Tải bản đầy đủ (.doc) (154 trang)

PHỐI hợp các lực LƯỢNG CỘNG ĐỒNG TRONG tư vấn HƯỚNG NGHIỆP CHO học SINH ở các TRƯỜNG TRUNG học PHỔ THÔNG QUẬN bắc từ LIÊN, THÀNH PHỐ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (821.39 KB, 154 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ THANH

PHỐI HỢP CÁC LỰC LƯỢNG CỘNG ĐỒNG
TRONG TƯ VẤN HƯỚNG NGHIỆP CHO HỌC SINH Ở CÁC TRƯỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG QUẬN BẮC TỪ LIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

HÀ NỘI - 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ THANH

PHỐI HỢP CÁC LỰC LƯỢNG CỘNG ĐỒNG
TRONG TƯ VẤN HƯỚNG NGHIỆP CHO HỌC SINH Ở CÁC TRƯỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG QUẬN BẮC TỪ LIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Giáo dục và phát triển cộng đồng
Mã số: Thí điểm

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS HOÀNG THANH THÚY

HÀ NỘI – 2020




LỜI CẢM ƠN
Trải qua quá trình học tập và nghiên cứu, tôi xin được bày tỏ long cảm ơn sâu sắc
tới các tập thể, cán nhân:
Trước tiên, em xin bày tỏ lòng biết ơn tới cô giáo hướng dẫn – PGS.TS Hoàng
Thanh Thúy, người luôn tận tình chia sẻ, giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện luận
văn tốt nghiệp.
Xin được cảm ơn Trường ĐHSP Hà Nội, Khoa Tâm lý – Giáo dục học và các
Thầy/Cô giáo của Khoa đã luôn tận tình giảng dạy, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học
tập và nghiên cứu.
Xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, tập thể giáo viên và học sinh các trường
Trung học phổ thông quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội đã nhiệt tình hợp tác, giúp đỡ tôi trong
quá trình nghiên cứu luận văn.
Xin cảm ơn người thân trong gia đình, bạn bè, đồng nghiệp luôn ủng hộ, giúp đỡ tôi
trong suốt chặng đường đã qua!
Tác giả

Nguyễn Thị Thanh


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CBQL
CMHS
GD&ĐT
GV
HS
LLCĐ
NXB
THPT

TVHN

:
:
:
:
:
:
:
:
:

Cán bộ quản lý
Cha mẹ học sinh
Giáo dục và Đào tạo
Giáo viên
Học sinh
Lực lượng cộng đồng
Nhà xuất bản
Trung học phổ thông
Tư vấn hướng nghiệp


MỤC LỤC
NGUYỄN THỊ THANH..........................................................................1
HÀ NỘI - 2020....................................................................................1
NGUYỄN THỊ THANH...........................................................................1
HÀ NỘI – 2020...................................................................................1



DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU
NGUYỄN THỊ THANH..........................................................................1
HÀ NỘI - 2020....................................................................................1
NGUYỄN THỊ THANH...........................................................................1
HÀ NỘI – 2020...................................................................................1
Bảng 2.6. Thang đo khoảng theo giá trị trung bình..................................58
Bảng 2.6. Thang đo khoảng theo giá trị trung bình................................................................58
Bảng 2.6. Thang đo khoảng theo giá trị trung bình................................................................58


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, học sinh (HS) phổ thông ra trường thường chọn nghề một cách ngẫu
nhiên, theo cảm tính, thấy trường nào hay khoa nào hay hoặc ít người thi thì đăng
ký làm hồ sơ thi không có hiểu biết cần thiết về nghề mà mình định lựa chọn, thiếu
ý thức đúng đắn về ngành nghề; do đó, thiếu ý thức phấn đấu vươn lên trong nghiệp
vụ, thậm chí có học sinh bỏ nghề, ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực, vừa lãng phí công lao đào tạo của nhà nước, vừa có hại cho sự phát
triển của cá nhân, tạo ra trong xã hội tình trạng vừa thừa lại vừa thiếu lao động và là
trở ngại lớn cho việc phân công và sử dụng hợp lý HS các cấp khi ra trường.
Tình hình đó có nhiều nguyên nhân. Đối với ngành giáo dục, chính là do chưa
bồi dưỡng cho thế hệ trẻ tâm thế sẵn sàng đi vào lao động sản xuất, chưa giúp cho
học sinh có những hiểu biết nhất định về các ngành, nghề chủ yếu, nghề cơ bản của
đất nước, nhất là nghề truyền thống và phổ biến ở địa phương, đồng thời chưa tạo
cho thế hệ trẻ năng lực và phẩm chất cần thiết để có thể tham gia lao động ngay khi
ra trường. Từ thực tế đó công tác tư vấn hướng nghiệp (TVHN) cho học sinh Trung
học phổ thông (THPT) hiện nay đang là một vấn đề bức xúc của cả xã hội, nó chiếm
một vị trí quan trọng trong việc phân công lao động xã hội, trong phát triển nguồn
nhân lực của cả nước. TVHN có vai trò quan trọng không chỉ đối với xã hội mà nó
còn ảnh hưởng đến từng cá nhân, từng gia đình. Chính vì vậy Đảng ta đã xác định:

“Cần tăng cường, đẩy mạnh hơn nữa giáo dục hướng nghiệp, mở rộng và phát triển
các trường dạy nghề…” Trong báo cáo Chính trị của Đại hội Đảng lần thứ IX đã
khẳng định: “Ở mọi cấp học, bậc học, kết hợp dạy và học lý thuyết với thực nghiệm
và thực hành, gắn công tác đào tạo với nghiên cứu khoa học và sản xuất.. Nhà
trường và cơ sở đào tạo phối hợp với các tổ chức khoa học và các cán bộ kỹ thuật
để truyền bá tri thức sản xuất, chuyển giao công nghề mới cho nhân dân. Coi trọng
công tác hướng nghiệp và phân luồng cho học sinh trung học, chuẩn bị cho thanh,
thiếu niên đi vào lao động nghề nghiệp phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong cả nước và từng địa phương. Nhanh chóng hiện đại hóa một số trường dạy
nghề, tăng tỷ lệ đào tạo trong toàn bộ lao động xã hội, khuyến khích phát triển hệ

