháp...............................................................86
3.5. Khảo nghiệm mức độ cần thiết và tính khả thi của các biện pháp...........87
Kết luận chương 3...........................................................................................93
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ..................................................................94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................99



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng nông thôn mới (NTM) là cuộc cách mạng và cuộc vận động lớn để
cộng đồng dân cư (CĐDC) ở nông thôn đồng lòng xây dựng thôn, xã, gia đình của
mình khang trang, sạch đẹp; phát triển sản xuất toàn diện (nông nghiệp, công
nghiệp, dịch vụ); có nếp sống văn hoá, môi trường và an ninh nông thôn được đảm
bảo; thu nhập, đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng cao.
Để thực hiện được mục tiêu xây dựng NTM, nâng cao được đời sống người
dân nông thôn, Đảng và Chính phủ đã ban hành các văn bản vừa chỉ đạo vừa điều
hành công cuộc xây dựng NTM ở nước ta. Trước hết phải nói đến Chương trình xây
dựng nông thôn mới là một chương trình trọng tâm, xuyên suốt của Nghị quyết số 26NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; là chương trình khung, tổng thể phát
triển nông thôn với 11 nội dung lớn, tổng hợp của 16 chương trình mục tiêu quốc gia
và 14 chương trình hỗ trợ có mục tiêu đang triển khai ở địa bàn nông thôn trên phạm vi
cả nước. Tiếp đến Trung ương Đảng, Quốc hội tiếp tục thể hiện sự quan tâm, chỉ đạo
sát sao việc thực hiện xây dựng nông thôn mới khi Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 10CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết
xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” và Quốc hội thông qua Nghị quyết số
32/2016/QH14 về tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện Chương trình mục tiêu
quốc gia xây dựng NTM gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp.
Thủ tướng Chính phủ cũng ra Chỉ thị số 36/CT-TTg về đẩy mạnh thực hiện
hiệu quả, bền vững Chương trình. Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
phát động cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng NTM, đô thị văn minh”.
Trung tuần tháng 8/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
1600/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2016-2020 với
mục tiêu cả nước đạt 50% số xã đạt chuẩn NTM. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế-xã
hội mỗi vùng còn nhiều khó khăn nên Chính phủ không áp đặt “cào bằng” chỉ tiêu
trên mà mỗi vùng có một chỉ tiêu số xã đạt chuẩn NTM khác nhau, phù hợp với
điều kiện kinh tế-xã hội từng vùng, động viên chính quyền và nhân dân các địa
phương này thực hiện thành công Chương trình.


1


Như vậy, nhân tố góp phần quan trọng vào thắng lợi của xây dựng NTM là
CĐDC tại các địa phương - những người gắn kết thường xuyên với sự nghiệp xây
dựng NTM. Tuy nhiên, mức độ ý thức về xây dựng NTM của người dân trong cộng
đồng không thực sự đồng đều, thậm chí, một bộ phận người dân chưa có ý thức đầy
đủ về tầm quan trọng của sự nghiệp xây dựng NTM, chưa thức được vai trò của mình
trong quá trình xây dựng NTM. Tất cả những điều đó dẫn đến quá trình xây dựng NTM
tại các địa phương chưa thực sự hiệu quả. Chính vì vậy, hoạt động giáo dục ý thức cho
CĐDC với mục đích giúp cho mỗi người dân trong cộng đồng có được ý thức đầy đủ,
thái độ đúng đắn và thói quen tích cực đối với quá trình xây dựng NTM là vấn đề nhận
được nhiều sự quan tâm của các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể từ Trung ương đến địa
phương, đồng thời, nó cũng là vấn đề được các nhà nghiên cứu quan tâm, tìm hiểu.
Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của hoạt động giáo dục ý thức xây
dựng NTM cho CĐDC, trong những năm qua, lãnh đạo các cấp ủy Đảng, chính
quyền, các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng đã
từng bước chú trọng triển khai hoạt động này. Hoạt động giáo dục ý thức cho CĐDC
trên địa bàn huyện đã đạt được những kết quả nhất định, song những kết quả đã đạt
được chưa thực sự tương xứng với ý nghĩa và tầm quan trọng của hoạt động này.
Thực trạng trên do nhiều nguyên nhân gây nên, trong đó, việc chưa có những biện
pháp mang tính đồng bộ, phù hợp và hiệu quả để thu hút sức mạnh tổng thể của các
lực lượng xã hội (LLXH) tham gia vào hoạt động giáo dục ý thức xây dựng NTM cho
CĐDC là một trong những nguyên nhân cơ bản. Chính vì vậy, việc tiếp tục nghiên
cứu hoàn thiện quá trình huy động các LLXH trong giáo dục ý thức xây dựng NTM
cho CĐDC cả về phương diện lí luận, thực trạng và biện pháp là vấn đề có tính cấp
thiết hiện nay.
Xuất phát từ những lí do nêu trên chúng tôi lựa chọn đề tài “Huy động các lực
lượng xã hội trong giáo dục ý thức xây dựng nông thôn mới cho cộng đồng dân cư
huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng” để tiến hành nghiên cứu.

2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về huy động các lực lượng xã hội
trong giáo dục ý thức xây dựng NTM cho cộng đồng dân cư, tìm ra các biện pháp

2


nâng cao chất lượng giáo dục ý thức xây dựng NTM cho cộng đồng dân cư huyện
Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng dựa vào việc huy động sức mạnh tổng thể của các
lực lượng xã hội, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả của quá trình xây dựng nông
thôn mới tại địa phương.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình giáo dục ý thức xây dựng NTM cho cộng đồng dân cư.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp huy động các lực lượng xã hội trong giáo dục ý thức xây dựng NTM cho
cộng đồng dân cư huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng.
4. Giả thuyết khoa học
Trong những năm qua, quá trình huy động các lực lượng xã hội trong giáo dục ý
thức xây dựng NTM cho cộng đồng dân cư đã được triển khai trên địa bàn huyện Kiến
Thụy, thành phố Hải Phòng và đã đạt được một số kết quả nhất đinh, song còn những
hạn chế, tồn tại có liên quan đến hệ thống cơ chế, chính sách chưa đồng bộ; CB
chuyên trách Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện chưa thực sự thu
hút và phát huy hiệu quả vai trò của các lực lượng xã hội trong quá trình giáo
dục...Nếu đề xuất được các biện pháp phù hợp, khắc phục được những hạn chế nêu
trên thì chất lượng giáo dục ý thức xây dựng NTM cho cộng đồng dân cư huyện
Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng sẽ được nâng cao.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Hệ thống hóa những vấn đề lí luận về giáo dục ý thức xây dựng NTM
cho cộng đồng dân cư; huy động các lực lượng xã hội trong giáo dục ý thức xây dựng

NTM cho cộng đồng dân cư, trên cơ sở đó, xây dựng cơ sở lí luận cho đề tài nghiên cứu.
5.2. Khảo sát, đánh giá thực trạng huy động các lực lượng xã hội trong giáo dục
ý thức xây dựng NTM cho cộng đồng dân cư huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng.
5.3. Đề xuất các biện pháp huy động các lực lượng xã hội trong giáo dục ý thức
xây dựng NTM cho cộng đồng dân cư huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng và tiến
hành khảo nghiệm tính cần thiết, tính khả thi của các biện pháp.

