Tải bản đầy đủ (.doc) (143 trang)

PHỐI hợp NHÀ TRƯỜNG với các lực LƯỢNG xã hội TRONG GIÁO dục ý THỨC BÌNH ĐẲNG GIỚI CHO học SINH TRUNG học PHỔ THÔNG THÀNH PHỐ LAI CHÂU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (549.89 KB, 143 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

PHÙNG THỊ TÂM

PHỐI HỢP NHÀ TRƯỜNG VỚI CÁC LỰC LƯỢNG XÃ HỘI
TRONG GIÁO DỤC Ý THỨC BÌNH ĐẲNG GIỚI CHO HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THÀNH PHỐ LAI CHÂU

Chuyên ngành: Giáo dục và phát triển cộng đồng
Mã số: Thí điểm

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

HÀ NỘI - 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

PHÙNG THỊ TÂM

PHỐI HỢP NHÀ TRƯỜNG VỚI CÁC LỰC LƯỢNG XÃ HỘI
TRONG GIÁO DỤC Ý THỨC BÌNH ĐẲNG GIỚI CHO HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THÀNH PHỐ LAI CHÂU

Chuyên ngành: Giáo dục và phát triển cộng đồng
Mã số: Thí điểm

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: VŨ THỊ NGỌC TÚ



HÀ NỘI - 2019


LỜI CẢM ƠN
Trải qua quá trình học tập, nghiên cứu, thực hiện luận văn tốt nghiệp, tôi xin
gửi lời cảm ơn tới:
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Phòng Sau Đại học, Khoa Tâm lí - Giáo dục
học cùng với các thầy cô tham gia giảng dạy chuyên ngành Cao học Giáo dục và
phát triển cộng đồng khóa 27.
TS Vũ Thị Ngọc Tú - Nhà khoa học - Người thầy mẫu mực, tâm huyết luôn cảm
thông, chia sẻ những khó khăn của học trò, khích lệ, động viên, nhiệt tình hướng dẫn
cho em trong quá trình nghiên cứu luận văn tốt nghiệp.
Ủy ban nhân dân, Phòng GD&ĐT, cán bộ quản lí, giáo viên, học sinh các
trường Trung học phổ thông, cùng các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể trên địa bàn
thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu đã tạo những điều kiện, ủng hộ tôi trong suốt
quá trình học tập và nghiên cứu.
Gia đình, bạn bè, đồng nghiệp luôn nhiệt tâm ủng hộ tôi trong suốt chặng
đường đã qua.
Tác giả luận văn

Phùng Thị Tâm

1


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BĐG
CB
CBQL

CMHS
CSVC
ĐTB
GD&ĐT
LLXH
NXB
SL
THPT
UBND


:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:

Bình đẳng giới
Cán bộ
Cán bộ quản lí
Cha mẹ học sinh
Cơ sở vật chất

Điểm trung bình
Giáo dục và Đào tạo
Lực lượng xã hội
Nhà xuất bản
Số lượng
Trung học phổ thông
Ủy ban nhân dân
Cộng đồng

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xã hội ngày càng phát triển thì quyền con người càng được coi trọng
hơn bao giờ hết. Mục tiêu, chuẩn mực cơ bản và trực tiếp mà xã hội chúng ta
hướng đến là xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc. Thế
giới cũng đã chứng minh phát triển con người là tiêu chuẩn cao nhất của sự
phát triển xã hội bởi vì tất cả sự phát triển (phát triển kinh tế, văn hóa, chính trị,
xã hội... đều nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người, phục vụ nhu cầu của con
người) hay nói cách khác con người là trung tâm của sự phát triển. Sự phát
triển xã hội đòi hỏi phải đem lại sự công bằng, /bình đẳng cho cả nam và nữ về
mọi mặt (cơ hội cống hiến và hưởng lợi).
Bình đẳng giới (BĐG) cũng là một trong 8 mục tiêu Phát triển Thiên
niên kỷ được 189 quốc gia thành viên Liên hợp quốc nhất trí phấn đấu đạt
được vào năm 2015 (Tăng cường bình đẳng giới và nâng cao vị thế cho phụ
nữ), nó được ghi trong bản Tuyên ngôn Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc tại
Hội nghị thượng đỉnh Thiên niên kỷ diễn ra từ ngày 6 đến ngày 8 tháng 9 năm
2010 tại trụ sở Đại hội đồng Liên hợp quốc ở New York, Mỹ. Mặt khác, bình
đẳng giới là một vấn đề quan trọng không chỉ vì đó là mục tiêu phát triển

thiên niên kỷ mà đó còn là yếu tố thiết yếu để đạt các mục tiêu phát triển khác
nhằm phát triển bền vững.
Trong những năm qua, nhận thấy được vai trò quan trọng của bình đẳng
giữa nam và nữ đối với sự phát triển bền vững của xã hội, vấn đề BĐG được
Đảng và nhà nước quan tâm đặc biệt. Đã có nhiều chủ trương chính sách thúc
đẩy bình đẳng nam nữ nhằm đảm bảo quyền lợi và phát huy vai trò của phụ
nữ. Tiêu biểu trong số đó là sự ra đời của Luật luật chống bạo hành phụ nữ,
đặc biệt là luật bình đẳng giới đuợc thông qua trong kì họp thứ 10, quốc hội
khóa 11 (21/11/2006). Cùng với sự nỗ lực của các ban ngành, đoàn thể và
người dân thì nước ta đã có những bước tiến ngoạn mục về thực hiện bình
đẳng giới. “Báo cáo phát triển con người, 2011” do UNDP (Chương trình
3


Phát triển của Liên hợp quốc tại Việt Nam) công bố mới đây cho thấy, Việt
Nam xếp thứ 128 trên 187 quốc gia và vùng lãnh thổ, mức trung bình trên thế
giới, về chỉ số phát triển con người (HDI-Human Development Index) nhưng
lại xếp thứ 48 trên thế giới về chỉ số bất bình đẳng giới (thứ hạng càng gần 0
càng thể hiện sự bình đẳng cao). Điều này chứng tỏ chúng ta đã có những
bước tiến vượt bậc trong việc thực hiện bình đẳng giới.
Tuy nhiên trên thực tế vấn đề BĐG ở Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập.
Sự giải phóng phụ nữ chưa đi vào sâu đuợc đời sống của mọi người. Trong
các gia đình ít nhiều vẫn tồn tại các hiện tượng bất bình đẳng giới như chưa
ghi nhận đúng vai trò của nữ giới, sự phân biệt đối xử nam nữ, bạo hành gia
đình mà phần nhiều là bạo hành phụ nữ, sự phân công lao động trong gia đình
chưa hợp lý, nam giới vẫn được coi là trụ cột gia đình, có quyền quyết định
các vấn đề lớn và là người đại diện ngoài cộng đồng. Còn các công việc nội
trợ, chăm sóc các thành viên trong gia đình thường được coi là thiên chức của
phụ nữ.v.v. Điều này là một thiệt thòi lớn đối với mỗi giới nhất là với phụ nữ,
vai trò và vị thế của họ chưa được coi trọng và chưa được đánh giá cao trong