1


thống trường lớp dạy nghề, dân lập, tư thục trang bị cho thanh niên những kiến thức
sản xuất, kỹ năng lao động và năng lực tiếp thu công nghệ mới, để tạo việc làm, chủ
động tìm kiếm cơ hội lập thân, lập nghiệp”.
Khi cả nước đang trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cả thế giới đã
và đang bước vào nền kinh tế tri thức, sự chuyên môn hóa trong sản xuất ngày càng
ở trình độ cao... thì rất cần nguồn lao động có trình độ, có năng lực, đáp ứng yêu
cầu của toàn xã hội. Để đáp ứng yêu cầu đó thì hệ thống giáo dục, đặc biệt là giáo
dục ở bậc THPT cần giúp các em có định hướng nghề nghiệp rõ ràng, chính xác phù
hợp với khả năng, sở thích của bản thân và phù hợp với yêu cầu của xã hội. Nhằm
tránh tình trạng đào tạo lệch lạc, tránh lãng phí trong đào tạo, đồng thời nâng cao
năng suất lao động. Chính vì vậy hệ thống giáo dục của nước ta đã và đang có sự
phân luồng học sinh, bắt đầu quan tâm đến hướng nghiệp cho học sinh THPT, nhất
là ở những lớp cuối cấp.
Những năm vừa qua, TVHN và công tác phân luồng học sinh sau THPT ở
Quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội đã được quan tâm và đạt được những kết quả
ban đầu. TVHN cho học sinh THPT đã được quán triệt trong các nghị quyết, chủ

trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và các cấp, các ngành. Hệ thống các văn
bản về TVHN cho học sinh THPT đã được ban hành; hệ thống cơ sở giáo dục kỹ
thuật tổng hợp, hướng nghiệp, dạy nghề đã được quan tâm đầu tư phát triển, thể
hiện ở những thành quả đã đạt được về quy hoạch mạng lưới và xây dựng các trung
tâm, từng bước phát triển đội ngũ cán bộ quản lí và giáo viên, đầu tư kinh phí cho
xây dựng và mua sắm trang thiết bị phục vụ giáo dục hướng nghiệp và công tác
phân luồng học sinh sau trung học. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, TVHN cho
học sinh THPT chưa được sự quan tâm đúng mức và kết quả còn hạn chế. Đại bộ
phận học sinh sau khi học xong Trung học phổ thông đều tìm cách thi và được vào
học đại học hay cao đẳng trước khi suy nghĩ xem mình sẽ học gì. Chỉ một bộ phận
học sinh không đủ khả năng vào được đại học hay cao đẳng mới nghĩ đến chọn lấy
một trường dạy nghề để vào học. Nguyên nhân chủ quan là do nhận thức của cán bộ
quản lý (CBQL), giáo viên (GV), nhân viên và học sinh về TVHN cho học sinh
THPT chưa được quán triệt đầy đủ, mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức

2


tư vấn hướng nghiệp chưa đổi mới kịp thời theo yêu cầu đổi mới kinh tế - xã hội nói
chung và đổi mới giáo dục - đào tạo (GD&ĐT) nói riêng. Cơ sở vật chất, trang thiết
bị và đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên làm công tác TVHN còn thiếu về
số lượng, chưa đáp ứng về chất lượng. Nguyên nhân khách quan là hệ thống giáo
dục nghề nghiệp và thị trường lao động chưa phát triển lành mạnh; cơ chế, chính
sách về thực hiện TVHN cho học sinh THPT còn bất cập, chậm đổi mới; nhận thức
về tầm quan trọng của TVHN của các cơ quan, ban ngành, đoàn thể, cộng đồng xã
hội và cha mẹ học sinh (CMHS) chưa được chú ý. Do đó, nghiên cứu về phối hợp
các lực lượng cộng đồng (LLCĐ) trong TVHN cho học sinh THPT là hướng nghiên
cứu cần được đặc biệt quan tâm trong bối cảnh hiện nay.
Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài "Phối hợp các lực lượng cộng đồng trong
tư vấn hướng nghiệp cho học sinh ở các trường Trung học phổ thông quận Bắc Từ

Liêm, thành phố Hà Nội" để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng tư vấn hướng nghiệp tại các
trường Trung học phổ thông cũng như thực trạng phối hợp các lực lượng cộng đồng
trong tư vấn hướng nghiệp cho học sinh ở các trường Trung học phổ thông quận
Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội, đề xuất các biện pháp phối hợp các lực lượng cộng
đồng trong tư vấn hướng nghiệp cho học sinh ở các trường Trung học phổ thông
quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt
động này từ đó nâng cao chất lượng tư vấn hướng nghiệp trong các trường Trung
học phổ thông quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động tư vấn hướng nghiệp cho học sinh THPT.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Quá trình phối hợp các lực lượng cộng đồng trong tư vấn hướng nghiệp cho học
sinh ở các trường THPT quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
4. Giả thuyết nghiên cứu
Trong những năm qua việc phối hợp các lực lượng cộng đồng trong tư vấn
hướng nghiệp cho học sinh THPT của các nhà trường nói chung, trường THPT trên

3


địa bàn Quận Bắc Từ Liêm nói riêng còn nhiều hạn chế dẫn đến thực trạng học sinh
Trung học phổ thông chưa nhận thức đầy đủ về nghề nghiệp, gặp rất nhiều khó khăn
trong việc lựa chọn nghề cho tương lai. Nếu xây dựng được hệ thống các biện pháp
phối hợp các lực lượng cộng đồng trong tư vấn hướng nghiệp có tính khả thi, phù
hợp với thực tế thì công tác phối hợp các lực lượng cộng đồng trong tư vấn hướng
nghiệp cho học sinh sẽ đạt kết quả cao từ đó nâng cao chất lượng tư vấn hướng
nghiệp tại các trường THPT quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống cơ sở lý luận về phối hợp các lực lượng cộng đồng trong tư vấn
hướng nghiệp cho học sinh ở các trường THPT;
- Khảo sát thực trạng tư vấn hướng nghiệp và thực trạng phối hợp các lực
lượng cộng đồng trong tư vấn hướng nghiệp cho học sinh ở các trường THPT quận
Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội;
- Đề xuất, khảo nghiệm mức độ cần thiết và mức độ khả thi các biện pháp phối
hợp các lực lượng cộng đồng trong tư vấn hướng nghiệp cho học sinh ở các trường
THPT quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Khách thể khảo sát: Khảo sát cán bộ, giáo viên và phụ huynh, học sinh một
số trường THPT quận Bắc Từ Liêm.
- Nội dung nghiên cứu: Nghiên cứu biện pháp phối hợp các lực lượng cộng
đồng trong tư vấn hướng nghiệp cho học sinh ở các trường THPT quận Bắc Từ
Liêm, thành phố Hà Nội.
- Địa điểm, thời gian khảo sát: Khảo sát tại trường THPT Xuân Đỉnh và trường
THPT Nguyễn Thị Minh Khai trên địa bàn quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội;
nghiên cứu từ tháng 11 năm 2018- tháng 3 năm 2020.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
- Các phương pháp tư duy khoa học dùng để xử lý các tài liệu có liên quan,
trên cơ sở hệ thống hóa cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu.
- Các phương pháp được sử dụng bao gồm: phương pháp phân tích, phương
pháp tổng hợp; phương pháp giả thuyết, phương pháp chứng minh.