3


6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung nghiên cứu: Chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu lí luận, thực
trạng và biện pháp huy động các lực lượng xã hội trong giáo dục ý thức xây dựng NTM
cho cộng đồng dân cư huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng với vai trò chủ đạo là Cán
bộ Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
- Về khách thể khảo sát: Chúng tôi dự kiến khảo sát trên 240 khác thể bao
gồm: 120 cán bộ (CB) các cấp ủy Đảng, chính quyền và 120 Cán bộ Phòng Nông
nghiệp và Phát triển nông; cán bộ Hội khuyến nông, Hội Phụ nữ, Hội người cao tuổi;
Đoàn thanh niên, Phòng Giáo dục và Đào tạo trên địa bàn huyện Kiến Thụy, thành
phố Hải Phòng.
- Về thời gian nghiên cứu: Từ tháng 9 năm 2018 đến tháng 5 năm 2019.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
- Sử dụng nhóm phương pháp này nhằm thu thập và xử lí các tài liệu văn bản có
liên quan đến xây dựng nông thông mới, ý thức xây dựng nông thôn mới của cộng đồng
dân cư, giáo dục ý thức xây dựng nông thông mới cho cộng đồng dân cư; huy động các
lực lượng xã hội trong giáo dục ý thức xây dựng nông thông mới cho cộng đồng dân cư
để xây dựng khung lí luận của đề tài nghiên cứu.
- Các phương pháp được sử dụng bao gồm:
+ Phương pháp phân tích và tổng hợp lí thuyết.

+ Phương pháp phân loại và hệ thống hóa lí thuyết
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Sử dụng nhóm phương pháp này nhằm thu thập những thông tin về thực trạng
ý thức xây dựng nông thôn mới cho cộng đồng dân cư; giáo dục ý thức xây dựng
nông thôn mới cho cộng đồng dân cư và huy động các lực lượng xã hội trong giáo
dục ý thức xây dựng nông thông mới cho cộng đồng dân cư huyện Kiến Thụy, thành
phố Hải Phòng.
- Các phương pháp được sử dụng bao gồm:
+ Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi.
+ Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động.

4


+ Phương pháp quan sát
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
+ Phương pháp phỏng vấn.
7.3. Nhóm phương pháp xử lý số liệu
- Sử dụng nhóm phương pháp này nhằm xử lí kết quả điều tra có liên quan
đến thực trạng huy động các lực lượng xã hội trong giáo dục ý thức xây dựng nông
thông mới cho cộng đồng dân cư huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng, làm cơ sở
cho việc rút ra các nhận xét khoa học khái quát về thực trạng vấn đề nghiên cứu.
- Các phương pháp được sử dụng bao gồm:
+ Phương pháp sử dụng công thức toán học như công thức tính giá trị phần trăm,
công thức tính giá trị trung bình.
+ Phương pháp sử dụng phần mềm xử lí số liệu.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và khuyến nghị, Danh mục tài liệu tham khảo,
Phụ lục, nội dung chính của luận văn được thể hiện qua 3 chương:
Chương 1. Lí luận về huy động các lực lượng xã hội trong giáo dục ý thức

xây dựng nông thông mới cho cộng đồng dân cư.
Chương 2. Thực trạng huy động các lực lượng xã hội trong giáo dục ý thức xây
dựng nông thông mới cho cộng đồng dân cư huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng.
Chương 3. Biện pháp huy động các lực lượng xã hội trong giáo dục ý thức xây
dựng nông thông mới cho cộng đồng dân cư huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng.

5


Chương 1
LÍ LUẬN VỀ HUY ĐỘNG CÁC LỰC LƯỢNG XÃ HỘI
TRONG GIÁO DỤC Ý THỨC XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
CHO CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Những nghiên cứu về nông thôn, phát triển nông thôn và xây dựng
nông thôn mới
Quá trình nghiên cứu lịch sử phát triển kinh tế của các nước trên thế giới đều
chỉ ra rằng: Phát triển nông nghiệp, nông thôn ở các nước với những ý tưởng sáng
tạo, khâu đột phá và sự trợ giúp hiệu quả của nhà nước trên cơ sở phát huy tính tự
chủ, năng động, trách nhiệm của người dân để phát triển khu vực nông thôn, có ý
nghĩa và vai trò hết sức quan trọng đối với việc CNH - HĐH, thành công nông
nghiệp - tạo nền tảng thúc đẩy quá trình CNH - HĐH hóa đất nước. Cụ thể như:
Ở Nhật Bản, từ thập niên 70 của thế kỷ trước đã hình thành và phát triển
phong trào “Mỗi làng một sản phẩm”, với mục tiêu phát triển vùng nông thôn một
cách tương xứng với sự phát triển chung của cả nước Nhật Bản. Trải qua gần 30
năm hình thành và phát triển, Phong trào “Mỗi làng một sản phẩm” đã thu được
nhiều thắng lợi rực rỡ trên đất nước Nhật Bản và rất nhiều quốc gia khác trên thế
giới. Một số quốc gia trong khu vực Đông Nam Á đã có được những thành công
nhất định trong phát triển nông thôn của đất nước mình nhờ áp dụng kinh nghiệm
phong trào “Mỗi làng một sản phẩm”. Những kinh nghiệm của phong trào “Mỗi

làng một sản phẩm” được những người sáng lập, các nhà nghiên cứu đúc rút để
ngày càng có nhiều người, nhiều khu vực và quốc gia có thể áp dụng trong chiến
lược phát triển nông thôn, nhất là phát triển nông thôn trong quá trình công nghiệp
hóa đất nước mình.
Ở Hàn Quốc:Phong trào Làng mới (SU) ra đời với 3 tiêu chí: cần cù (chăm
chỉ), tự lực vượt khó, và, hợp tác (hiệp lực cộng đồng). Năm 1970, sau những dự án
thí điểm đầu tư cho nông thôn có hiệu quả, Chính phủ Hàn Quốc đã chính thức phát
động phong trào SU và được nông dân hưởng ứng mạnh mẽ. Họ thi đua cải tạo nhà
mái lá bằng mái ngói, đường giao thông trong làng, xã được mở rộng, nâng cấp; các

