Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

phát huy nguồn lực con người việt nam trong cuộc cách mạng công nghiệp 4 0

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (280.91 KB, 21 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Theo Gartner, Cách mạng Công nghiệp 4.0 (hay cách mạng công nghiệp lần thứ 4)
xuất phát từ khái niệm "Industrie 4.0" trong một Báo cáo của Chính phủ Đức năm 2013.
"Industrie 4.0" kết nối các hệ thống nhúng và cơ sở sản xuất thông minh để tạo ra sự hội
tụ kỹ thuật số giữa công nghiệp, kinh doanh, chức năng và quy trình bên trong. Dưới tác
động của Cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0), cả thế giới đã có những bước chuyển
mình rất đáng kể với sức mạnh đến từ trí tuệ nhân tạo và Internet vạn vật. Việt Nam do
hậu quả của chủ nghĩa thực dân để lại mà đã bị tụt hậu so với thế giới khá nhiều. Tuy
nhiên, chúng ta đang rất cố gắng để có thể rút ngắn khoảng cách này càng nhanh càng tốt.
CMCN 4.0. đem lại rất nhiều cơ hội và cùng với đó cũng mang tới nhiều thách
thức đổi với thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Một trong những rào cản lớn nhất
đối với Việt Nam, bên cạnh cơ sở về công nghệ, chính là chất lượng của nguồn nhân lực.
Tiểu luận này bàn về những kiến thức chúng ta đã biết về khái niệm “Nguồn nhân lực”,
phân tích những mặt tích cực và hạn chế nguồn nhân lực của Việt Nam hiện tại trong
hoàn cảnh chúng ta đang có những bước tiến gần hơn trong tiến trình CMCN 4.0. Từ việc
phân tích những tác động của thực tiễn, tiểu luận đề xuất một số nhóm giải pháp và các
giải pháp cụ thể để giúp Việt Nam giải quyết những vướng mắc cũng như phát huy những
lợi thế sẵn có về nguồn nhân lực.

2


I.

CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1.

Lịch sử vấn đề nghiên cứu

Chủ đề “Cách mạng Công nghiệp 4.0” đã và đang trở thành mối quan tâm của nhiều
quốc gia khi Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) 2017, lãnh đạo của các tập đoàn hàng đầu


thế giới như Infosys, Salesforce, General Motors… đã tham gia tọa đàm “Thích ứng với
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4”. Từ đó đến nay, rất nhiều tổ chức và toà báo uy tín
đã nghiên cứu tác động của cuộc cách mạng đến nhiều lĩnh vực của Việt Nam.
Bộ Công thương Việt Nam năm 2017 trong báo cáo phân tích với chủ đề “Nguồn
nhân lực chất lượng cao là yêu cầu cấp thiết cho Cách mạng công nghiệp 4.0” đã dự đoán
hai thách thức lớn nhất dành cho người lao động Việt Nam trong Kỷ nguyên số chính là đòi
hỏi ngày một tăng của thị trường về trình độ lao động và nguy cơ dư thừa lao động ở một
số ngành nghề. Theo đó, để chủ động thích ứng và hóa giải thách thức, việc xác định lại và
chuyển đổi mô hình đào tạo nghề sang “những gì thị trường cần” và “những gì thị trường
sẽ cần” nên được cấp thiết tiến hành. Bên cạnh đó, theo nhiều chuyên gia, cuộc CMCN 4.0
mang đến những cơ hội đột phá về năng suất, phát triển nhân lực công nghệ cao nhưng
chính điều này cũng đã khiến cho hàng chục nghìn lao động đang đứng trước nguy cơ mất
việc làm dù chưa đến tuổi nghỉ hưu. Bởi vậy nếu không sớm đưa ra các giải pháp thì Việt
Nam không chỉ trở lên tụt hậu mà còn phải đối mặt với gánh nặng chính sách đảm bảo an
sinh xã hội cho hàng chục nghìn lao động trước nguy cơ thất nghiệp.

Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, mặt khác, đã nêu lên thực trạng
đáng lo ngại của Việt Nam trong Kỷ nguyên số với chuyên đề “Tác động Cách mạng
công nghiệp 4.0 đến phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam” (2018). Theo Báo cáo về
mức độ sẵn sàng cho nền sản xuất trong tương lai 2018 của Diễn đàn kinh tế thế giới
(WEF) công bố tháng 4/2018, Việt Nam thuộc nhóm các quốc gia chưa sẵn sàng cho
cuộc CMCN 4.0, chỉ xếp thứ 70/100 về nguồn nhân lực. So sánh với các quốc gia trong
khu vực Đông Nam Á về chỉ số nguồn nhân lực, Việt Nam xếp sau Malaysia, Thái Lan,
Philippines và chỉ xếp hạng gần tương đương Campuchia.
3


Về tinh thần của Chính phủ với thời cuộc, một bài phân tích của báo Vietnamnet
“Việt Nam đang ở đâu trên bản đồ CMCN 4.0?” (2019) đã nhấn mạnh quan điểm của
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam về vai trò quan trọng của con người trong kiểm soát và