4


7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi:

+ Xây dựng và sử dụng phiếu hỏi: trưng cầu, thu thập ý kiến của Cán bộ, giáo
viên, phụ huynh về thực hiện tư vấn hướng nghiệp cho học sinh ở các trường THPT
quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
Phương pháp phỏng vấn
+ Phỏng vấn một số người quan tâm đến phối hợp các lực lượng cộng đồng
trong tư vấn hướng nghiệp cho học sinh ở các trường THPT quận Bắc Từ Liêm,
thành phố Hà Nội.
- Phương pháp quan sát:
Quan sát thực trạng thực hiện và phối hợp các lực lượng cộng đồng trong tư vấn
hướng nghiệp cho học sinh ở các trường THPT quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
7.3. Nhóm phương thống kê toán học
- Sử dụng công thức toán thống kê, tương quan Sperman để xử lý những số
liệu thu được từ thực trạng tư vấn hướng nghiệp và thực trạng phối hợp các lực
lượng cộng đồng trong tư vấn hướng nghiệp cho học sinh ở các trường THPT quận
Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
- Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp đề xuất.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được trình bày theo 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về phối hợp các lực lượng cộng đồng trong tư vấn
hướng nghiệp cho học sinh Trung học phổ thông.
Chương 2: Thực trạng việc phối hợp các lực lượng cộng đồng trong tư vấn
hướng nghiệp cho học sinh ở các trường Trung học phổ thông quận Bắc Từ Liêm,
thành phố Hà Nội.
Chương 3: Biện pháp phối hợp các lực lượng cộng đồng trong tư vấn hướng
nghiệp cho học sinh ở các trường Trung học phổ thông quận Bắc Từ Liêm thành
phố Hà Nội.

5



Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHỐI HỢP CÁC LỰC LƯỢNG CỘNG ĐỒNG TRONG
TƯ VẤN HƯỚNG NGHIỆP CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Trên thế giới
Trên cơ sở những nghiên cứu của các nhà khoa học về TVHN trên thế giới,
chúng tôi nhận thấy có ba hướng nghiên cứu chính là: Hướng nghiêp nghiên cứu lý
thuyết, quan điểm tiếp cận; hướng nghiên cứu thực hành và TVHN cho học sinh
dựa vào cộng đồng.
* Hướng nghiên cứu lý thuyết, quan điểm tiếp cận TVHN
Các tác giả Frank Parsons, J Holland, Ann Roes, K.K Platonop đã nghiên cứu
về TVHN dựa trên đặc điểm nhân cách. F.Parsons (1909) cho rằng “nhà tư vấn giúp
những cá nhân nhận thức về đặc điểm từng nghề của thế giới nghề, sau đó kết hợp
những đặc điểm nhân cách cá nhân với đặc điểm của nghề, từ đó có hành vi lựa
chọn được nghề phù hợp” [61]. J.Holland (1981) cho rằng “đặc điểm nhân cách của
một con người cần được xem xét trong sự thống nhất với môi trường nghề nghiệp”
[61]. Ann Roe (1956) nhấn mạnh “Sự tương tác giữa con người và môi trường trong
quá trình lựa chọn nghề nghiệp. Nnhững kinh nghiệm từ thuở ấu thơ sẽ liên quan chặt
chẽ đến việc lựa chọn nghề nghiệp sau này, và vô thức có vai trò quan trọng trong quá
trình ra quyết định nghề nghiệp. Việc lựa chọn nghề nghiệp sẽ giúp mỗi cá nhân thoả
mãn nhu cầu của bản thân mình”[61]. K.K.Platonop (1960) [45] với quan niệm về
“Tam giác hướng nghiệp”. Ba cạnh của hướng nghiệp được xác định là (1) đặc
điểm, yêu cầu của các ngành nghề trong xã hội, (2) nhu cầu nhân lực của thị trường
lao động, (3) đặc điểm về nhân cách, tâm sinh lý của cá nhân. Khi cá nhân tìm được
sự phù hợp cả ba cạnh của tam giác, khi đó tìm được sự lựa chọn nghề tối ưu.
- Các tác giả Eli Ginzberg, Donald Super, V.G. Zunker đã nghiên cứu về
TVHN dựa trên quá trình phát triển đời người. Các tác giả trên rất coi trọng “cái
tôi” trong quá trình lựa chọn nghề nghiệp của mỗi cá nhân, cái tôi của cá nhân đó sẽ
được thể hiện một cách rõ rệt trong các giai đoạn của cuộc đời. Eli Ginzberg (1972)


6


cho rằng “quá trình lựa chọn nghề nghiệp là một quá trình mở và kéo dài suốt cuộc
đời, việc thay đổi có thể diễn ra bất cứ lúc nào trong cuộc đời” [61]. Donald Super
(1998) “không nhấn mạnh khái niệm lựa chọn nghề nghiệp mà tập trung nhấn
mạnh khái niệm phát triển nghề nghiệp” [61]. V.G. Zunker (2002) cho rằng
“TVHN bao gồm rất cả những hoạt động liên quan đến chọn nghề của cả cuộc đời
một con người. Trong quá trình TVHN, tất cả các khía cạnh thuộc về nhu cầu của cá
nhân được xem như là các yếu tố có ảnh hưởng đến quyết định chọn nghề và lập kế
hoạch cuộc đời của họ” [61].
- Các tác giả David Tiedeman, Krumbolt, và H.B.Gelatt đã nghiên cứu về
TVHN dựa trên quá trình xử lý thông tin, lựa chọn. Krumbolt (1976) , trong hoạt
động hướng nghiệp, Krumbolt tin rằng việc ra quyết định là một kỹ năng có thể học
hỏi. Điểm nổi bật trong lý thuyết của Krumbolt là việc khuyến khích những người
đang trong quá trình tìm hiểu và quyết định nghề nghiệp đến thăm và làm việc thực
tế tại các cơ sở hoạt động, điều này sẽ giúp cho họ được kinh nghiệm thực tế nhiều
hơn là việc chăm chỉ học hỏi, nghiên cứu, hay tư vấn tại văn phòng [55].
D.Tiedeman (1987) đã “đưa ra hai khái niệm và cũng là hai giai đoạn chính trong
quá trình lựa chọn và phát triển nghề nghiệp bao gồm giai đoạn chuẩn bị và giai
đoạn thực hiện, điều chỉnh, mỗi cá nhân hoàn toàn có năng lực lựa chọn nghề
nghiệp cho bản thân mình; việc lựa chọn nghề, tuy là một quá trình liên tục và có
thể được diễn ra ở bất cứ giai đoạn nào trong cuộc đời, nhưng mỗi cá nhân phải tự
đưa ra những quyết định liên quan đến nghề nghiệp tại những thời điểm cụ thể
trong cuộc đời” [55]. Gelatt (1999) cho rằng “việc lựa chọn nghề nghiệp có thể coi
là một hệ thống có thể dự đoán được và thông tin đóng vai trò quan trọng nhất
trong toàn bộ hệ thống này, thông tin là năng lượng của quyết định” [55].
* Hướng nghiên cứu về thực hành TVHN
- Các tác giả Francis Galton; Alfred Binet và V.Henri; Jame Cattel, John C.