6


công trình phúc lợi công cộng được đầu tư xây dựng. Phương thức canh tác được
đổi mới, như việc áp dụng canh tác tổng hợp với nhiều mặt hàng mũi nhọn là: nấm
và cây thuốc lá để tăng giá trị xuất khẩu. Chính phủ khuyến khích và hỗ trợ xây
dựng nhiều nhà máy ở nông thôn, tạo việc làm và cải thiện thu nhập cho nông dân.
Bộ mặt nông thôn Hàn Quốc đã có những thay đổi hết sức kỳ diệu. Chỉ sau 8 năm,
các dự án phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn cơ bản được hoàn thành. Trong 8
năm từ 1971-1978, Hàn Quốc đã cứng hóa được 43.631km đường làng nối với
đường của xã, trung bình mỗi làng nâng cấp được 1.322m đường; cứng hóa đường
ngõ xóm 42.220km, trung bình mỗi làng là 1.280m; xây dựng được 68.797 cầu
(Hàn Quốc là đất nước có nhiều sông suối), kiên cố hóa 7.839km đê, kè, xây 24.140
hồ chứa nước và 98% hộ dân có điện thắp sáng. Đặc biệt, vì không có quỹ bồi
thường đất và các tài sản khác nên việc hiến đất, tháo dỡ công trình, cây cối, đều do
dân tự giác bàn bạc, thỏa thuận, ghi công lao đóng góp và hy sinh của các hộ cho
phong trào. Nhờ phát triển giao thông nông thôn nên các hộ có điều kiện mua sắm
phương tiện sản xuất. Năm 1971, cứ 3 làng mới có 1 máy cày, thì đến năm 1975,
trung bình mỗi làng đã có 2,6 máy cày, rồi nâng lên 20 máy vào năm 1980. Từ đó,
tạo phong trào cơ khí hóa trong sản xuất nông nghiệp, áp dụng công nghệ cao,

giống mới lai tạo đột biến, công nghệ nhà lưới, nhà kính trồng rau, hoa quả đã thúc
đẩy năng suất, giá trị sản phẩm nông nghiệp, tăng nhanh. Năm 1979, Hàn Quốc đã
có 98% số làng tự chủ về kinh tế.
Ở Việt Nam, kế thừa những kết quả nghiên cứu về phát triển nông thôn, xây
dựng nông thôn mới của các nước trên thế giới, trong những năm gần đây, nhiều
nhà khoa học từng bước quan tâm nghiên cứu đến vấn đề này. Chúng ta có thể đề
cập đến một số công trình tiêu biểu sau:
Công trình: “Kinh nghiệm tổ chức quản lí nông thôn Việt Nam trong lịch sử”
[7], là công trình nghiên cứu những vấn đề lịch sử trong phát triển nông thôn nước
ta. Sau khi nêu lên sự quan tâm của Nhà nước trong thời kì quản lí làng xã và xây
dựng thiết chế chính trị - xã hội nông thôn, các tác giả đã trình bày khá toàn diện về
nông thôn nước ta trong lịch sử như: Vấn đề Nhà nước quản lí nông thôn trong các
thế kỉ XVI - XVIII; nhà Nguyễn đối với vấn đề nông thôn trong thế kỉ XIX; phát

7


triển nông thôn trong thời kì kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954); cơ cấu quản lí
hành chính làng xã Việt Nam (1954 - 1975). Công trình còn đề cập mô hình phát
triển làng xã nông thôn Việt Nam ở các vùng cụ thể, nhất là Bắc Bộ và Nam Bộ.
Công trình đã cung cấp những sử liệu rất có giá trị về vai trò của Nhà nước; tính
cộng đồng và tính bền vững của mô hình làng xã Việt Nam; những nhân tố tác
động việc hình thành thiết chế và mô hình hoạt động của làng xã.
Công trình nghiên cứu: “Chính sách kinh tế và vai trò của nó đối với phát
triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam” [2], đã làm rõ các vấn đề: Khái niệm về
chính sách, chính sách kinh tế, quá trình thay đổi chính sách nông nghiệp Việt Nam
trong 10 năm đổi mới.
Công trình: “Một số vấn đề về nông nghiệp, nông dân nông thôn ở các nước
và Việt Nam” [16], nghiên cứu chuyên sâu về nông nghiệp nông thôn. Tác giả đã
phân tích khá sâu sắc một số nội dung về dân số, lao động, việc làm, chuyển dịch cơ

cấu kinh tế, sử dụng và quản lí nguồn lực tài nguyên thiên nhiên, về phân tầng xã
hội và xóa đói giảm nghèo… Trên cơ sở phân tích những thành tựu, yếu kém và
thách thức đặt ra trong phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta, tác giả đã chỉ ra
yêu cầu hoàn thiện hệ thống chính sách, cách thức chỉ đạo của Nhà nước trong quá
trình vận động của nông thôn Việt Nam.
“Công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn các nước châu Á và Việt Nam”
[8]. Trong công trình trên, tác giả đề cập đến việc phát triển nông nghiệp Việt Nam
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng như xu thế của nông thôn Việt Nam
trong những năm đầu thế kỉ XXI.
“Chính sách nông nghiệp, nông thôn sau Nghị quyết X” của Bộ Chính trị là
một công trình nghiên cứu của nhóm tác giả do [27], đã phân tích quá trình phát
triển nông nghiệp Việt Nam dưới sự tác động của hệ thống chính sách; đi sâu phân
tích một số chính sách về đất đai, về phân phối trong phát triển nông nghiệp, nông
thôn nước ta.
“Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kì đổi mới” [5]. Đây là công trình
nghiên cứu rất công phu của tác giả bởi ngoài những phân tích có tính thuyết phục
về quá trình đổi mới nông nghiệp Việt Nam, công trình còn cung cấp hệ thống tư

8


liệu về phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta như là một Niên giám thống kê
nông nghiệp thu nhỏ. Công trình đã làm rõ quá trình đổi mới, hoàn thiện chính sách
nông nghiệp, nông thôn nước ta trong những năm đổi mới, những thành tựu và
những vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam.
Những gợi mở về những vấn đề đầu tư, vấn đề phân hóa giàu nghèo, vấn đề nâng
cao khả năng cạnh tranh, xuất khẩu nông sản… đã được tác giả lí giải với nhiều
luận cứ có tính thuyết phục.
“Một số vấn đề về kinh tế hộ nông dân Việt Nam thời kì đổi mới”, [32] đã
trình bày có hệ thống quá trình xác lập vai trò tự chủ của kinh tế hộ nông dân Việt