ứng phó với ảnh hưởng của cuộc cách mạng ““Trong lĩnh vực giáo dục, chúng ta không
chỉ đưa các môn học liên quan nhiều đến khoa học, công nghệ mà phải bắt đầu từ
những điểm căn bản nhất, thậm chí tưởng rằng không liên quan đến CMCN 4.0. Đó là
giáo dục cho người dân ở khu vực miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số. Bản chất của
cuộc CMCN 4.0 là không để ai bị bỏ lại phía sau.”
Và mới đây nhất, báo Nhân Dân đã một lần nữa khẳng định tính cấp thiết của việc
đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trước những nguy cơ tụt hậu trình độ và người lao
động mất việc. Bài báo “Nguồn nhân lực trong kỷ nguyên 4.0” (2020) đã khẳng định nhiệm
vụ phát triển nguồn nhân lực phải được thực hiện một cách đồng bộ trên nhiều phương diện
như giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, môi trường làm việc, chính sách việc làm,
thu nhập, an sinh xã hội, bảo hiểm, bảo trợ xã hội, chăm sóc sức khỏe, chính sách phát triển
thị trường lao động, điều kiện nhà ở, sinh sống, định cư...

Có thể thấy, trong các yếu tố tác động đến và bị tác động bởi Cách mạng Công
nghiệp 4.0, nhân lực là một trong những yếu tố có ảnh hưởng sâu rộng và lâu dài nhất.
Dựa trên những kết quả nghiên cứu đã có về thách thức và những chính sách vĩ mô để
đảm bảo nguồn lao động trong thời đại công nghệ số, nghiên cứu này sẽ tập trung vào
những biện pháp cụ thể với nhiều lĩnh vực để phát huy tối đa vai trò nguồn nhân lực
trong CMCN 4.0.
1.2.

Cơ sở lý thuyết

* Định nghĩa về “Nguồn Nhân lực”

Trong điều kiện hội nhập và cạnh tranh ngày càng sâu rộng, khi các doanh nghiệp,
tổ chức đang cố gắng tạo ra sự khác biệt ở công cụ cạnh tranh để tồn tại và phát triển,

4



nguồn nhân lực được coi là điểm mấu chốt để giải quyết vấn đề nêu trên. Có rất nhiều
quan niệm và định nghĩa về nguồn nhân lực:
Theo TS Bùi Xuân Đính (2000) định nghĩa về nguồn nhân lực như sau: “Nguồn
nhân lực là nguồn lực về con người và được nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh. Trước
hết với tư cách là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội”.
Theo ngôn ngữ sinh học, nguồn lực con người là thực thể thống nhất của cải sinh
vật và xã hội, là nguồn lực sống. C. Mác đã từng khẳng định rằng: “Trong tính hiện
thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội”.
Theo ngôn ngữ kinh tế, nguồn lực con người là: “Tổng hợp các năng lực lao động
trong mỗi con người của một quốc gia, một vùng lãnh thổ, địa phương, đã được chuẩn bị

ở mức độ nhất định và có khả năng huy động vào quá trình phát triển kinh tế xã hội của
đất nước hoặc vùng địa phương cụ thể”
Dựa vào những quan điểm trên thì nguồn lực con người được hiểu là lực lượng
lao động xã hội, những người lao động cụ thể và chỉ thuần túy về mặt số lượng người
lao động.
Theo quan điểm của kinh tế học phát triển, nguồn nhân lực là nguồn tài nguyên
nhân sự của quốc gia hoặc của một tổ chức, là vốn nhân lực. Ở tầm vĩ mô đó là nguồn lực
xã hội, ở tầm vi mô đó là một tập hợp của rất nhiều cá nhân, nhân cách khác nhau với
những nhu cầu và tâm lý khác nhau, là toàn bộ đội ngũ nhân viên của tổ chức, vừa có tư
cách là khách thể của hoạt động quản lý vừa là chủ thể hoạt động và là động lực của tổ
chức đó. Từ góc độ hạch toán kinh tế, coi đó là vốn lao động, với phần đóng góp chi phí
của nguồn vốn lao động trong sản phẩm sản xuất ra. Từ góc độ của kinh tế phát triển,
người lao động trong một tổ chức được coi là nguồn nhân lực với những khả năng thay đổi
về số lượng và chất lượng của đội ngũ trong quá trình phát triển của tổ chức, hay còn gọi là
“vốn nhân lực, được hiểu là tiềm năng, khả năng phát huy tiềm năng của người lao động, là
cái mang lại nhiều lợi ích hơn trong tương lai so với những lợi ích hiện tại”
5