xã hội, ảnh hưởng sâu sắc tới quá trình phát triển kinh tế, văn hóa, chính
trị...của xã hội cũng như ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống và hạnh phúc
của từng gia đình. Giáo dục ý thức BĐG giúp cho mỗi thành viên của cộng
đồng có được nhận thức, thái độ đúng đắn, hành vi, thói quen tích cực trong
bình đẳng giới là hoạt động hết sức có ý nghĩa.
Học sinh THPT là những người đang bước vào tuổi trưởng thành về
mọi mặt - người công dân, người lao động trẻ tuổi đang dần hòa nhập vào
thực tiễn đời sống sôi động nhưng cũng tiềm ẩn nhiều vấn đề phức tạp, trong
đó có tình trạng bất bình đẳng giữa giới. Chính vì vậy, giáo dục ý thức bình
đẳng giới cho học sinh là hoạt động cần được các cấp ủy Đảng, chính quyền,
các cơ quan, ban, ngành đặc biệt quan tâm, thực hiện.
Trên địa bàn thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu có 04 trường THPT
với hơn 2000 học sinh. Trong những năm gần đây, nhận thức được ý nghĩa
4


của giáo dục ý thức bình đẳng giới cho học sinh, cán bộ quản lí, giáo viên của
các nhà trường đã triển khai một số hoạt động cụ thể, song cho đến nay, hoạt
động giáo dục ý thức BĐG cho học sinh tại các nhà trường còn nhiều tồn tại,
những kết quả thu được chưa thực sự tương ứng với tầm quan trọng của hoạt
động này. Để giải quyết được những tồn tại của thực trạng trên, lãnh đạo các
nhà trường cần phải thực hiện bằng nhiều giải pháp mang tính đồng bộ, trong
đó, phối hợp nhà trường với các lượng lượng xã hội (LLXH) trong giáo dục ý
thức BĐG cho học sinh là một giải pháp mang tính phù hợp và có thể mang
lại những kết quả tích cực.
Xuất phát từ những lí do trên chúng tôi lựa chọn đề tài “Phối hợp nhà
trường với các lượng lượng xã hội trong giáo dục ý thức bình đẳng giới cho
học sinh Trung học phổ thông thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu” để tiến
hành nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và thực trạng phối hợp nhà trường với các
lượng lượng xã hội trong giáo dục ý thức bình đẳng giới cho học sinh Trung học
phổ thông thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu hiện nay, luận văn đề xuất một số
biện pháp giáo dục ý thức bình đẳng giới cho học sinh Trung học phổ thông
dựa vào việc huy động sự tham gia, phối hợp thống nhất của các lượng lượng
xã hội góp phần nâng cao chất lượng của hoạt động này tại địa bàn nghiên
cứu và có thể áp dụng ở những địa phương khác có điều kiện, hoàn cảnh
tương tự.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
a. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động giáo dục bình đẳng giới cho học sinh Trung học phổ thông.
b. Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp phối hợp nhà trường với các lượng lượng xã hội trong
giáo dục ý thức bình đẳng giới cho học sinh Trung học phổ thông thành phố
Lai Châu, tỉnh Lai Châu.
5


4. Giả thuyết nghiên cứu
Trong những năm qua, hoạt động giáo dục ý thức bình đẳng giới cho
học sinh Trung học phổ thông thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu từng bước
được chú trọng nhưng việc thực hiện chưa có hiệu quả cao, một bộ phận học
sinh vẫn còn có nhận thức, thái độ và hành vi, thói quen chưa đúng về bình
đẳng giới, điều này ảnh hưởng xấu tới quá trình học tập, rèn luyện và phát
triển của học sinh và chất lượng giáo dục toàn diện của các nhà trường. Nếu
xác định được đúng nguyên nhân của thực trạng và tìm ra các biện pháp phối
hợp nhà trường với các lượng lượng xã hội trong giáo dục ý thức bình đẳng
giới phù hợp thì sẽ nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục ý thức bình đẳng
giới cho học sinh Trung học phổ thông trên địa bàn thành phố.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu

5.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận về phối hợp nhà trường với các lượng
lượng xã hội trong giáo dục ý thức bình đẳng giới cho học sinh Trung học phổ
thông.
5.2. Khảo sát thực trạng phối hợp nhà trường với các lượng lượng xã hội
trong giáo dục ý thức bình đẳng giới cho học sinh Trung học phổ thông thành phố
Lai Châu, tỉnh Lai Châu.
5.3. Đề xuất biện pháp phối hợp nhà trường với các lượng lượng xã hội
trong giáo dục ý thức bình đẳng giới cho học sinh Trung học phổ thông thành
phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu và tiến hành khảo nghiệm các biện pháp đề xuất.
6. Giới hạn nghiên cứu
- Về thời gian: Từ tháng 8 năm 2018 đến tháng 5 năm 2019.
- Về khách thể khảo sát: 33 cán bộ cán bộ quản lí (CBQL), giáo viên (GV)
trường THPT; 42 cán bộ Đảng, chính quyền, ban, ngành, đoàn thể và 131 học sinh
Trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận

6


- Sử dụng nhóm phương pháp này nhằm thu thập và xử lí các tài liệu văn
bản có liên quan đến bình đẳng giới, giáo dục bình đẳng giới, ý thức bình đẳng
giới, giáo dục ý thức bình đẳng giới, phối hợp nhà trường với các lượng lượng
xã hội trong giáo dục ý thức bình đẳng giới cho học sinh Trung học phổ thông.
- Các phương pháp được sử dụng bao gồm: Phương pháp phân tích và
tổng hợp lí thuyết, phương pháp phân loại và hệ thống hóa lí thuyết
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Sử dụng nhóm phương pháp này nhằm thu thập những thông tin về thực
trạng phối hợp nhà trường với các lượng lượng xã hội trong giáo dục ý thức bình
đẳng giới cho học sinh Trung học phổ thông thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu

- Các phương pháp được sử dụng bao gồm: Phương pháp điều tra bằng
phiếu hỏi; phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động; phương pháp tổng
kết kinh nghiệm, phương pháp phỏng vấn.
7.3. Nhóm phương pháp xử lý số liệu
- Sử dụng nhóm phương pháp này nhằm xử lí kết quả điều tra, định
lượng kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn để rút ra các nhận xét khoa học
khái quát về thực trạng phối hợp nhà trường các lực lượng xã hội trong giáo
dục ý thức bình đẳng giới cho học sinh Trung học phổ thông thành phố Lai
Châu, tỉnh Lai Châu
- Các phương pháp được sử dụng bao gồm: Phương pháp sử dụng công thức
toán học như công thức tính giá trị phần trăm, công thức tính giá trị trung bình.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và khuyến nghị,danh mục tài liệu
tham khảo, phụ lục, nội dung chính của luận văn được thể hiện ở 3 chương:
Chương 1. Lí luận về phối hợp nhà trường với các lực lượng xã hội trong
giáo dục ý thức bình đẳng giới cho học sinh Trung học phổ thông
Chương 2. Thực trạng phối hợp nhà trường với các lực lượng xã hội trong
giáo dục ý thức bình đẳng giới cho học sinh Trung học phổ thông thành phố Lai
Châu, tỉnh Lai Châu
7


Chương 3. Biện pháp phối hợp nhà trường với các lực lượng xã hội trong
giáo dục ý thức bình đẳng giới cho học sinh Trung học phổ thông thành phố Lai
Châu, tỉnh Lai Châu

8


Chương 1

LÍ LUẬN VỀ PHỐI HỢP NHÀ TRƯỜNG VỚI CÁC LỰC LƯỢNG
XÃ HỘI TRONG GIÁO DỤC Ý THỨC BÌNH ĐẲNG GIỚI
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan
1.1.1. Trên thế giới
* Nghiên cứu về vấn đề bất bình đẳng
Một là, tư tưởng về giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ
trong lịch sử. Lịch sử nhận loại đã chứng minh, đấu tranh giải phóng phụ nữ,
thực hiện BĐG là nội dung không thể thiếu trong cuộc đấu tranh cho quyền
con người. Các nhà tư tưởng của giai cấp bóc lột vì bảo vệ chế độ thống trị
biện hộ cho “giá trị không đầy đủ” của người phụ nữ. Theo họ, “đàn bà đã là
nô lệ của đàn ông”, cho nên sự lệ thuộc của họ vào đàn ông là lẽ dĩ nhiên. Đối
lập quan điểm này, các nhà tư tưởng tiến bộ, đặc biệt là các nhà tư tưởng
XHCN không tưởng (Campanela, Tô Mat Morơ, Giăng Mêliê, G.Ba Bớp,
G.Uyn xtenly...) đã phê phán gay gắt, sâu sắc sự phân chia xã hội thành các
đẳng cấp, căn nguyên đẩy người phụ nữ tới tận cùng của áp bức. Dựa trên cơ
sở triết lý về “quyền bình đẳng tự nhiên”, Giăng Mêliê (1664 -1729) cho rằng,
con người ta sinh ra vốn có sự bình đẳng, bởi vì nó là sự “ban phát của tự
nhiên”; mọi sự bất BĐG được nảy sinh lại từ “chính con người”. Phuriê
(1772-1837) phê phán gay gắt chế định hôn nhân tư sản bị biến dạng thành
giao kèo buôn bán, hợp thức hóa sự sa đọa làm cho phụ nữ bị vô quyền. Ông
đã đưa ra luận điểm nổi tiếng, “giải phóng phụ nữ là thước đo mức độ tự do
trong mọi xã hội” [41, tr.176].
Trong tác phẩm “Đảo không tưởng” của Tô Mat Morơ đã giành cho trẻ
em trai và trẻ em gái sự giáo dục bình đẳng như nhau. Trong bức thư cuối
cùng gửi vợ con trước khi bị tử hình, G.Ba Bớp viết: “Tôi không thấy cách
nào khác làm cho em và các con hạnh phúc ngoài con đường đảm bảo đời
9



sống yên vui, hạnh phúc của mọi người” [41, tr.152]. G.Uyn xtenly, trong
“Luật hôn nhân” nhấn mạnh: “chống sự bạc đãi xảy ra trong mỗi gia đình,
nhất là đối với phụ nữ và trẻ em”. Như vậy, tư tưởng và hành động của các
nhà XHCN không tưởng về bình đẳng giữa nam và nữ thể hiện tính nhân văn,
có những giá trị lịch sử đối với nhân loại, thời đại.
Hai là, các nhà kinh điển Mác-Lênin luận giải thực hiện bình đẳng nam
nữ trong cách mạng XHCN. Kế thừa những tinh hoa trí tuệ của nhân loại,
cùng với trí tuệ uyên bác của mình, C.Mác, Ph.Ăngghen đã thực hiện cuộc
cách mạng thực sự về lý luận trong vấn đề thực hiện bình đẳng nam nữ. Trong
tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu, và của nhà nước”,
Ph.Ăngghen đã khái quát sự biến đổi địa vị của người phụ nữ qua hai thời kỳ
lịch sử lớn (mẫu quyền và phụ quyền); đồng thời, chỉ ra căn nguyên của sự
bất bình đẳng giữa nam và nữ (do xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất;
do ý đồ nô dịch về kinh tế của người đàn ông đối với người đàn bà; do ý
muốn để các của cải lại cho con cái của người đàn ông). Vì vậy, chế độ hôn
nhân cá thể quyết không phải đã xuất hiện trong lịch sử như sự hòa giải giữa
đàn ông và đàn bà mà “trái lại, nó thể hiện ra là một sự nô dịch của giới này
đối với giới kia, là việc tuyên bố sự xung đột giữa hai giới, sự xung đột mà
người ta chưa từng thấy trong suốt thời kỳ tiền sử” [28, tr.104].
V.I.Lênin bảo vệ, phát triển quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen trong
điều kiện mới, đồng thời đấu tranh chống lại luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa
Mác về vấn đề hôn nhân - gia đình, vạch trần bộ mặt thật của chế độ tư bản,
Hiến pháp tư sản. Theo V.I.Lênin, bình đẳng nam nữ không đồng nghĩa với sự
ngang bằng theo kiểu phụ nữ tham gia lao động với năng suất, khối lượng,
thời gian và điều kiện lao động như nam giới, bởi “ngay trong điều kiện hoàn
toàn bình đẳng, thì sự thật phụ nữ vẫn bị trói buộc vì toàn bộ công việc gia
đình đều trút lên vai phụ nữ” [21, tr.321].
Ba là, cuộc đấu tranh nhằm thực hiện bình đẳng nam nữ không thể tách
rời các công trình nghiên cứu về giới, BĐG. Một trong những đỉnh cao của
10