Nam thời kì đổi mới, phân tích vấn đề ruộng đất của kinh tế hộ, xu hướng phát triển
kinh tế hộ lên kinh tế trang trại, sự phân hóa của các hộ nông dân trong quá trình
chuyển đổi cơ chế.
Về những mô hình hợp tác xã nông nghiệp nước ta, được coi là một mô hình
phát triển nông nghiệp nông thôn trong quan niệm xây dựng chủ nghĩa xã hội kiểu
Xô Viết, cũng được một tập thể các nhà khoa học Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh nghiên cứu khá sâu sắc trong đề tài tổng kết thực tiễn: “Mô hình hợp tác
xã nông nghiệp trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta” [22].
Đặc biệt, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước “Tổng kết và xây dựng
mô hình phát triển kinh tế - xã hội nông thôn mới, kết hợp truyền thống làng xã với
văn minh thời đại” [10] là một công trình nghiên cứu về mô hình phát triển kinh tế xã hội nông thôn mới kết hợp truyền thống làng xã Việt Nam với văn minh thời đại.
“Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay” [1] đã làm rõ lịch
sử, lí luận về làng xã và hệ thống chính trị ở cơ sở nước ta; nêu rõ cơ cấu tổ chức,
hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở hiện nay và đề ra một số phương hướng,
giải pháp nhằm tăng cường hoạt động của hệ thống này.
“Thể chế dân chủ và phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay (2015)”[ 20];
đã phân tích thực trạng nông thôn Việt Nam hiện nay; làm sáng tỏ những quan
điểm, chủ trương, chính sách, giải pháp của Đảng và Nhà nước ta về nông nghiệp,
nông dân, nông thôn; phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vai trò của hệ thống
chính trị cấp cơ sở với quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở nông thôn Việt Nam.

9


Công trình nghiên cứu: “Hội nhập kinh tế quốc tế và tác động của nó đến
phát triển nông nghiệp Việt Nam (2008)”[ 35] ; Trong công trình này, các tác giả đã
tập trung phân tích các liên kết kinh tế quốc tế về thương mại và đầu tư trong nông
nghiệp; đánh giá chính sách phát triển nông nghiệp và khả năng cạnh tranh của
nông nghiệp Việt Nam; đồng thời khuyến nghị những giải pháp chủ yếu để phát
triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.

1.1.2 . Các công trình nghiên cứu về giáo dục cho cộng đồng dân cư
Cộng đồng dân cư là một bộ phận quan trọng của cộng đồng xã hội, có
những đóng góp thiết thực trong quá trình thực hiện những chủ trương, chính sách
của Đảng, Nhà nước và địa phương. Song, trình độ nhận thức của cộng đồng dân cư
nhìn chung chưa cao và chưa thực sự đồng đều. Chính vì vậy, giáo dục cho động
đồng dân cư để họ có được nhận thức đầy đủ, thái độ đúng đắn và tạo lập được hành
vi, thói quen có liên quan đến các vấn đề xã hội đặt ra là vấn đề cần nhận được sự
quan tâm đúng mức của nhà nhà quản lí xã hội, lãnh đạo của các cơ quan, ban,
ngành, đoàn thể các cấp và của các nhà nghiên cứu.
Cho đến nay, mặc dù đã nhận được sự quan tâm của các cơ quan có liên
quan, song, số lượng những công trình nghiên cứu về giáo dục cho cộng đồng dân
cư còn chưa nhiều. Chúng ta có thể kể tới một số công trình nghiên cứu có liên quan
đến vấn đề này như:
Tác giả Phạm Thị Minh Trà (2018) trong luận văn thạc sĩ của mình “Giáo
dục ý thức thực hiện Luật An toàn thực phẩm trong sản xuất rau, quả tươi cho nông
dân thành phố Hải Phòng” [33] đã nghiên cứu hoàn thiện cơ sở lí luận về giáo dục
ý thức thực hiện Luật An toàn thực phẩm trong sản xuất rau, quả tươi cho nông dân;
phát hiện thực trạng giáo dục ý thức thực hiện Luật An toàn thực phẩm trong sản
xuất rau, quả tươi cho nông dân thành phố Hải Phòng, trên cơ sở đó, đề xuất và tiến
hành khảo nghiệm 8 biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này tại địa
bàn nghiên cứu.
Tác giả Đoàn Đắc Thiếp (2018) trong luận văn thạc sĩ của mình “Giáo dục ý
thức bảo tồn giá trị văn hóa lịch sử nhà Mạc cho cộng đồng dân cư huyện Kiến
Thụy, thành phố Hải Phòng” [30] đã hoàn thiện hệ thống lí luận về giáo dục ý thức

10


bảo tồn giá trị văn hóa lịch sử nhà Mạc cho cộng đồng dân cư; phát hiện thực trạng
và đề xuất 08 biện pháp giáo dục ý thức bảo tồn giá trị văn hóa lịch sử nhà Mạc cho

cộng đồng dân cư huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng.
Tác giả Dương Thị Minh Huế (2016) trong luận văn thạc sĩ của mình “Giáo
dục bình đẳng giới cho cộng đồng người dân tộc thiểu số tại huyện Mường La, tỉnh
Sơn La”[31] đã hoàn thiện hệ thống lí luận, khảo sát đánh giá thực trạng và đề xuất
các biện pháp giáo dục bình đẳng giới cho cộng đồng người dân tộc thiểu số tại
huyện Mường La, tỉnh Sơn La bao gồm: Phối hợp các cơ quan và tổ chức trong giáo
dục bình đẳng giới;tổ chức thực hiện đa dạng các hình thức tuyên truyền, vận động
về bình đẳng giới trong cộng đồng; xây dựng chế tài xử phạt các cơ quan, đơn vị, cá
nhân vi phạm Luật Bình đẳng giới và bồi dưỡng, đào tạo nâng cao trình độ cho cán
bộ chuyên trách.
Tác giả Hoàng Thị Phương Thanh (2017) trong luận văn thạc sĩ của mình
“Giáo dục hành vi ứng xử có văn hóa cho cộng đồng dân cư quận Đồ Sơn, thành
phố Hải Phòng” [26] đã hoàn thiện cơ sở lí luận về giáo dục hành vi ứng xử có văn
hóa cho cộng đồng dân cư; khảo sát, đánh giá thực trạng và đề xuất 07 biện pháp giáo
dục hành vi ứng xử có văn hóa cho cộng đồng dân cư quận Đồ Sơn, thành phố Hải
Phòng bao gồm: Bồi dưỡng nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của hành vi ứng
xử có văn hóa cho cộng đồng dân cư; tham mưu với các cấp ủy Đảng, chính quyền
địa phương hoàn thiện các cơ chế, chính sách có liên quan đến công tác giáo dục
hành vi ứng xử có văn hóa cho cộng đồng dân cư; hoàn thiện nội dung, chương trình,
phương pháp giáo dục hành vi ứng xử có văn hóa cho cộng đồng dân cư; tổ chức các
hoạt động mang tính phong phú, đa dạng trong giáo dục hành vi ứng xử có văn hóa
cho cộng đồng dân cư; nâng cao tính tích cực của người dân trong công tác giáo dục
hành vi ứng xử có văn hóa; phát huy sức mạnh của các lực lượng xã hội tham gia
giáo dục hành vi ứng xử có văn hóa cho cộng đồng dân cư và tăng cường kiểm tra,
đánh giá kết quả giáo dục hành vi ứng xử có văn hóa cho cộng đồng dân cư”
.Tác giả Lê Thị Thu Trang (2017) trong luận văn thạc sĩ của mình “Giáo dục
giá trị văn hóa truyền thống cho đồng bào Ê đê ở buôn Lê Diêm, thị trấn Hai
Riêng, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên” [34] đã nghiên cứu hoàn thiện cơ sở lí luận,