Raven, V. P. Zakharov, E.A.Klimop, M. Luscher, Jonh Holland đã triển khai những
công trình nghiên cứu về xây dựng và sử dụng công cụ đo lường trong TVHN. John
C. Raven tạo ra bộ trắc nghiệm phi ngôn ngữ dùng để đo năng lực tư duy trên bình
diện rộng nhất, có thể sử dụng cho cá nhân và nhóm, cho đến nay, test trí tuệ của

7


Raven được sử dụng rộng rãi trong TVHN. V. P. Zakharov xây dựng trắc nghiệm
giao tiếp nhằm phân định khả năng giao tiếp của con người trên cơ sở đó xác định
xu hướng nghề nghiệp. E.A.Klimop đưa ra bảng phân loại nghề dựa trên đặc điểm
đối tượng lao động mà người lao động tác động, từ đó ông xây dựng “Bản xác định
kiểu nghề cần chọn trên cơ sở tự đánh giá” [39]. Jonh Holland (1981) chỉ ra các
kiểu người phù hợp với loại môi trường (RIASEC) trên cơ sở đó ông xây dựng
thang đo tự đánh giá SDS (1971) để tìm ra người phù hợp với một kiểu nghề nào
đó… [59]. Việc ứng dụng rộng rãi các công cụ đo lường trong TVHN là công việc
quan trọng, cần thiết trong việc trợ giúp cá nhân có quyết định chọn nghề.
- Cùng với việc ứng dụng rộng rãi các công cụ đo lường trong TVHN, thì việc
thành lập các phòng TVHN đã làm cho nó trở thành một dịch vụ xã hội. Trong việc
ứng dụng TVHN vào thực tiễn cuộc sống, nước Mỹ được biết đến như là quốc gia
tiên phong trong lĩnh vực này. Phòng TVHN đầu tiên trên thế giới đã được Frank
Parsons thành lập ở Boston (Mỹ) vào năm 1908. Những ý tưởng của F.Parsons
trong công tác TVHN đến nay vẫn được coi là nguyên tắc trong công tác tư vấn.
Công việc này cần phải có một người hướng dẫn chuyên nghiệp, một người hướng
dẫn tốt không thể đưa ra các quyết định cho người khác, vì tự mỗi người mới biết
phải quyết định điều gì tốt nhất cho chính bản thân mình. Tiếp đó là Bernard
Haldane (1947) đã thành lập công ty tư vấn chuyên nghiệp với nhiệm vụ là cung
cấp dịch vụ tư vấn cho những người đi tìm việc. Ý tưởng giúp cá nhân phát huy
những điểm mạnh đó là năng lực, năng khiếu, tài năng của bản thân để đạt hiệu quả
cao trong quá trình tìm kiếm việc làm [61].

- Trong lĩnh vực thực hành của TVHN, các đối tượng được tư vấn luôn được
mở rộng. Người được TVHN là người lao động đang cần việc làm, những sinh viên
đã tốt nghiệp đại học, những người muốn chuyển đổi nghề, cả những phụ nữ nhiều
tuổi hay muốn làm công việc khác ngoài công việc nội trợ… và đặc biệt là học sinh
THPT. Howard Figler (1975) đưa ra quan điểm: Nghệ thuật giáo dục phổ thông làm
cho con người nâng cao khả năng thích nghi trong thế giới việc làm. Theo ông, giáo
dục phổ thông là làm cho học sinh không chỉ thích nghi cao trong thế giới công việc
mà có thể làm cho họ hiểu biết về nghề nghiệp trong thị trường nghề nghiệp cũng

8


như những nơi khác [58]. Ở một số nước có ngành TVHN phát triển, công tác thực
hành được chính quyền và toàn dân quan tâm. Chẳng hạn như ở Pháp, công tác
hướng nghiệp cho học sinh rất được đề cao và công việc này do những nhà tâm lý
TVHN đảm nhiệm, thuộc biên chế của Bộ giáo dục và làm việc tại các trung tâm
độc lập với các trường phổ thông. Công tác hướng nghiệp được phân biệt rõ thành 2
loại: Định hướng học đường thường dành cho học sinh và thanh thiếu niên (dưới 25
tuổi) và định hướng nghề dành cho người trưởng thành đã đi làm. TVHN đã được
thể chế hóa bằng luật pháp: “Học sinh xây dựng kế hoạch hướng nghiệp học đường
và nghề nghiệp của mình với sự hỗ trợ của cơ sở đào tạo, cộng đồng giáo dục và
đặc biệt các giáo viên và các nhà tâm lý tư vấn định hướng” [65].
* Hướng nghiên cứu về TVHN dựa vào cộng đồng
Các tác giả H.Frankiewiez; Bernd Rothe; U.Viets; B.Germer, D. Marschneider
(1986) đã đưa ra các phương thức: “Phối hợp, cộng tác chặt chẽ giữa trung tâm
giáo dục kĩ thuật tổng hợp và các trường phổ thông trong việc lập kế hoạch thực
tập cho học sinh trung học phổ thông” [47];
1.1.2. Ở Việt Nam
Những năm 80, các tác giả Phạm Huy Thụ, Phạm Ngọc Luận, Phạm Tất Dong,
Nguyễn Thế Trường, Đoàn Chi, Cù Nguyên Hanh tiến hành nghiêu cứu đã xây

dựng nội dung và phương pháp tư vấn nghề cho số thương binh được đi học nghề
sau khi kết thúc chiến tranh.
Các tác giả Đặng Danh Ánh, Phạm Đức Quang, Phạm Ngọc Anh, Đỗ Thị Hòa
cùng với Nguyễn Viết Sự đã nghiên cứu đề tài “Mô tả các nghề đào tạo nhằm mục
đích hướng nghiệp” những công trình này chỉ tập trung đề cập đến việc xây dựng
các phòng hướng nghiệp và việc tư vấn nghề trong trường nghề và trường phổ thông,
tuy nhiên nó đã cung cấp nhiều tư liệu quí giá cho công tác hướng nghiệp ở các trường
phổ thông. Cùng trong thời gian này Phạm Huy Thụ, Phạm Tất Dong, Nguyễn Thế
Trường đã biên soạn tài liệu sinh hoạt hướng nghiệp cho HS cuối cấp phổ thông cơ sở
và các lớp phổ thông trung học, trong đó đề cập rõ rệt vấn đề tư vấn nghề và đã xây
dựng được nhiều bản họa đồ nghề có giá trị thực tiễn để phục vụ tư vấn nghề [51].

9


Từ những năm 1996 – 2005, các tác giả: Phạm Tất Dong, Nguyễn Như Ất, Đặng
Danh Ánh, Hoàng Kiện, Nguyễn Thế Trường, Nguyễn Đức Trí, Nguyễn Văn Hộ, Lê
Đức Phúc, Nguyễn Văn Lê, đã công bố nhiều kết quả nghiên cứu về hướng nghiệp, dạy
nghề, tư vấn nghề cho HS, các nghiên cứu đã nhấn mạnh đến các đặc điểm của bản thân
trong quá trình chọn nghề, tư vấn nghề [12]; [16]; [17]; [2]; [1]; [4]; [32]; [38]; [53].
Năm 2010, tác giả Trần Khánh Đức dưới góc độ kết hợp TLH và GDH đã xây
dựng mô hình nhân cách nghề nghiệp có tính đến vấn đề công nghệ đào tạo và phân hóa
các giai đoạn phát triển nghề trong quá trình vận động và phát triển của nhân cách nghề
thích ứng với từng giai đoạn đào tạo nghề trong hệ thống giáo dục liên tục [24].
Nhấn mạnh đến các giai đoạn, các bước trong tư vấn nghề, các nhà TLH cho
rằng hoạt động tư vấn trong trường phổ thông bao gồm 3 bước: Bước 1: Đánh giá
cá tính và năng lực của HS, thông qua các test, giúp HS hiểu được những năng lực
chung và năng lực chuyên biệt, hứng thú, tính cách, khí chất và nguyện vọng của
mình. Đồng thời thông qua quan sát, điều tra, trò chuyện, qua nhật kí, sổ ghi chép…
cán bộ tư vấn thu được những tài liệu toàn diện xác thực về HS cần tư vấn, cuối