phong trào là trào lưu “Phụ nữ trong phát triển” (Women in the development WID) diễn ra ở những nước phát triển như Anh, Pháp, Mỹ... những năm 1970.
Cách tiếp cận nổi bật của WID là phụ nữ đã có đóng góp lớn cho sự phát triển.
Tuy trào lưu WID đạt được một số kết quả nhất định, song sau hai thập niên, sự
bất BĐG, sự thấp kém về địa vị của người phụ nữ vẫn tiếp diễn.
Ở thập kỷ 1980, xuất hiện một trào lưu mới “Giới và sự phát triển”
(Gender and the development - GAD). GAD đã khắc phục được những hạn chế
của WID. GAD lấy con người (cả nam và nữ) làm trung tâm, hướng vào việc
xóa bỏ bất BĐG trên cơ sở đáp ứng lợi ích chính đáng của cả nam và nữ. Mục
tiêu của GAD là làm cho hai giới phát triển hài hòa, đồng trách nhiệm để thúc
đẩy xã hội phát triển. Tuy gặp nhiều thách thức, song phương pháp tiếp cận về
giới, BĐG đã thu hút sự chú ý, ủng hộ của nhiều quốc gia, của các nhà khoa
học. Ngày 18/12/1979 Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với
phụ nữ đã được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua. Cho đến nay, nó là
Công ước về nhân quyền xếp thứ hai (sau Công ước về quyền trẻ em) về số các
thành viên tham gia ký kết và phê chuẩn. Chưa có bao giờ cuộc đấu tranh cho
BĐG nhận được sự ủng hộ rộng rãi của nhiều quốc gia như hiện nay.
* Nghiên cứu về cộng đồng, mối quan hệ giữa nhà trường với gia đình
và xã hội trong giáo dục nhân cách học sinh. Giáo dục là một hiện tượng xã
hội lịch sử. Ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, cách tiếp cận nghiên cứu về
mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình với cộng đồng không hoàn toàn như
nhau. Song, các công trình nghiên cứu về mối quan hệ này trong lịch sử và
cho đến hiện nay đều tập trung luận giải sự cần thiết, tầm quan trọng của phối
hợp giữa nhà trường, gia đình với cộng đồng trong quá trình giáo dục.
Nhiều công trình khoa học đã khẳng định vai trò to lớn của nhà trường,
gia đình, cộng đồng trong giáo dục. Chẳng hạn, J.A.Komenxki (1592-1670),
V.A.Xukhomlinxki (1918-1970) là những người nghiên cứu khá toàn diện, có
hệ thống lý luận khoa học về vai trò, mục đích, nội dung, hình thức của bộ
phận của mối quan hệ thống nhất hữu cơ giữa nhà trường với gia đình và với

11


xã hội đối trong quá trình giáo dục học sinh. Ở một số nước phương Tây hiện
nay cũng đã đề cao hơn về sự cần thiết, vai trò, trách nhiệm của nhà trường,
gia đình và cộng đồng trong giáo dục nhân cách thế hệ trẻ. Đồng thời, đi sâu
nghiên cứu về mối quan hệ giữa nhà trường với gia đình trong chăm sóc, giáo
dục, bảo vệ trẻ em trước vấn nạn bạo lực, buôn bán, xâm hại nhân phẩm phụ
nữ, trẻ em. Đề cập đến vấn đề này, Alan Johnson đã kêu gọi cha mẹ không
nên phó thác việc giáo dục con em mình cho nhà trường. Theo Ông, tham gia
của gia đình trong phối hợp với nhà trường và cộng đồng sẽ có ý nghĩa xã hội
sâu sắc trong quá trình giáo dục thế hệ mới lớn.
1.1.2. Ở Việt Nam
* Nghiên cứu về vấn đề bình đẳng giới
Một là, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước đã có sự quan tâm đặc biệt về giải phóng phụ nữ và BĐG.
Sinh thời, Hồ Chí Minh khẳng định, trong mỗi gia đình phụ nữ phải được tôn
trọng, bởi “chúng ta làm cách mạng là để tranh lấy bình quyền, bình đẳng, trai
gái đều ngang quyền như nhau” [32, tr.195]. Người nghiêm khắc phê bình
hiện tượng đàn ông đánh chửi vợ, phê bình các cấp bộ Đảng, chính quyền,
đoàn thể bao che hoặc làm ngơ, thậm chí cũng có những đảng viên đánh vợ.
Như vậy, tư tưởng của Người đã đặt nền móng cơ bản cho việc xây dựng gia
đình “ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”, một đảm bảo cho sự BĐG.
Quan điểm BĐG ở những Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng về công tác phụ
nữ, như: Nghị quyết 04/NQ-TƯ ngày 12/7/1993 của Bộ Chính trị Trung ương
Đảng về đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới;
Chỉ thị 37-CT/TƯ ngày 16-5-1994 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về một số
vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới. Trong đó, Đảng ta xác định rõ:
“Chống lại những biểu hiện lệch lạc, coi thường phụ nữ, khắt khe, hẹp hòi trong
đánh giá cán bộ nữ”; Nghị quyết 11-NQ/TƯngày 27/4/2007 của Ban Chấp hành

Trung ương Đảng về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Mục tiêu mà Nghị quyết 11-NQ/TƯ đề ra là: “Phấn đấu để
12


nước ta là một trong các quốc gia có thành tựu BĐG tiến bộ nhất khu vực” [dẫn
theo 8]..
Trong các bản Hiến pháp1946 và Hiến pháp sửa đổi, bổ sung vào các năm
1959, 1980 và 1992 quy định: Công dân nam nữ có quyền ngang nhau về mọi
mặt chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội và gia đình. Nghiêm cấm hành vi phân biệt
đối xử đối với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ [(Điều 63, Hiến pháp năm
1992)]. Luật BĐG do Quốc hội thông qua ngày 29/11/2006 là sự thể hiện
quyết tâm của Nhà nước và ý chí của toàn dân về vấn đề thúc đẩy BĐG.
Những nguyên tắc cơ bản được Luật BĐG ở nước ta xác định: Nam nữ bình
đẳng trong các lĩnh vực đời sống xã hội và gia đình; nam nữ không bị phân
biệt, đối xử về giới; biện pháp thúc đẩy BĐG không bị coi là phân biệt đối xử
về giới, bảo đảm lồng ghép vấn đề BĐG trong xây dựng và thực thi luật pháp,
thực hiện BĐG là trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình và cá nhân. Chiến
lược quốc gia về BĐG năm 2011-2020 chỉ rõ: “Đến năm 2020, về cơ bản, bảo
đảm BĐG thực chất giữa nam và nữ về cơ hội, sự tham gia và thụ hưởng trên
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, góp phần vào sự phát triển
nhanh và bền vững của đất nước” [5].
Hai là, nghiên cứu về Giới, BĐG với tư cách là một ngành khoa học
độc lập xuất hiện ở nước ta vào nửa cuối những năm 1980. Sau khi ra đời,
khoa học nghiên cứu về Giới, BĐG đã nhận được sự quan tâm, ủng hộ của
các cấp lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các nhà khoa học và toàn xã hội. Đầu
những năm 1990, nghiên cứu về Giới, BĐG có bước đột phá cách tiếp cận về
phụ nữ. Cùng với nó là sự biến đổi nhanh chóng trong quan niệm, thái độ,
hành vi của xã hội và thực tiễn tạo lập BĐG ở mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội thời kỳ đổi mới. Trong tổ chức hoạt động thực tiễn, các lớp tập huấn về