11



khảo sát, đánh giá thực trạng và đề xuất các biện pháp giáo dục giá trị văn hóa
truyền thống cho đồng bào Ê đê ở buôn Lê Diêm, thị trấn Hai Riêng, huyện Sông
Hinh, tỉnh Phú Yên.
Tác giả Phạm Văn Hoàng (2016) trong luận văn thạc sĩ của mình “Giáo dục
nếp sống văn hóa cho người dân xã Điền Hạ, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa
theo tiêu chí nông thôn mới” [11] đã hệ thống hóa các vấn đề lí luận có liên quan,
khảo sát, đánh giá thực trạng và đề xuất 07 biện pháp giáo dục nếp sống văn hóa
cho người dân xã Điền Hạ, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa theo tiêu chí nông
thôn mới.
Tác giả Phạm Văn Tiến (2017) trong luận văn thạc sĩ của mình “Giáo dục
phòng ngừa HIV/AIDS cho người dân tộc thiểu số vùng biên giới huyện Mộc Châu –
Sơn La” [32] đã nghiên cứu hoàn thiện cơ sở lí luận của đề tài; khảo sát, đánh giá
thực trạng và đề xuất 06 biện pháp giáo dục phòng ngừa HIV/AIDS cho người dân
tộc thiểu số vùng biên giới huyện Mộc Châu – Sơn La.
Tác giả Đinh Văn Hai (2017) trong luận văn thạc sĩ của mình “Giáo dục cho
những người đã hoàn thành án hình sự tái hòa nhập cộng đồng tại thành phố Vĩnh
Long, tỉnh Vĩnh Long” [11] đã nghiên cứu cơ sở lí luận về giáo dục cho những
người đã hoàn thành án hình sự tái hòa nhập cộng đồng; phân tích, đánh giá thực
trạng và đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục cho những người đã
hoàn thành án hình sự tái hòa nhập cộng đồng tại thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh
Long.
Tác giả Bùi Công Khoảng (2017) trong luận văn thạc sĩ của mình “Giáo dục
môi trường cho cộng đồng dân cư các xã ven biển của huyện Thủy Nguyên, thành
phố Hải Phòng” [14] đã nghiên cứu cơ sở lí luận; phân tích, đánh giá thực trạng và
đề xuất các biện pháp giáo dục môi trường cho cộng đồng dân cư các xã ven biển
của huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng.
Tác giả Trương Thái Hà (2016) trong luận văn thạc sĩ của mình “Giáo dục ý
thức bảo vệ rừng cho cộng đồng dân cư huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La” [9] đã

nghiên cứu cơ sở lí luận; phân tích, đánh giá thực trạng và đề xuất 07 biện pháp
giáo dục ý thức bảo vệ rừng cho cộng đồng dân cư huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La.

12


Tác giả Vũ Văn Suấn (2016) trong luận văn thạc sĩ của mình “Giáo dục
phòng chống tệ nạn ma túy cho cộng đồng dân cư huyện Mường La, tỉnh Sơn La”
[24] đã nghiên cứu cơ sở lí luận; phân tích, đánh giá thực trạng và đề xuất 06 biện
pháp giáo dục phòng chống tệ nạn ma túy cho cộng đồng dân cư huyện Mường La,
tỉnh Sơn La.
Tác giả Phùng Văn Quốc (2018) trong luận văn thạc sĩ của mình “Giáo dục
phòng chống nạn tảo hôn cho cộng đồng người dân tộc Mông vùng khó khăn trên địa
bàn huyện Sa pa, tỉnh Lào Cai” [19] đã nghiên cứu cơ sở lí luận; phân tích, đánh giá
thực trạng và đề xuất 06 biện pháp giáo dục phòng chống nạn tảo hôn cho cộng đồng
người dân tộc Mông vùng khó khăn trên địa bàn huyện Sa pa, tỉnh Lào Cai.
Qua tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan có thể rút ra một số
nhận xét sau:
- Trong những năm gần đây, giáo dục cho cộng đồng dân cư là vấn đề ngày
càng nhận được sự quan tâm của Nhà nước, các Bộ, Ban, Ngành, đoàn thể. Song, số
lượng các công trình nghiên cứu về vấn đề này chưa nhiều.
- Xây dựng NTM cũng là vấn đề nhận được sự quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu đã có, dưới nhiều góc độ khác nhau đã tập
trung làm rõ mối quan hệ giữa cộng đồng, nông nghiệp, nông dân và nông thôn; sự
phát triển của nông thôn; mô hình xây dựng NTM…
- Đặc biệt, theo vốn hiểu biết của người nghiên cứu, cho đến nay chưa có
công trình nào, chưa có tác giả nào nghiên cứu đầy đủ có hệ thống về huy động các
lực lượng xã hội trong giáo dục ý thức xây dựng NTM trên địa bàn huyện Kiến
Thụy, thành phố Hải Phòng.
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài

1.2.1. Nông thôn, nông thôn mới và xây dựng nông thôn mới
1.2.1.1. Nông thôn
Đến nay, khái niêm nông thôn được thống nhất với quy định tại Theo Thông
tư số 54/2009/TT-BNNPTNT ngày 21-8-2009 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, cụ thể: "Nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các
thành phố, thị xã, thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là ủy ban nhân