cùng có sự đánh giá sơ bộ về các đặc điểm tâm lí và thể chất của HS; Bước 2:
Phân tích yêu cầu của nghề đối với người lao động. Bước 3: Đối chiếu đặc điểm
tâm sinh lí của HS đối với yêu cầu của nghề đặt ra đối với người lao động, từ đó
giúp HS có sự lựa chọn sáng suốt và đúng đắn, loại bỏ những may rủi, thiếu chín
chắn trong khi chọn nghề.
Năm 2010, tác giả Đặng Danh Ánh [4] chỉ ra quy trình tư vấn nghề bao gồm
các bước như sau: Bước 1: Tìm hiểu nguyện vọng, sở trường, hứng thú, năng lực
nghề, học lực, và hoàn cảnh của HS thông qua hồ sơ hoặc trao đổi trực tiếp với GV
chủ nhiệm, HS và phụ huynh HS; Bước 2: Tiến hành những phép đo cần thiết; Bước
3: Nghiên cứu mô tả nghề, rút ra các yêu cầu về nghề; Bước 4: Đối chiếu các đặc
điểm tâm sinh lí của HS với các yêu cầu của nghề và rút ra kết luận ban đầu; Bước
5: Nghiên cứu nhu cầu nhân lực của thị trường lao động địa phương, quốc gia, KV
và quốc tế; Bước 6: Đối chiếu kết quả thu được ở bước 5 với kết luận ban đầu ở
bước 4 và đưa ra lời khuyên; Bước 7: Hướng dẫn tìm trường, tìm khoa đào tạo trong
hệ thống dạy nghề, đào tạo CĐ, ĐH

10


Tuy nhiên với các quy trình trên, các tác giả mới chỉ đưa ra được các bước tiến
hành, mà chưa đưa ra được nguyên tắc, biện pháp, kĩ thuật sử dụng các bước đó như
thế nào. Bên cạnh đó, với các bước như ở trên thì các hành động hoàn toàn được
thực hiện bởi GV, GV là trọng tâm trong quá trình tư vấn chứ không phải là HS và
mục tiêu cuối cùng tư vấn nghề là đưa ra được lời khuyên chọn nghề cho HS.
Sau này, tác giả Nguyễn Thị Thanh Huyền (2009) với luận án “Xây dựng mô
hình tư vấn nghề trong nhà trường THPT KV miền núi Đông Bắc Việt Nam” đã khái
quát về lí luận và thực tiễn về tư vấn nghề, thực trạng tư vấn nghề ở trường THPT
KV miền núi Đông Bắc Việt Nam, tác giả xây dựng thí điểm mô hình tư vấn nghề
trong trường THPT KV miền núi Đông Bắc Việt Nam, đã chỉ ra được chức năng,
nhiệm vụ, cũng như những yêu cầu về cơ sở vật chất, về đội ngũ tư vấn nghề. Đây

là công trình đầu tiên về mô hình tư vấn nghề trong trường THPT KV miền núi
Đông Bắc Việt Nam và một số các bài viết liên quan như Lê Thị Thanh Hương
(2010) với “TVHN cho HS THPT thực trạng ở Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế” đã
chỉ ra những giai đoạn hướng nghiệp và TVHN, các lí thuyết TVHN, các mô hình
hướng nghiệp và TVHN ở các nước trên thế giới và nêu lên những thực trạng về
TVHN ở trường THPT [2]; Phạm Văn Sơn (2012) đã đề cập đến mục đích sử dụng
bản mô tả nghề trong tư vấn, “bản mô tả nghề cung cấp những yêu cầu về phẩm
chất, năng lực cần thiết giúp cán bộ tư vấn có cơ sở đối chiếu với từng HS để xác
định sự phù hợp nghề. Bản mô tả nghề còn là tài liệu hữu ích giúp GV, nhà giáo
dục, phụ huynh HS muốn tìm hiểu về nghề nghiệp phục vụ cho công tác tư vấn,
chọn nghề tương lai” [45]
Ở nước ta, trong những năm gần đây, hướng nghiệp nói chung và TVHN cho
học sinh nói riêng là trách nhiệm của toàn xã hội. Đây là vấn đề nhận ngày càng
nhận được sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học, tuy nhiên, mới chỉ có các
công trình nghiên cứu có liên quan mà không trực tiếp nghiên cứu chuyên sâu về
TVHN như: “Tổ chức GDHN cho HS trung học phổ thông theo tinh thần xã hội
hóa” [47] của tác giả Bùi Việt Phú (2009); “Phối hợp các lực lượng cộng đồng
trong giáo dục hướng nghiệp cho học sinh Trung học phổ thông thành phố Vĩnh
Long, tỉnh Vĩnh Long” [40] của tác giả Lê Quốc Lâm (2017); “Giáo dục hướng

11


nghiệp cho học sinh trung học phổ thông thành phố Hải Phòng đáp ứng yêu cầu phát
triển cộng đồng” [52] của tác giả Phạm Thị Thu Trang (2017); “Giáo dục hướng
nghiệp cho học sinh trung học phổ thông đáp ứng yêu cầu lao động địa phương tại
huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La” [20] của tác giả Nguyễn Duy Dũng (2017).
Qua tổng quan nghiên cứu vấn đề có thể rút ra một số nhận xét sau:
- Các công trình nghiên cứu về tư vấn nghề ở trên cho thấy, hầu hết các công
trình nghiên cứu đều khẳng định TVHN là một khâu trong hoạt động hướng nghiệp

chứ không phải là một hoạt động độc lập hoặc là một con đường để hướng nghiệp
cho HS. Mục tiêu của TVHN là đưa ra lời khuyên chọn nghề cho cá nhân, HS. Dù
với cách làm khác nhau, các bước khác nhau nhưng đều cho chúng ta thấy vai trò
của nhà tư vấn là chủ động, là trọng tâm trong buổi tư vấn nghề, là người quyết định
chứ không phải là HS do vậy không phát huy được các khả năng của HS trong quá
trình tư vấn. Bên cạnh đó, các công trình trên mới chỉ nêu ra được những lí luận về
tư vấn nghề, chưa chỉ rõ cách thức tư vấn như thế nào, tư vấn với hình thức nào và
được thực hiện trong bối cảnh nào.
- Trong những năm qua, trên thế giới và ở Việt Nam đã có nhiều quan điểm và
công trình nghiên cứu khai thác những khía cạnh khác nhau về TVHN cho học sinh
THPT. Điều đó được thể hiện qua số lượng các công trình nghiên cứu theo hướng
này. Tuy nhiên, số lượng các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học ở trong và
ngoài nước về TVHN cho học sinh THPT dựa vào việc khai thác sức mạnh tổng thể
của cả cộng đồng còn khá ít số với ý nghĩa và tầm quan trọng của nó.
- Theo vốn hiểu biết của người nghiên cứu, cho đến nay, chưa có công trình
nào, chưa có tác giả nào nghiên cứu về đề tài “Phối hợp các lực lượng cộng đồng
trong TVHN cho học sinh ở các trường Trung học phổ thông quận Bắc Từ Liêm,
thành phố Hà Nội”.
1.2. Tư vấn hướng nghiệp cho học sinh Trung học phổ thông
1.2.1. Học sinh trung học phổ thông
1.2.1.1. Khái niệm
Theo tác giả Bùi Hiền và cộng sự: “Học sinh là người đi học trong độ tuổi tại
các nhà trường phổ thông, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề” [Bùi Hiền (chủ