giới, BĐG dành cho những nhà nghiên cứu, các cán bộ dự án hay các nhà
quản lý các ban, ngành, đoàn thể, cán bộ cơ sở và đông đảo phụ nữ và nam
giới cả ở nông thôn và thành thị.

13


Ba là, các công trình khoa học đã tiếp cận giới trong nghiên cứu vấn đề
BĐG ở Việt Nam đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Ở nước ta, việc nghiên
cứu về bình đẳng nam nữ được đề cập chủ yếu từ thời kỳ lịch sử cận đại và hiện
đại. Ban đầu, vấn đề nghiên cứu về bình đẳng giữa nam và nữ được đề cập trong
văn học, nghệ thuật, thi ca, sử học…. Các công trình khoa học đề cập tới người
phụ nữ ở khía cạnh: họ đã đóng góp rất lớn cho gia đình, xã hội, nhưng vị thế của
họ lại rất thấp kém. Nghiên cứu về phụ nữ đi sâu nhấn mạnh mặt tự nhiên của phụ
nữ. Tuy vậy, một số công trình nghiên cứu đã tuyệt đối hóa mặt tự nhiên, coi đó là
yếu tố không thể thay đổi được, chi phối các đặc điểm có tính chất xã hội. Những
hạn chế, phiến diện trong nghiên cứu phụ nữ đã ảnh hưởng đến cách đặt vấn đề về
bình đẳng nam nữ trong gia đình và xã hội. Đáng chú ý, từ những năm 1990 đến
nay, Việt Nam đã có nhiều dự án quốc gia, nhiều đề tài liên kết với các nước, các
tổ chức quốc tế nghiên cứu về giới và những vấn đề có liên quan đến BĐG, giáo
dục giới, BĐG cho mọi tầng lớp nhân dân, trong đó có học sinh, sinh viên. Các
khía cạnh được các công trình khoa học nghiên cứu đã công bố, như: Giáo dục
sức khỏe sinh sản; Giáo dục về tình yêu trong thanh niên, học sinh; Giáo dục đời
sống gia đình.
* Nghiên cứu về cộng đồng, về mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình
và cộng đồng trong giáo dục nhân cách thế hệ trẻ
Có nhiều công trình nghiên cứu về cộng đồng. Mỗi công trình nghiên
cứu có cách tiếp cận riêng và đưa lại những giá trị của nó. Dựa vào địa lý,
cộng đồng được hiểu là cùng địa bàn, cùng lợi ích hoặc mối quan tâm, có
chung đặc điểm văn hóa-xã hội, có mối quan hệ ràng buộc nhất định. Dựa vào

chức năng, cộng đồng được quan niệm là cùng hoặc không cùng điạ phương
hoặc địa bàn cư trú, nhưng có cùng lợi ích (nghề nghiệp, sở thích, hợp tác,...).
Tác giả Nguyễn Đức Vinh quan niệm: Cộng đồng gồm những người có đặc
điểm hoặc mối quan tâm, lợi ích chung. Theo đó, tác giả quan niệm, cộng
đồng được đặc trưng bởi sự gắn kết các quan hệ, sự hỗ trợ lẫn nhau, sự tôn
trọng, chia sẻ, chấp nhận nhau và ý thức về lòng tự hào chung. Nó tạo ra các
14


cơ hội và sự tự do lựa chọn cho mọi người, tôn trọng sự đa dạng, cộng tác để
chia sẻ trách nhiệm vì mục đích chung [dẫn theo 8].
Giáo dục liên quan đến mọi người, là lợi ích của mọi người, của gia
đình và cộng đồng. Sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội là yêu
cầu khách quan. Đánh giá vai trò của sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình
và xã hội trong giáo dục, Hồ Chí Minh khẳng định: muốn giáo dục trẻ em
thành người tốt, nhà trường, đoàn thể, gia đình và xã hội đều phải kết hợp
chặt chẽ với nhau. Trong các nghị quyết của Đảng, các văn bản của Nhà nước
cũng đã nhiều lần khẳng định về vai trò của giáo dục, sự phối hợp giữa nhà
trường, gia đình với cộng đồng trong giáo dục nhân cách thế hệ trẻ cũng như
giáo dục BĐG cho học sinh nói riêng. Bởi một lẽ, “phát triển giáo dục là sự
nghiệp của toàn xã hội, của Nhà nước và mỗi cộng đồng, của từng gia đình và
mỗi công dân. Cần kết hợp tốt giáo dục học đường với giáo dục gia đình và
giáo dục xã hội, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh; người lớn làm
gương cho con trẻ noi theo.”…[23, tr.9]; “Nhà trường có trách nhiệm chủ
động phối hợp với gia đình và xã hội để thực hiện mục tiêu, nguyên lý giáo
dục” [dẫn theo 8].
Một số công trình khoa học dưới dạng sách, đề tài, bài viết, luận văn,
luận án đã nghiên cứu về vai trò, nhiệm vụ của gia đình, nhà trường và cộng
đồng xã hội đối với sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ, trong đó có giáo dục BĐG
cho học sinh, sinh viên. Chẳng hạn: “Xã hội hoá công tác giáo dục” của Phạm