13


dân xã".
1.2.1.2. Nông thôn mới
Từ trước tới nay, khái niệm NTM chưa được định nghĩa một cách rõ ràng,
nhưng các đặc trưng của NTM được xác định tương đối rõ. Quyết định 491QĐ/TTg ngày 16 tháng 4 năm 2009 “Về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về
NTM” đã phân chia NTM theo các cấp hành chính: xã NTM, huyện NTM và tỉnh
NTM. Trong đó, để đạt xã NTM, một địa phương phải đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn
từ 5 lĩnh vực lớn, bao gồm 19 tiêu chí lớn và 39 tiêu chí nhỏ. Năm lĩnh vực lớn
của một xã NTM là: quy hoạch, hạ tầng kinh tế - xã hội, kinh tế và tổ chức sản
xuất, văn hóa - xã hội - môi trường, và hệ thống chính trị. Trong mỗi lĩnh vực lớn
này, NTM được cụ thể hóa bằng các tiêu chí nhỏ hơn. Ví dụ lĩnh vực văn hóa - xã
hội - môi trường có 4 tiêu chí lớn cần đạt là giáo dục, y tế, văn hóa và môi trường.
Trong mỗi tiêu chí lớn, có thể có những tiêu chí hay chỉ báo nhỏ hơn, có thể đo
lường và đánh giá được. Từ những phân tích nêu trên có thể khái quát về khái
niệm nông thôn mới như sau:
Nông thôn mới là nông thôn mà trong đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần
của người dân không ngừng được nâng cao, giảm dần sự cách biệt giữa nông thôn
và thành thị. Nông dân được đào tạo, tiếp thu các tiến bộ kỹ thuật tiên tiến, có bản
lĩnh chính trị vững vàng, đóng vai trò làm chủ nông thôn mới.
Nông thôn mới có kinh tế phát triển toàn diện, bền vững, cơ sở hạ tầng được xây
dựng đồng bộ, hiện đại, phát triển theo quy hoạch, gắn kết hợp lý giữa nông nghiệp với

công nghiệp, dịch vụ và đô thị. Nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc, môi
trường sinh thái được bảo vệ. Sức mạnh của hệ thống chính trị được nâng cao, đảm bảo
giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội.
1.2.1.3. Xây dựng nông thôn mới
Xây dựng nông thôn mới là cuộc cách mạng và cuộc vận động lớn để cộng
đồng dân cư ở nông thôn đồng lòng xây dựng thôn, xã, gia đình của mình khang
trang, sạch đẹp; phát triển sản xuất toàn diện (nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ);
có nếp sống văn hoá, môi trường và an ninh nông thôn được đảm bảo; thu nhập, đời
sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng cao.

14


Xây dựng nông thôn mới là sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân,
của cả hệ thống chính trị. Nông thôn mới không chỉ là vấn đề kinh tế - xã hội, mà là
vấn đề kinh tế - chính trị tổng hợp.
Xây dựng nông thôn mới giúp cho nông dân có niềm tin, trở nên tích cực,
chăm chỉ, đoàn kết giúp đỡ nhau xây dựng nông thôn phát triển giàu đẹp, dân chủ,
văn minh.
Nghị quyết 24/2008/NQ-CP về Ban hành Chương trình hành động của Chính
phủ Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn ngày 28 tháng 10 năm 2008, tóm lược
nội dung “XDNTM là xây dựng, tổ chức cuộc sống của dân cư nông thôn theo
hướng văn minh, hiện đại, giữ gìn bản sắc văn hoá và môi trường sinh thái gắn với
phát triển đô thị, thị trấn, thị tứ”.
NTM là một trạng thái phát triển cao, toàn diện của xã hội nông thôn, kết
hợp đầy đủ các khía cạnh từ kinh tế, sản xuất tới phát triển văn hóa, giáo dục, môi
trường, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội và hệ thống chính trị. Xây dựng chính sách về
NTM có sự tham gia của nhiều chủ thể là các cơ quan chính trị khác nhau, bao gồm
Đảng, Chính phủ , Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các bộ ban ngành

liên quan và các cơ quan chính quyền ở địa phương. Trên cơ sở đó, các bộ, trong đó
Bộ NNPTNT là chủ quản, cụ thể hóa, giải thích cặn kẽ các nội dung chương trình
cho các cấp địa phương thực hiện. Các bộ ban ngành liên quan đưa ra các thông tư,
thông tư liên tịch để kết nối với nhau trong việc đạt được mục tiêu chương trình.
Các đơn vị chính quyền như UBND cấp tỉnh, huyện, xã sẽ trực tiếp triển khai, thực
hiện các nội dung đề ra ở cấp trung ương và báo cáo hàng kỳ. Mối quan hệ giữa các
chủ thể này sẽ được thể hiện rõ trong quá trình manh nha, hình thành và phát triển
chính sách về XDNTM dưới đây [9, tr16- 26].
1.2.2. Ý thức và ý thức xây dựng nông thôn mới
1.2.2.1. Ý thức
Theo quan điểm của chủ nghĩa Lênin thì trong lịch sử triết học, vấn đề nguồn
gốc, bản chất của ý thức là một trong những vấn đề trung tâm của cuộc đấu tranh
giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.

15


- Về mặt tự nhiên:
Theo quan điểm của triết học Mác - Lê nin, ý thức là một thuộc tính của một
dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người, là sự phản ánh thế giới khách quan vào
bộ não người. Nếu không có sự tác động của thế giới khách quan vào bộ não người
và không có bộ não người với tính cách là cơ quan vật chất của ý thức thì sẽ không
có ý thức. Bộ não người và sự tác động của thế giới khách quan vào bộ não người là
nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
- Về mặt xã hội:
Để ý thức có thể ra đời, bên cạnh những nguồn gốc tự nhiên thì điều kiện
quyết định cho sự ra đời của ý thức là nguồn gốc xã hội, thể hiện ở vai trò của lao
động, ngôn ngữ và các mối quan hệ xã hội.
Khái niệm Ý thức theo tài liệu hướng dẫn học tập Tâm lý học đại cương Nguyễn Quang Uẩn (Chủ biên), NXB Đại học Sư phạm Hà Nội 2006, Ý thức là
hình thức phản ánh tâm lý cao nhất chỉ có ở người, là sự phản ánh bằng ngôn ngữ

những gì con người đã tiếp thu được trong quá trình quan hệ qua lại với thế giới
khách quan. Có thể ví ý thức như là "cặp mắt thứ hai" soi vào các kết quả do "cặp
mắt thứ nhất" (cảm giác, tri giác, tư duy, cảm xúc…) mang lại. Với ý nghĩa đó ta có
thể nói "ý thức là tồn tại được nhận thức" [37; tr76,77].
1.2.3. Cộng đồng và cộng đồng dân cư
1.2.3.1. Cộng đồng
CĐ được hiểu theo nghĩa chung nhất là: “một cơ thể sống/cơ quan/tổ chức nơi
sinh sống và tương tác giữa cái này với các khác” [Nguyễn Kim Liên (2008), Giáo
trình phát triển CĐ, NXB Lao động – Xã hội]. Trong khái niệm này, điều đáng chú ý,
được nhấn mạnh: CĐ là “cơ thể sống”, có sự “tương tác” của các thành viên. Tuy
nhiên, các nhà khoa học, trong khái niệm này không chỉ cụ thể “cái này” với “cái
khác” là cái gì, con gì. Đó có thể là các loại thực vật, cũng có thể là các loại động
vật, cũng có thể là con người – CĐ người.
CĐ là hình thức chung sống trên cơ sở sự gần gũi của các thành viên về mặt
cảm xúc, hướng tới sự gắn bó đặc biệt mật thiết (gia đình, tình bạn CĐ yêu thương)