12


biên, 2013), Từ điển Giáo dục học, NXB Từ điển Bách khoa, tr193]. Học sinh có
nhiệm vụ học tập, rèn luyện theo chương trình, kế hoạch giáo dục, thực hiện nội
quy, điều lệ của nhà trường. Học sinh có quyền được tôn trọng và đối xử bình đẳng,

được cung cấp đầy đủ thông tin về việc học tập của mình, được học trước tuổi vượt
lớp, lưu ban theo quy định của Bộ GD&ĐT, được tham gia các hoạt động đoàn thể
và tổ chức xã hội trong nhà trường theo quy định của pháp luật.
Học sinh THPT là thuật ngữ dùng để chỉ nhóm học sinh (từ 15, 16 đến 17,18
tuổi) theo học tại trường THPT, có nhiệm vụ học tập, rèn luyện theo chương trình,
kế hoạch giáo dục phổ thông được quy định trong Luật Giáo dục, thực hiện nội quy,
điều lệ của nhà trường, có quyền được tôn trọng và đối xử bình đẳng, được cung
cấp đầy đủ thông tin về việc học tập của mình.
Học sinh THPT là những thanh niên mới lớn, do đó, đây là đối tượng cần sự
giáo dục của cả gia đình và nhà trường, vì vậy thông thường học sinh được tạo điều
kiện đi học ở gần nhà. Học sinh rất dễ bị tác động bởi các hiện tượng xã hội, vì vậy
rất cần thiết sự theo dõi, định hướng, giáo dục từ gia đình và nhà trường.
1.2.1.2. Đặc điểm tâm, sinh lí của học sinh trung học phổ thong
Muốn thực hiện hoạt động tư vấn hướng nghiệp thuận lợi và hiệu quả, các lực
lượng giáo dục cần chú ý đến đặc điểm tâm, sinh lí của học sinh THPT. Các đặc
điểm tâm, sinh lí của học sinh THPT được các nhà nghiên cứu, các công trình khoa
học tổng kết như sau:
Sự phát triển của tự ý thức: Tác giả Lê Văn Hồng (2002) nhận định: lứa tuổi
học sinhTHPT phát triển mạnh mẽ tự ý thức; Ý thức về “cái Tôi”; Ý thức về những
thuộc tính và phẩm chất tâm lí của mình; Điều này thuận lợi cho các em khi xác
định về sự phù hợp của nghề nghiệp so với khả năng, tính cách, hứng thú…của các
em. Trong giai đoạn này, vấn đề quan trọng là làm cho các em học sinh THPT hiểu
được các giá trị xã hội nói chung và các giá trị của nghề nghiệp để các em có sự lựa
chọn ngành nghề đúng đắn và phù hợp.
Lí tưởng sống của thanh niên: Một điểm đặc trưng trong lí tưởng của thanh niên
là lí tưởng nghề và lí tưởng đạo đức cao cả. Lí tưởng này được thể hiện qua mục đích
sống, qua sự say mê với việc học tập, nghiên cứu và lao động nghề nghiệp [25].

13



Tính tích cực xã hội của thanh niên: Thể hiện rõ ở việc các em quan tâm nhiều
hơn đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trên thế giới và trong nước, bên cạnh đó
các em đã có một quá trình tích lũy nhất định về một hệ thống tri thức về khoa học
tự nhiên và khoa học xã hội, có kỹ năng lối sống và hành động… cho nên các em có
thể đánh giá và có cách nhìn nhận riêng về thế giới, về con người và về bản thân.
Tuy nhiên thế giới quan này của các em chưa đạt được mức độ sâu sắc và bền vững.
Hoạt động học tập của học sinh THPT: Hoạt động chủ đạo của lứa tuổi này là
học tập – hướng nghiệp vì vậy ý thức về nghề và sự chuẩn bị cho cuộc sống tương
lai của các em là một nhu cầu cấp bách. Việc học tập có tính lựa chọn rõ ràng, các
em tập trung học nhiều hơn đối với các môn học liên quan đến nghề và trường chọn
để thi, hoặc các môn gây hứng thú đặc biệt. Động cơ học tập của thanh niên học
sinh có tính hiện thực, gắn liền với nhu cầu và xu hướng nghề nghiệp chiếm ưu thế.
Thái độ đối với môn học trở nên có lựa chọn hơn, các em đã hình thành hứng thú
học tập gắn liền với khuynh hướng nghề nghiệp.
Sự phát triển trí tuệ và nhận thức liên quan đến định hướng nghề nghiệp: Theo
Muler P.H (2003) [Muler P.H (2003), Các lí thuyết về tâm lí học phát triển, NXB Văn
hóa – Thông tin, Hà Nội] lứa tuổi học sinh THPT là lứa tuổi phát triển trí tuệ thao tác
hình thức, nhờ có sự phát triển về tư duy này mà học sinh THPT có những suy nghĩ,
so sánh, cân nhắc, giả định, đối chiếu và rút ra những nhận định của bản thân về nghề
trên cơ sở những thông tin có được về nghề (thông qua nhiều nguồn khác nhau:
GDHN, truyền thông đại chúng, dư luận xã hội, bạn bè, gia đình,…).
Định hướng giá trị nghề nghiệp của học sinh THPT: Theo các tác giả
Ginzberg, Ginzburg, Axelrad, and Herme (1951) đồng tình rằng lứa tuổi từ 11 đến
18 là giai đoạn phức tạp với nhiều cung bậc của sự hứng thú, khả năng và giá trị.
Các em nhận thức được bản thân mình có thể chọn nghề nào đó tận dụng được
những kỹ năng đặc biệt của mình. Giai đoạn này HS bắt đầu nhận thấy cần phải có
quyết định hướng nghiệp kịp thời, cụ thể và thực tế [57]. Tác giả Super [60]: HS
phổ thông sẽ bắt đầu khám phá những nguồn tài nguyên có ích trong việc đưa ra
quyết định chọn nghề và dành ít thời gian hơn cho các sở thích riêng của mình. Tất