Minh Hạc; “Suy nghĩ về trách nhiệm của gia đình đối với việc giáo dục thiếu
niên nhi đồng” của Nguyễn Đức Minh; “Văn hoá gia đình với việc hình thành
và phát triển nhân cách trẻ em” của Võ Thị Cúc; “Quản lý công tác phối hợp
giữa nhà trường với cha mẹ học sinh ở các trường trung học cơ sở vùng nông
thôn thị xã Bà Rịa” của Dương Văn Thạnh (2007); “Cần sự phối hợp ba môi
trường nhà trường, gia đình và xã hội” của La Thị Thúy (2017);…
Nhìn chung, các công trình khoa học nghiên cứu về sự phối hợp giữa
nhà trường, gia đình và cộng đồng xã hội đã khẳng định mục đích, ý nghĩa, sự
15


cần thế về phối hợp giữa nhà trường với gia đình và cộng đồng đối với giáo
dục học sinh. Một số công trình khoa học đã bàn đến nội dung, phương thức,
giáo dục nhân cách học sinh dựa vào cộng đồng. Tuy nhiên, việc phối hợp nhà
trường với các lực lượng xã hội trong giáo dục ý thức BĐG cho học sinh
THPT chưa thực sự được quan tâm nghiên cứu. Một số công trình khoa học đã
bàn về khái niệm, nội dung, phương thức, giải pháp nâng cao hoạt động giáo dục
BĐG cho học sinh, sinh viên, nhưng chưa có hệ thống. Những kết quả đạt được
trong nghiên cứu về BĐG, giáo dục BĐG cho học sinh, sinh viên có giá trị nhất
định. Nó là cơ sở cho tác giả của luận văn kế thừa, tiếp thu trong quá trình
nghiên cứu đề tài của mình.
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Cộng đồng, lượng lượng xã hội và phối hợp nhà trường với các
lượng lượng xã hội
1.2.1.1. Cộng đồng
CĐ được hiểu theo nghĩa chung nhất là: “một cơ thể sống/cơ quan/tổ
chức nơi sinh sống và tương tác giữa cái này với các khác” [22]. Trong khái
niệm này, điều đáng chú ý, được nhấn mạnh: CĐ là “cơ thể sống”, có sự
“tương tác” của các thành viên. Tuy nhiên, các nhà khoa học, trong khái niệm
này không chỉ cụ thể “cái này” với “cái khác” là cái gì, con gì. Đó có thể là

các loại thực vật, cũng có thể là các loại động vật, cũng có thể là con người –
CĐ người.
CĐ là hình thức chung sống trên cơ sở sự gần gũi của các thành viên về
mặt cảm xúc, hướng tới sự gắn bó đặc biệt mật thiết (gia đình, tình bạn CĐ
yêu thương) được chính họ tìm kiếm và vì thế được con người cảm thấy
có tính cội nguồn. Và CĐ được xem là một trong những khái niệm nền
tảng nhất của xã hội học, bởi vì nó mô tả những hình thức quan hệ và quan
niệm về trật tự, không xuất phát từ các tính toán lợi ích có tính riêng lẻ và
được thỏa thuận theo kiểu hợp đồng mà hướng tới một sự thống nhất về tinh
thần - tâm linh bao quát hơn và vì thế thường cũng có ưu thế về giá trị.
16


CĐ người có tính đa dạng, tính phức tạp hơn nhiều so với các CĐ sinh
vật khác. Trong đời sống xã hội, khái niệm CĐ có nhiều tuyến nghĩa khác
nhau đồng thời CĐ cũng là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học
khác nhau: xã hội học, dân tộc học, y học…
Khi nói tới CĐ người, người ta thường quy vào những “nhóm xã hội” có
cùng một hay nhiều đặc điểm chung nào đó, nhấn mạnh đến đặc điểm chung
của những thành viên trong CĐ.
Theo quan điểm Mac - Lênin, CĐ là mối quan hệ qua lại giữa các cá
nhân, được quyết định bởi sự CĐ hóa lợi ích giống nhau của các thành viên
về các điều kiện tồn tại và hoạt động của những người hợp thành CĐ đó, bao
gồm các hoạt động sản xuất vật chất và các hoạt động khác của họ, sự gần gũi
các cá nhân về tư tưởng, tín ngưỡng, hệ giá trị chuẩn mực cũng như các quan
niệm chủ quan của họ về các mục tiêu và phương tiện hoạt động.
Quan niệm về CĐ theo quan điểm trên là quan niệm rất rộng, có tính khái
quát cao, mang đặc thù của kinh tế - chính trị. Dấu hiệu đặc trưng chung của
nhóm người trong CĐ này chính là “điều kiện tồn tại và hoạt động”, là “lợi ích
chung”, là “tư tưởng”, “tín ngưỡng”, “giá trị”chung…Thực chất đó là CĐ mang

tính giai cấp, ý thức hệ.
Xuất phát từ tiếng La tinh, “Cộng đồng” – communis có nghĩa là
“chung/công cộng/được chia sẻ với mọi người hoặc nhiều người”. Đặc điểm/
dấu hiệu chung của CĐ này chính là đặc điểm để phân biệt nó với CĐ khác.
Dấu hiệu/đặc điểm để phân biệt CĐ này với CĐ khác có thể là bất cứ
cái gì thuộc về con người và xã hội loài người, màu da, đức tin, tôn giáo,
lứa tuổi, ngôn ngữ, nhu cầu, sở thích nghề nghiệp… nhưng cũng có thể là
vị trí địa lý của khu vực (địa vực), nơi sinh sống của nhóm người đó như
làng, xã, quận/huyện, quốc gia, châu lục… Những dấu hiệu này chính là
những ranh giới để phân chia CĐ.
Theo từ điển xã hội học của Harper Collins, CĐ được hiểu là “mọi phức
hợp các quan hệ xã hội được tiến hành trong lĩnh vực cụ thể, được xác định về
17


mặt địa lý, hàng xóm hay những mối quan hệ mà không hoàn toàn về mặt cư
trú, mà tồn tại ở một cấp độ trừu tượng hơn”.
Tóm lại, qua những phân tích trên, theo chúng tôi, trong đời sống xã
hội, cộng đồng là tập hợp người sinh sống, có những điểm giống nhau, gắn
bó thành một khối trong sinh hoạt xã hội dựa trên những tiêu chí, nguyên tắc
xác định.
1.2.1.2.. Lực lượng xã hội, phối hợp nhà trường với các lượng lượng xã hội
* Lực lượng xã hội
Theo vốn hiểu biết của người nghiên cứu, cho đến nay, chưa có tài liệu nghiên
cứu, chưa có tác giả nào đề cập một cách rõ ràng về khái niệm “Lực lượng xã hội”.
Tuy nhiên, từ những tài liệu đã có chúng tôi cho rằng: Lực lượng xã hội là tập hợp
những cá nhân và tập thể tích cực, cùng sinh sống trên một địa bàn cư trú, một thời
kì cụ thể và có cùng chung mục đích xây dựng và phát triển xã hội ngày càng tốt
đẹp hơn.