16


được chính họ tìm kiếm và vì thế được con người cảm thấy có tính cội nguồn. Và
CĐ được xem là một trong những khái niệm nền tảng nhất của xã hội học, bởi vì nó
mô tả những hình thức quan hệ và quan niệm về trật tự, không xuất phát từ các tính
toán lợi ích có tính riêng lẻ và được thỏa thuận theo kiểu hợp đồng mà hướng tới
một sự thống nhất về tinh thần - tâm linh bao quát hơn và vì thế thường cũng có ưu
thế về giá trị.
CĐ người có tính đa dạng, tính phức tạp hơn nhiều so với các CĐ sinh vật
khác. Trong đời sống xã hội, khái niệm CĐ có nhiều tuyến nghĩa khác nhau đồng
thời CĐ cũng là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau: xã hội
học, dân tộc học, y học…
Khi nói tới CĐ người, người ta thường quy vào những “nhóm xã hội” có cùng

một hay nhiều đặc điểm chung nào đó, nhấn mạnh đến đặc điểm chung của những
thành viên trong CĐ.
Theo quan điểm Mac - Lenin, CĐ là mối quan hệ qua lại giữa các cá nhân,
được quyết định bởi sự CĐ hóa lợi ích giống nhau của các thành viên về các điều
kiện tồn tại và hoạt động của những người hợp thành CĐ đó, bao gồm các hoạt
động sản xuất vật chất và các hoạt động khác của họ, sự gần gũi các cá nhân về tư
tưởng, tín ngưỡng, hệ giá trị chuẩn mực cũng như các quan niệm chủ quan của họ
về các mục tiêu và phương tiện hoạt động.
Quan niệm về CĐ theo quan điểm trên là quan niệm rất rộng, có tính khái quát
cao, mang đặc thù của kinh tế - chính trị. Dấu hiệu đặc trưng chung của nhóm người
trong CĐ này chính là “điều kiện tồn tại và hoạt động”, là “lợi ích chung”, là “tư
tưởng”, “tín ngưỡng”, “giá trị”chung…Thực chất đó là CĐ mang tính giai cấp, ý
thức hệ.
Xuất phát từ tiếng La tinh, “Cộng đồng” – communis có nghĩa là “chung/công
cộng/được chia sẻ với mọi người hoặc nhiều người”. Đặc điểm/ dấu hiệu chung của
CĐ này chính là đặc điểm để phân biệt nó với CĐ khác.
- Khái niệm chung nhất là: “một cơ thể sống/cơ quan/tổ chức nơi sinh sống
và tương tác giữa cái này với cái khác” [Trung tâm từ điển (2005), Từ điển tiếng Việt,

17


Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.10]. Trong khái niệm này, điều đáng chú ý, được
nhấn mạnh: cộng đồng là “cơ thể sống”, có sự “tương tác” của các thành viên.
- Theo tác giả Nguyễn Kim Liên (2010) “Cộng đồng những người dân cùng
sống chung trong một thôn, xóm, làng, xã, một quốc gia có thể là toàn thế giới, tức
họ cùng chia sẻ với nhau mảnh đất sinh sống gọi là cộng đồng” [Trung tâm từ điển
(2005), Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.10].
Dấu hiệu/đặc điểm để phân biệt CĐ này với CĐ khác có thể là bất cứ cái gì
thuộc về con người và xã hội loài người, màu da, đức tin, tôn giáo, lứa tuổi, ngôn

ngữ, nhu cầu, sở thích nghề nghiệp… nhưng cũng có thể là vị trí địa lý của khu
vực (địa vực), nơi sinh sống của nhóm người đó như làng, xã, quận/huyện, quốc
gia, châu lục… Những dấu hiệu này chính là những ranh giới để phân chia CĐ.
Theo từ điển xã hội học của Harper Collins, CĐ được hiểu là “mọi phức hợp
các quan hệ xã hội được tiến hành trong lĩnh vực cụ thể, được xác định về mặt địa
lý, hàng xóm hay những mối quan hệ mà không hoàn toàn về mặt cư trú, mà tồn tại
ở một cấp độ trừu tượng hơn”.
Tóm lại, qua những phân tích trên, theo chúng tôi, trong đời sống xã hội, CĐ
là một danh từ chung chỉ tập hợp người nhất định nào đó với hai dấu hiệu quan
trọng: 1/ họ cùng tương tác với nhau; 2/ họ cùng chia sẻ với nhau (có chung với
nhau) một hoặc một vài đặc điểm vật chất hay tinh thần nào đó.
1.2.3.2. Cộng đồng dân cư
Từ các phân tích trên, có thể hiểu : Cộng đồng dân cư là một tập hợp người
dân có cùng chung lợi ích, cùng làm việc vì mục đích nào đó (chẳng hạn để kiếm
sống), sống trong cùng một khu vực xác định, có thể có chung các đặc điểm văn
hóa xã hội và có thể có các quan hệ, gắn kết với nhau.
Cộng đồng dân cư là một dạng của cộng đồng địa lí. Hiểu một cách đơn giản,
cộng đồng dân cư là nhiều người, nhiều nhà, gia đình, cá thể, nhóm cùng sống trong
một khoảng không gian hoặc là những người cùng sinh sống trong một khu vực
lãnh thổ hoặc đơn vị hành chính, họ gắn bó, liên kết cùng nhau thực hiện lợi ích,
nghĩa vụ… Ví dụ cộng đồng dân cư huyện là những người dân, những gia đình
cùng sinh sống trên địa bàn huyện. Họ gắn bó, liên kết cùng nhau để làm việc, kiếm

18


sống, chia sẻ với nhau về tình cảm và thống nhất về ý chí, tạo nên ý thức cộng đồng.
Họ có thể cùng được hưởng các chính sách chung của Nhà nước áp dụng cho người
dân trong huyện (ở một vùng miền nhất định).
1.2.4. Giáo dục và giáo dục ý thức xây dựng nông thôn mới cho cộng đồng