cả các kinh nghiệm các em có được trong nhà trường hay các chương trình hướng

14


nghề và các kinh nghiệm tích lũy bên ngoài đều là hành trang cho nghề nghiệp và
cuộc sống của các em. Những sở thích cá nhân và những hoạt động khác cũng cung
cấp cho các em những bài học rất giá trị về nghề nghiệp.
Như vậy, vấn đề quan trọng nhất và là sự bận tâm nhất của học sinh trong việc
xây dựng kế hoạch đường đời là vấn đề nghề và chọn nghề, chọn trường học nghề.
Việc chọn nghề trở thành một trong những nhiệm vụ quan trọng nhưng vô cùng khó
khăn đối với các em. Về chủ quan, sự hiểu biết về nghề của học sinh còn hạn chế.
Nhiều học sinh chưa thực sự hiểu rõ nghề nghiệp hiện có trong xã hội, chưa phân biệt
rõ sự khác nhau giữa nghề và trường đào tạo nghề, nên ít em hướng đến việc chọn
nghề mà chủ yếu chọn trường để học. Việc chọn nghề của số học sinh này không phải
với tư cách là chọn một lĩnh vực việc làm ổn định phù hợp với khả năng và điều kiện
của mình, không phải là một nghề để mưu sinh, mà chủ yếu chỉ là sự khẳng định mình
trước bạn hoặc chủ yếu là theo đuổi chí hướng có tính chất lí tưởng hoá của mình. Vì
vậy, mặc dù các em ý thức được tầm quan trọng của việc chọn nghề nhưng hành vi lựa
chọn của các em vẫn cảm tính. Về khách quan, trong nền kinh tế hiện đại, hệ thống
nghề rất đa dạng, phong phú và biến động, nên việc định hướng và lựa chọn giá trị
nghề của học sinh trở lên rất khó do vậy giáo dục nghề và hướng nghề cho học sinh
luôn là việc làm rất quan trọng của trường phổ thông và của toàn xã hội.
1.2.2. Tư vấn hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông
1.2.2.1. Khái niệm tư vấn hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông
* Tư vấn
Tư vấn trong tiếng Anh là consultant (có nghĩa từ tiếng Latin: “consultare” bắt
nguồn từ “consul” và “counsel”) [64] được nhiều tác giả trên thế giới và Việt Nam
quan tâm theo nhiều khía cạnh khác nhau.
- Tư vấn được xem như một quá trình trong đó một chuyên gia (người có

chuyên môn, kinh nghiệm) đưa ra những lời khuyên về một lĩnh vực nào đó để đi
đến một quyết định. Người tư vấn thường là một chuyên gia hay một nhà chuyên
môn trong một lĩnh vực cụ thể và có kiến thức sâu, rộng về chuyên môn đó.
Quan niệm của một số tác giả nước ngoài về tư vấn chỉ ra rằng người tư vấn
đóng vai trò là người chịu trách nhiệm tìm ra giải pháp (R.chein, 1969), hay thu
thập thông tin, chẩn đoán và đề xuất giải pháp (D.J Kuroius & J.C. Brukbaker,

15


1976). Theo Larry Greiner và Robert Metzger thì tư vấn là một dịch vụ cho lời
khuyên theo hợp đồng, nhà tư vấn chịu trách nhiệm về chất lượng và sự đúng đắn
trong lời khuyên [50].
Một số tác giả trong nước khi bàn về tư vấn cũng đồng quan điểm khi cho
rằng tư vấn đó là sự đóng góp ý kiến về những vấn đề được hỏi đến, nhưng không
có quyền quyết định (Hoàng Phê, 2000). Tư vấn là một dịch vụ “chất xám” trong đó
các chuyên gia (có đủ năng lực, phẩm chất thích hợp) tiến hành một cách độc lập,
khách quan theo thỏa thuận về các vấn đề: cập nhật, xử lý thông tin, kiến thức; phát
hiện, phân tích vấn đề; lựa chọn giải pháp tối ưu cho từng trường hợp cụ thể nhằm
chuyển giao chúng đến đúng người có nhu cầu, vào đúng lúc, theo đúng cách để đạt
được mục tiêu, hiệu quả cao.
Tóm lại, theo phân tích của các tác giả trên đã nhấn mạnh đến việc “cho lời
khuyên” theo yêu cầu của thân chủ. Với cách hiểu như vậy, khái niệm “tư vấn”
dường như được đồng nhất với khái niệm “cố vấn”. Như vậy trong xã hội có nhiều
dịch vụ tư vấn như tư vấn doanh nghiệp, tư vấn pháp luật, tư vấn quản lý…
- Ở một khía cạnh khác các tác giả tập trung vào quá trình xây dựng mối quan
hệ tích cực giữa nhà tư vấn và thân chủ nhằm giúp họ giải toả được những vấn đề
của bản thân, tự vực dậy được nội lực của chính mình mà thoát ra được tình trạng
hiện có.
Khi xem xét quá trình tư vấn và diễn biến của quá trình này, D.R. Riesman

(1963) cho rằng tư vấn tâm lý là một loại quan hệ xã hội nhằm đạt đến một quá trình hỗ
trợ, quá trình giáo dục và quá trình phát triển. Nhấn mạnh đến nỗ lực của khách hàng
trong và sau quá trình trợ giúp thì “Tư vấn tâm lý là một loại quan hệ xã hội, trong mối
quan hệ này, nhà tư vấn đưa ra điều kiện hoặc không khí tâm lý nhất định, nhằm làm
cho đối tượng được tư vấn thay đổi, tự lựa chọn và giải quyết vấn đề của chính mình,
đồng thời hình thành nên một cá tính độc lập có trách nhiệm, từ đó trở thành một
người tốt, một thành viên tốt cho xã hội” (C.Patterson, 1967) [50].
Cùng quan điểm này, một số tác giả Việt Nam nhấn mạnh đến quá trình chủ
động, tích cực của khách hàng trong quá trình giải quyết vấn đề cùng với sự trợ giúp
của người tư vấn. Theo Trần Đình Tuấn (2009) thân chủ là chuyên gia về cuộc đời họ,

16


giải pháp do người tư vấn đưa ra không phải là giải pháp hiệu quả. Trong quá trình tư
vấn, nhà tư vấn bằng tài năng, nghệ thuật của mình trợ giúp khách hàng huy động sức
mạnh của bản thân để giải quyết được vấn đề. Trong quá trình này, nhà tư vấn không
phải là “bề trên” để cho lời khuyên, hay là “thầy thuốc kê đơn chữa bách bệnh” với
đối tượng “không hiểu biết” hay cứ làm theo đơn là chữa khỏi bệnh.
Học sinh THPT là những thanh niên đang trưởng thành. Sự lựa chọn nghề
nghiệp có ảnh hưởng quyết đinh đối với tương lai của họ, rộng hơn là tương lai của
đất nước. Họ không chỉ đương đầu với những khó khăn trong lựa chọn nghề nghiệp
mà họ còn tính đến cả kế hoạch nghề nghiệp khi họ rời trường phổ thông. Với đối
tượng được tư vấn như vậy, nhà tư vấn không thể chỉ đơn thuần là “cho lời khuyên”
trong quá trình tư vấn, giúp học sinh THPT quyết định lựa chọn một ngành hay
nghề nào đó để theo đuổi mà thực tế trong quá trình này nhà tư vấn là giúp các em
khám phá bản thân, thúc đẩy tiềm năng của các em, giúp các em tự tin và dám hành
động. Nhà tư vấn không làm thay học sinh, chính các em mới là những người tự
quyết định con đường mình sẽ đi và lựa chọn cách đi như thế nào.
Từ những phân tích trên, chúng tôi quan niệm: Tư vấn là quá trình tương tác