* Phối hợp
Theo từ điển Tiếng Việt, phối hợp được hiểu là “Hợp lại với nhau, hỗ trợ
lẫn nhau để cùng hành động hoặc hoạt động hay cùng quan tâm và có sự kết
hợp gữa các ban ngành” [35; tr1238 - 1239].
Theo quan niệm thông thường: Phối hợp là hoạt động cùng nhau của hai
hay nhiều cá nhân, tổ chức để hỗ trợ cho nhau thực hiện một công việc chung.
* Phối hợp các lượng lượng xã hội
Phối hợp các LLXH được hiểu là sự hợp tác, trao đổi, cùng thống nhất
hành động và hỗ trợ nhau gữa các lực lượng trong quá trình thực hiện mục đích
và nhiệm vụ chung.
1.2.1.3. Phối hợp và phối hợp các lượng lượng xã hội trong giáo dục ý
thức bình đẳng giới cho học sinh
Phối hợp các LLXH trong giáo dục ý thức bình đẳng giới cho học sinh
được hiểu là sự hợp tác, trao đổi, cùng thống nhất hành động và hỗ trợ nhau thực
hiện nhiệm vụ giáo dục ý thức BĐG cho học sinh giữa các lực lượng trong xã
hội.
18


Quá trình phối hợp nhà trường với các LLXH xét trong đề tài này được giới
hạn là nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động giáo dục ý thức
BĐG cho học sinh.
1.2.2. Giới và bình đẳng giới
1.2.2.1. Giới
Nhìn từ góc độ xã hội, Giới (gender) là một thuật ngữ chỉ vai trò, trách
nhiệm và quyền lợi mà xã hội quy định cho nam và nữ. Đặc trưng cơ bản nhất
của giới là do dạy và học mà có, Vì vậy, những đặc trưng về giới mang tính xã
hội, do xã hội quy định. Giới thể hiện các đặc trưng của xã hội của phụ nữ và
nam giới nên rất đa dạng. Nó phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, văn
hóa của mỗi quốc gia, của các giai tầng xã hội. Các quan niệm, hành vi, chuẩn

mực xã hội về giới hoàn toàn có thể thay đổi được.
Theo góc độ xã hội, giới là những đặc điểm mà xã hội tạo nên ở người
nam và người nữ; là quy định của xã hội về người nam và người nữ, là những
đặc trưng xã hội ở nam và nữ. Đó là giới xã hội. Giới xã hội thường bao gồm các
vấn đề về vai trò, vị trí của mỗi giới, đặc điểm và nhiệm vụ của mỗi giới trong xã
hội… Những vấn đề này thường do xã hội quy định. Chúng biến đổi theo từng
giai đoạn lịch sử, ở mỗi quốc gia, tuỳ theo truyền thống, phong tục tập quán của
mỗi dân tộc. Giới đề cập đến “vai trò và trách nhiệm của nam giới và phụ nữ
được tạo ra trong gia đình, xã hội và nền văn hóa của chúng ta. Khái niệm giới
cũng liên quan tới những mong đợi về đặc điểm, khả năng và những hành vi,
ứng xử của cả phụ nữ và nam giới (nữ tính và nam tính)” [39].
Như vậy, giới là một tập hợp người trong xã hội có những đặc điểm sinh
học cơ bản giống nhau, bao gồm hai loại thuộc tính, thuộc tính sinh lý cơ thể và
thuộc tính xã hội.
Xét về mặt sinh lý cơ thể, giới là những đặc điểm bẩm sinh, có tính di
truyền. Xét về mặt xã hội, giới là những đặc điểm do xã hội tạo ra, do những
quy định, luật lệ, đòi hỏi của xã hội đối với con người là nam hay nữ. Ban đầu
dưới ảnh hưởng của đặc tính về sinh lý cơ thể như chiều cao, tầm vóc, sức
19


mạnh,… người nam và người nữ được phân công những công việc, những vai
trò khác nhau trong đời sống xã hội. Dần dần ở mỗi người, mỗi giới tạo nên
những đặc tính về mặt xã hội như vai trò của gia đình, địa vị xã hội… Giới
được thể hiện ở vai trò, chức năng, nghĩa vụ xã hội. Như vậy, giới có thể được
hiểu là giới sinh học hay giới xã hội.
Ở mặt xã hội, giới có nhiều vấn đề được quan tâm bao gồm: Vai trò của
nam, nữ trong xã hội; những quan điểm đánh giá về vai trò của nam, nữ trong
xã hội; sự phát triển, tiến bộ của con người ở mỗi giới trong xã hội; mối quan
hệ xã hội và sự cư xử giữa hai giới. Ngày nay, trong xã hội, tồn tại nhiều vấn

đề phức tạp về giới xã hội, như: vấn đề BĐG, quan hệ giữa hai giới, vấn đề
giới tính ở mỗi giới… Gần đây còn xuất hiện những biểu hiện phức tạp như
quan điểm yêu đương ngoài hôn nhân, tình dục ngoài hôn nhân, tình bạn và sự
giao tiếp giữa những người khác giới.
Dựa vào nội dung trên, có thể quan niệm: Giới tính được hiểu một cách
đầy đủ, toàn diện cả sinh lý và tâm lý, cá nhân và xã hội, hôn nhân và gia đình,
tình yêu và tình bạn, và biểu hiện trong các quan hệ xã hội, trực tiếp là quan hệ
giữa nam giới và nữ giới.
1.2.2.2. Bình đẳng giới
Bình đẳng giới là một vấn đề rất quan trọng được cả xã hội quan tâm.
Một trong những vấn đề cơ bản nhất của vấn đề đấu tranh của giải phóng phụ
nữ là quyền bình đẳng giữa nam và nữ. Điều 5 (khoản 3) Luật BĐG nước ta
khẳng định: BĐG là “việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều
kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng,
của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó”.
Bình đẳng giới là sự thừa nhận và coi trọng như nhau về các đặc điểm
giống và khác nhau giữa nam giới và nữ giới; là nam giới và nữ giới cùng có
vị thế bình đẳng và được tôn trọng như nhau; cùng được tạo điều kiện và cơ
hội để phát huy khả năng và thực hiện các mong muốn của mình; cùng có cơ

20


hội để tham gia, đóng góp và thụ hưởng từ các nguồn lực của xã hội và quá
trình phát triển.
Bình đẳng giới có nghĩa là những ứng xử, những khát vọng và những
nhu cầu khác nhau của phụ nữ và nam giới đều được cân nhắc, đánh giá và
ủng hộ như nhau. Tuy vậy, BĐG không có nghĩa phụ nữ và nam giới phải trở
thành như nhau, nhưng các quyền, trách nhiệm và các cơ hội của họ sẽ không
phụ thuộc vào họ sinh ra là nam giới hay phụ nữ.