dân cư
1.2.4.1. Giáo dục
Giáo dục theo từ tiếng Hán thì giáo nghĩa là dạy, là rèn luyện về đường tinh
thần nhằm phát triển tri thức và huấn luyện tình cảm đạo đức, dục là nuôi, là săn sóc
về mặt thể chất. Vậy giáo dục là một sự rèn luyện con người về cả ba phương diện
trị tuệ, tình cảm và thể chất. Theo phương Tây thì education vốn xuất phát từ chữ
educare của tiếng La tinh. Động từ educare là dắt dẫn, hướng dẫn để làm phát khởi
ra những khả năng tiền tàng. Sự dắt dẫn này nhằm đưa con người từ không biết đến
biết, từ xấu đến tốt, từ thấp kém đến cao thượng, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện.
Theo tác giả Trần Thị Tuyết Oanh và các cộng sự “Giáo dục là quá trình tác
động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch, có nội dung và bằng phương pháp khoa
học của nhà giáo dục tới người được giáo dục trong các cơ quan giáo dục nhằm
hình thành nhân cách cho họ” [19; tr 22].
Theo tác giả Nguyễn Lân “Giáo dục là một quá trình có ý thức có mục đích,
có kế hoạch nhằm truyền cho lớp mới những kinh nghiệm đấu tranh và sản xuất,
những tri thức về tự nhiên, về xã hội, về tư duy, để họ có thể có đầy đủ khả năng
tham gia vào đời sống và đời sống xã hội” [18].
Theo tác giả Nguyễn Sinh Huy “Giáo dục là sự hình thành có mục đích và có tổ
chức những sức mạnh thể chất và tinh thần của con người, hình thành thế giới quan, bộ
mặt đạo đức và thị hiếu thẩm mĩ cho con người; với nghĩa rộng nhất, khái niệm này
bao hàm cả giáo dưỡng, dạy học và tất cả những yếu tố khác tạo nên những nét tính
cách và phẩm hạnh của con người, đáp ứng yêu cầu của kinh tế xã hội” [12].
Dù xét trên các góc độ, phạm vi khác nhau, chúng ta có thể nhận thấy: Giáo
dục là một quá trình toàn vẹn hình thành nhân cách, được tổ chức một cách có mục
đích và kế hoạch, thông qua các hoạt động và quan hệ giữa người giáo dục và người
được giáo dục, nhằm truyền đạt và chiếm lĩnh những kinh nghiệm xã hội loài người.

19



Như vậy: Giáo dục luôn là một quá trình có mục đích, có kế hoạch, là quá
trình tác động qua lại giữa nhà giáo dục và người được giáo dục.
Thông qua quá trình tương tác giữa người giáo dục và người được giáo dục để
hình thành nhân cách toàn vẹn (hình thành và phát triển các mặt đạo đức, trí tuệ,
thẩm mĩ, thể chất, lao động) cho người được giáo dục.
Giáo dục không bó hẹp ở phạm vi là người được giáo dục đang trong tuổi học
(dưới 25 tuổi) và giáo dục không chỉ diễn ra trong nhà trường. Ngày nay, chúng ta hiểu
giáo dục là cho tất cả mọi người, được thực hiện ở bất cứ không gian và thời gian nào
thích hợp với từng loại đối tượng bằng các phương tiện khác nhau, kể cả các phương
tiện truyền thông đại chúng (truyền hình, truyền thanh, video, trực tuyến qua inernet,
…) với các hình thức đa dạng, phong phú. Ngoài ra quá trình giáo dục không ràng
buộc về độ tuổi giữa người giáo dục với người được giáo dục.
1.2.4.2. Giáo dục ý thức xây dựng nông thôn mới cho cộng đồng dân cư
Giáo dục ý thức xây dựng nông thôn mới cho cộng đồng dân cư
Giáo dục ý thức thức xây dựng NTM cho cộng đồng dân cư là quá trình tác
động có mục đích, có kế hoạch của các chủ thể giáo dục đến cộng đồng dân cư
nhằm giúp họ có những kiến thức về xây dựng NTM, có thái độ và kĩ năng trong
xây dựng NTM hiện nay.
1.3. Một số vấn đề về xây dựng nông thôn mới trong giai đoạn hiện nay
1.3.1. Các tiêu chí xác định nông thôn mới
Để xây dựng nông thôn mới, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số
491/QĐ - TTg ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới bao gồm 19 tiêu chí
chia thành 5 nhóm:
- 5 nhóm là: Nhóm 1: Quy hoạch, nhóm 2: Hạ tầng kinh tế xã hội, nhóm 3:
Kinh tế và tổ chức sản xuất, nhóm 4: Văn hóa - xã hội - môi trường, nhóm 5: Hệ
thống chính trị.
- 19 tiêu chí là: 1: Quy hoạch, 2: Giao thông, 3: Thủy lợi, 4: Điện, 5: Trường
học, 6: Cơ sở vật chất văn hóa, 7: Chợ, 8: Bưu điện, 9: Nhà ở dân cư, 10: Thu nhập,
11: Tỷ lệ hộ nghèo, 12: Cơ cấu lao động, 13: Hình thức tổ chức sản xuất, 14: Giáo
dục, 15: Y tế, 16: Văn hóa, 17: Môi trường, 18: Hệ thống tổ chức chính trị xã hội


20


vững mạnh, 19: An ninh, trật tự xã hội.
1.3.2. Đặc điểm và nguyên tắc xây dựng nông thôn mới
1.2.3.1. Đặc điểm và xây dựng nông thôn mới
Theo cuốn “Sổ tay hướng dẫn xây dựng nông thôn mới” (Nhà xuất bản Lao
động 2010), đặc trưng của Nông thôn mới thời kỳ CNH -HĐH, giai đoạn 20102020, bao gồm:
- Kinh tế phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn được
nâng cao;
- Nông thôn phát triển theo quy hoạch, có kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội hiện
đại, môi trường sinh thái được bảo vệ;
- Dân trí được nâng cao, bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát huy;
- An ninh tốt, quản lý dân chủ.
- Chất lương hệ thống chính trị được nâng cao...
1.2.3.2. Nguyên tắc xây dựng nông thôn mới
Điều 2 Thông tư liên tịch số 26/2011/TTLT - BNN&PTNT - BKH&ĐT BTC ngày 13 tháng 4 năm 2011 (liên Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Kế
hoạch và Đầu tư Bộ Tài chính) về hướng dẫn một sô nội dung thực hiện Quyết định
800/QĐ - TTg ngày 04 tháng 6 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt
“chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mớ giai đoạn 2010 - 2020” đã
đề ra 6 nguyên tắc trong xây dựng nông thôn mới như sau:
- Các nội dung, hoạt động của Chương trình xây dựng nông thôn mới phải
hướng tới mục tiêu thực hiện 19 tiêu chí của Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới
ban hành tại Quyết định số 491/ QĐ - TTg ngày 16 tháng 4 năm 2009 của Thủ
tướng Chính phủ.
- Phát huy vai trò chủ thể của cộng đồng dân cư địa phương là chính, Nhà
nước đóng vai trò định hướng, ban hành các tiêu chí, quy chuẩn, chính sách, cơ chế
hỗ trợ, đào tạo cán bộ và hướng dẫn thực hiện. Các hoạt động cụ thể so chính cộng
đồng người dân ở thôn, xã bàn bạc dân chủ để quyết định và tổ chức thực hiện.

- Kế thừa và lồng ghép các chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình hỗ
trợ có mục tiêu, các chương trình, dự án khác nhau đang triển khai trên địa bàn

21


×