tích cực giữa người tư vấn với người có nhu cầu tư vấn nhằm giúp cho người có
nhu cầu tư vấn tự giải quyết vấn đề của mình.
* Hướng nghiệp
Khái niệm hướng nghiệp (career guidance) đã được truyền bá rộng rãi sau Hội
nghị Quốc tế 1921 ở Barcelona. Phòng hướng nghiệp đầu tiên được thành lập ở
Boston (Hoa Kỳ) từ năm 1908. Từ 1916, những cơ quan chuyên môn về hướng
nghiệp đã được thành lập ở Đức, Pháp, Anh, Ý và các nước khác trên thế giới. Khái
niệm hướng nghiệp được đông đảo các học giả quan tâm nghiên cứu.
Các nước Tây Âu (cuối năm 20 của thế kỷ XX), hướng nghiệp được hiểu là
một hoạt động giúp đỡ thanh thiếu niên tự chọn nghề sao cho phù hợp giữa năng lực
của cá nhân và yêu cầu nghề, có tính đến nhu cầu phát triển đất nước.
Có tác giả dùng khái niệm hướng nghiệp theo nghĩa phát triển nghề nghiệp, quá
trình đó trang bị cho chính mình hiểu biết về khát vọng, giá trị, năng lực của mình; khai
thác các cơ hội học tập, đào tạo nghề nghiệp có thể có được; xây dựng chiến lược gắn
kết năng lực, kiến thức của mình với đòi hỏi của công việc (John Stewart) [18].

17


Theo K.K. Platonop, “Hướng nghiệp là một hệ thống các biện pháp tâm lý
- giáo dục, y học, nhằm giúp cho con người đi vào cuộc sống thông qua việc lựa
chọn cho mình một nghề nghiệp vừa đáp ứng nhu cầu xã hội, vừa phù hợp với
hứng thú năng lực của bản thân. Những biện pháp này sẽ tạo nên sự thống nhất
giữa quyền lợi của xã hội với quyền lợi của cá nhân" [32].
Như vậy, từ việc phân tích những quan niệm ở trên, theo chúng tôi hướng
nghiệp được hiểu là: Một hệ thống các biện pháp tác động của xã hội (gia đình, nhà
trường, xã hội) đến nhận thức, thái độ và hành vi lựa chọn nghề của cá nhân.
* Tư vấn hướng nghiệp
Mục đích cuối cùng của TVHN là học sinh lựa chọn được ngành, nghề phù
hợp với đặc điểm tâm sinh lý của bản thân và nhu cầu nhân lực của thị trường lao

động. Để trợ giúp học sinh đạt được mục tiêu đó, thì hoạt động tư vấn phải bắt đầu
từ người được tư vấn. Người được tư vấn (học sinh) đến với nhà tư vấn vì họ đang
gặp khó khăn để lựa chọn một nghề. Có thể họ chưa có hiểu biết gì về bản thân, về
nghề nghiệp hay về thị trường lao động; hoặc họ có hiểu một chút nhưng chưa đúng
và đầy đủ; hoặc là họ đang gặp mâu thuẫn giữa năng lực và hứng thú, giữa cái bản
thân muốn nhưng gia đình không cho phép, giữa nghề họ hứng thú nhưng lại khó
xin việc…Từ đó, có nhiều quan điểm khác nhau về tư vấn hướng nghiệp cho học
sinh từ các nhà tâm lý học trong và ngoài nước.
Theo Frank Parsons (1909), Tư vấn hướng nghiệp là việc trợ giúp một cá
nhân lựa chọn một nghề. F.Parson quan niệm công thức 3 phần như sau: Thứ
nhất, bạn phải có sự hiểu biết rõ ràng về bản thân bạn, năng khiếu, năng lực,
hứng thú, khả năng xoay sở, những hạn chế và những phẩm chất khác. Thứ 2,
kiến thức về những yêu cầu, điều kiện thành công, thuận lợi hay không thuận lợi,
cơ hội và những hoàn cảnh khác nhau trong công việc. Thứ 3, lập luận sâu sắc
về mối quan hệ giữa những đặc điểm của hai nhóm trên trong thực tế [61].
Tiếp tục mở rộng công thức của F. Parson, Edmund G.Williamson (1939,
1965) cho rằng TVHN là một quá trình gồm 6 bước: phân tích, tổng hợp, chẩn
đoán, tiên lượng, tư vấn và theo dõi. Cách tiếp cận của Williamson về tư vấn được
biết đến là tư vấn có chỉ dẫn (hay tư vấn có hướng dẫn, cho lời khuyên). Trong quá

18


trình tư vấn, nhà tư vấn sử dụng trắc nghiệm tâm lý để đo những đặc điểm nhân
cách (hứng thú, tài năng, trí tuệ).
Năm 1942, cuốn sách “Tư vấn và tâm lý trị liệu” của Carl R. Rogers được
xuất bản, với phương pháp “tư vấn thân chủ trọng tâm” là nguyên nhân để xem xét
lại toàn bộ những giả định đã được thiết lập trước đây trong TVHN. Những người
theo C. Roger cho rằng: (1) các khái niệm như tình cảm, động lực hành động cần
được xem xét trong quá trình tư vấn, (2) thân chủ tự chấp nhận bản thân và tự hiểu

bản thân là những mục tiêu cơ bản, (3) điều quan tâm nữa là mối tương tác giữa
thân chủ - nhà tư vấn và chia sẻ của thân chủ trong quá trình tư vấn. Thực chất, mối
quan hệ tư vấn là sự tôn trọng lẫn nhau, trực tiếp hướng tới việc thân chủ đạt được
sự tự hiểu biết bản thân và từng bước điều khiển được chính mình. Trung tâm của
mối quan hệ tư vấn thay đổi về phía thân chủ và kỹ thuật tư vấn, với sự giảm đi việc
dùng bài kiểm tra (test), ghi chép hồ sơ và quyền uy của nhà tư vấn. Tư vấn nghề
nghiệp theo một qúa trình cần tập trung vào việc tạo cho các cá nhân khả năng tận
dụng thế mạnh của họ để tự đưa ra quyết định và để có ảnh hưởng tới những lựa
chọn trong tương lai hơn là chỉ thích nghi với những áp lực của khách quan
(Morrill and Forrest. 1970) [61].
Những người theo Lý thuyết phát triển như Ginzberg (1951, 1972), Ginsburg,
Axelrad, Herma (1951), Zunker (2002) cho rằng: TVHN bao gồm tất cả những hoạt
động tư vấn liên quan với chọn nghề cả cuộc đời một người. Trong tiến trình
TVHN, tất cả các khía cạnh của những nhu cầu cá nhân (bao gồm gia đình, công
việc và thời gian rảnh rồi) được xem như là toàn bộ các phần của kế hoạch và
quyết định chọn nghề [61].
Theo Dick Bolles (1999, 2007) hiểu một cách đơn giản, TVHN là những gì
liên quan tới thị trường lao động, với những gì thuộc về cá nhân và đồng thời mối
quan hệ giữa thị trường lao động và nhu cầu cá nhân. Tư vấn hướng nghiệp là nỗ
lực của nhà tư vấn để chia sẻ với thân chủ về những “công cụ” đó là sự hiểu biết,
kiến thức, thông tin. Và “lập kế hoạch công viêc/ cuộc sống” bằng cách trợ giúp họ
ứng dụng những công cụ đó trong lĩnh vực công việc và cuộc sống [58].

19


×