Có thể hiểu, BĐG là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau về quyền
lợi và nghĩa vụ đối với những vấn đề liên quan đến bản thân, gia đình và xã hội.
1.2.3. Giáo dục và giáo dục ý thức bình đẳng giới
1.2.3.1. Ý thức bình đẳng giới
Trong quá trình tiến hóa của sinh vật, mốc phân biệt rõ ràng nhất giữa
con vật và con người đó là ý thức. Ý thức là một cấp độ phản ánh tâm lý đặc
trưng cao cấp chỉ ở con người mới có.
Ý thức là hình thức phản ánh tâm lý cao nhất chỉ có ở người, là quá
trình phản ánh bằng ngôn ngữ những gì con người đã tiếp thu được trong quá
trình quan hệ qua lại với thế giới khách quan.
Ý thức có một cấu trúc tâm lý phức tạp bao gồm 3 mặt thống nhất với
nhau, điều khiển hoạt động ý thức của con người:
+ Mặt nhận thức: Đây là nội dung cơ bản của ý thức, là hạt nhân của ý
thức giúp con người hình dung ra kết quả hoạt động và hoạch định kế hoạch
hành vi
+ Mặt thái độ của ý thức: nói lên thái độ lựa chọn, thái độ cảm xúc thái độ
đánh giá của chủ thể vơi hành vi.
+ Mặt năng động của ý thức: Ý thức điều khiển điều chỉnh hoạt động của
con người làm cho hoạt động của con ngươi có ý thức. Đó là quá trình con
người vận dụng những hiểu biết và tỏ thái độ của mình nhằm thích nghi, cải
tạo thế giới và cải biến bản thân.

21


Theo tiếp cận Giáo dục học, ý thức được hiểu là “khả năng của con
người phản ánh và tái hiện thực tiễn khách quan vào trong tư duy” [Bùi
Hiền]. Ý thức không chỉ phản ánh thực tiễn khách quan mà còn dựa trên cơ sở
phản ánh đó sáng tạo ra hiện thực mới thông qua hoạt động động thực tiễn của
mình. Ý thức chi phối trực tiếp suy nghĩ và việc làm của mỗi người. Do đó,

“giáo dục có vai trò và ảnh hưởng quyết định đến việc hình thành ý thức cá
nhân của học sinh”[Bùi Hiền].
Từ những phân tích trên chúng tôi nhận thấy rằng, khi đề cập đến ý
thức các nhà nghiên cứu thường đề cập đến ba thành phần hợp thành, đó là
nhận thức, thái độ và hành vi. Những thành phần này luôn tác động qua lại lẫn
nhau và được hình thành trong quá trình lây dài.
1.2.3.2. Giáo dục và giáo dục ý thức bình đẳng giới
* Giáo dục
Theo tác giả Trần Thị Tuyết Oanh và các cộng sự “Giáo dục là quá trình
tác động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch, có nội dung và bằng phương
pháp khoa học của nhà giáo dục tới người được giáo dục trong các cơ quan
giáo dục nhằm hình thành nhân cách cho họ” [34; tr 22].
Theo tác giả Nguyễn Lân “Giáo dục là một quá trình có ý thức có mục
đích, có kế hoạch nhằm truyền cho lớp mới những kinh nghiệm đấu tranh và
sản xuất, những tri thức về tự nhiên, về xã hội, về tư duy, để họ có thể có đầy
đủ khả năng tham gia vào đời sống và đời sống xã hội” [19].
Theo tác giả Nguyễn Sinh Huy “Giáo dục là sự hình thành có mục đích
và có tổ chức những sức mạnh thể chất và tinh thần của con người, hình thành
thế giới quan, bộ mặt đạo đức và thị hiếu thẩm mĩ cho con người; với nghĩa
rộng nhất, khái niệm này bao hàm cả giáo dưỡng, dạy học và tất cả những yếu
tố khác tạo nên những nét tính cách và phẩm hạnh của con người, đáp ứng
yêu cầu của kinh tế xã hội” [12].
Dù xét trên các góc độ, phạm vi khác nhau, chúng ta có thể nhận thấy:
Giáo dục là một quá trình toàn vẹn hình thành nhân cách, được tổ chức một
22


cách có mục đích và kế hoạch, thông qua các hoạt động và quan hệ giữa
người giáo dục và người được giáo dục, nhằm truyền đạt và chiếm lĩnh những
kinh nghiệm xã hội loài người.

Như vậy: Giáo dục luôn là một quá trình có mục đích, có kế hoạch, là
quá trình tác động qua lại giữa nhà giáo dục và người được giáo dục.
* Học sinh
Học sinh, người đi học trong độ tuổi tại các trường phổ thông, trung học
chuyên nghiệp và dạy nghề. Học sinh có nhiệm vụ học tập, rèn luyện theo
chương trình, kế hoạch giáo dục, thực hiện nội quy, điều lệ của nhà trường [9].
Học sinh có quyền được tôn trọng và đối xử bình đẳng, được cung cấp
đầy đủ thông tin về việc học tập của mình, được học trước tuổi vượt lớp, lưu
ban theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, được tham gia các hoạt động
đoàn thể và tổ chức xã hội trong nhà trường theo quy định của pháp luật.
* Giáo dục ý thức bình đẳng giới cho học sinh
Giáo dục ý thức BĐG cho học sinh là hoạt động có định hướng, có tổ
chức, có chủ định của chủ thể giáo dục mà tới học sinh (người được giáo
dục) nhằm giúp cho họ có được nhận thức đầy đủ về BĐG, trên cơ sở đó hình
thành thái độ và hành vi ứng xử trong quan hệ về giới đúng đắn.
1.3. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh Trung học phổ thông
Theo các tài liệu nghiên cứu Tâm lý học, học sinh THPT là học sinh
đang theo học tại các trường THPT. Đây là lứa tuổi ở thời kỳ đầu thanh
niên trong độ tuổi 16, 17, 18 tuổi, ở thời kỳ này sự phát triển thể chất và
tâm lý của học sinh rất mạnh mẽ [10].
Sự phát triển tâm lý mang tính quy luật, ở lứa tuổi học sinh THPT ngự
trị quy luật về tính mất cân đối tạm thời, tính mâu thuẫn và quy luật về tính
không đồng đều của sự phát triển, thể hiện ở tất cả các lĩnh vực của nhân
cách: trẻ phát triển với tốc độ khác nhau, nhưng đó lại là tính độc đáo. Các
điều kiện phát triển tâm lý ở lứa tuổi học sinh trung học: hoạt động học tập,
các hoạt động chung khác, hoạt động giao tiếp với những người xung quanh.
23



×