Theo lý thuyết phát triển, nguồn nhân lực được hiểu là một bộ phận của các
nguồn lực có khả năng huy động, tổ chức, quản lý để tham gia vào quá trình phát triển
kinh tế - xã hội như nguồn lực vật chất, nguồn lực tài chính.
Theo ngôn ngữ quản trị, nguồn nhân lực được hiểu là “tất cả các tiềm năng của
con người trong tổ chức hay xã hội, tức là tất cả các thành viên trong doanh nghiệp sử
dụng kiến thức, khả năng, hành vi ứng xử và giá trị đạo đức để thành lập, duy trì và
phát triển doanh nghiệp”.
Như vậy, nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao động con người của một
quốc gia đã được chuẩn bị ở một mức độ nhất định, có khả năng huy động vào quá trình
phát triển kinh tế- xã hội của đất nước; “tiềm năng đó bao hàm tổng hòa các năng lực về
thể lực, trí lực, nhân cách con người của một quốc gia, đáp ứng với một cơ cấu nhất định
của lao động do nền kinh tế đòi hỏi. Thực chất đó là tiềm năng của con người về số lượng,
chất lượng và cơ cấu”. Tiềm năng về thể lực con người thể hiện qua tình trạng sức khỏe của
cộng đồng, tỷ lệ sinh, mức độ dinh dưỡng của xã hội. Cơ cấu dân số thể hiện qua tháp tuổi
của dân số. Năng lực thể chất của con người là nền tảng và cơ sở để các năng lực về trí tuệ
và nhân cách phát triển. Tiềm năng về trí lực là trình độ dân trí và trình độ chuyên môn kỹ
thuật hiện có, cũng như khả năng tiếp thu tri thức, khả năng phát triển tri thức của nguồn
nhân lực. Năng lực về nhân cách liên quan đến truyền thống lịch sử và nền văn hóa của
từng quốc gia. Nó được kết tinh trong mỗi con người và cộng đồng, tạo nên bản lĩnh và
tính cách đặc trưng của con người lao động trong quốc gia đó.

II.

THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ
2.1.

Thực trạng chung của nguồn nhân lực Việt Nam

* Mặt tích cực

Theo Tổng điều tra dân số, Việt Nam hiện có hơn 96,2 triệu dân, là quốc gia đông
dân thứ 15 thế giới, thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á (2019). Theo Báo cáo Điều tra Lao
động việc làm sơ bộ 2018 của Tổng cục Thống kê, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên

6


của Việt Nam ước tính khoảng 55.3 triệu người, chiếm khoảng 57% tổng dân số. Như
vậy, Việt Nam có nguồn nhân lực tương đối dồi dào, và đang trong thời kỳ dân số vàng.
Đây là một trong những điều kiện thuận lợi của Việt Nam trong thời kỳ CMCN 4.0.
Bên cạnh số lượng nhân lực dồi dào, chất lượng nguồn nhân lực qua đào tạo của
Việt Nam cũng có thể được xem là thế mạnh trong quá trình CMCN 4.0. Việt Nam có
gần 12 triệu nhân lực đã qua đào tạo, có trình độ từ đào tạo nghề trở lên, trong đó nhân
lực có trình độ từ đại học trở lên có khoảng hơn 5 triệu người, chiếm 44% trong tổng số
nhân lực đã qua đào tạo.

Hình 2.1. Tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo Việt Nam phân theo trình độ
chuyên môn kỹ thuật (Tổng cục thống kê Việt Nam, 2017)
Nguồn nhân lực đang là vấn đề hàng đầu được Đảng và nhà nước quan tâm sâu sắc
bằng những định hướng phát triển, có thể kể đến như: Chiến lược phát triển nguồn nhân
lực Việt nam thời kỳ 2011 – 2020 (Quyết định số 597/QĐ-TTg ngày 19 tháng 4 năm 2011
của Thủ tướng Chính phủ); Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực Việt nam thời kỳ

7


2011-2020 (Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 22 tháng 7 năm 2011 của Thủ tướng
Chính phủ).
* Hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh lực lượng lao động đã qua đào tạo, một phần lớn của nguồn nhân lực

Việt Nam là lao động phổ thông giá rẻ với trình độ của người lao động còn lạc hậu.
Theo Tổng cục Thống kê Việt Nam 2017, nguồn nhân lực chưa qua đào tạo chiếm một
tỷ lệ khá cao (78.3%).
Thừa lao động phổ thông, nhưng Việt Nam lại đang thiếu lao động có trình độ
cao. Lực lượng lao động của Việt Nam chủ yếu là lao động tay nghề thấp, trong đó,
theo Tổng cục Thống kê Việt Nam 2017, tỷ lệ trên tổng số lao động của các nghề giản
đơn chiếm tỷ lệ cao nhất (37 - 40%), tỷ lệ lao động làm công việc chuyên môn kỹ thuật
bậc cao chỉ dao động trong khoảng 6 - 7%.
Bảng 2.1. Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc hàng năm phân theo nghề
nghiệp (Tổng cục thống kê Việt Nam, 2017)

8


Một trong những nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế này là vấn đề giáo
dục. Công tác đào tạo nhân lực Việt Nam nói chung, đào tạo nghề nói riêng những năm
qua đã có những chuyển biến rõ nét nhưng vẫn chưa được như kỳ vọng, chưa đáp ứng
được yêu cầu của nền kinh tế.
CMCN 4.0 với những công nghệ mới được tạo ra, đòi hỏi một nguồn nhân lực chất
lượng cao, được trang bị kiến thức, kỹ năng phù hợp để đáp ứng yêu cầu trong tình hình
mới, đặc biệt là những ngành công nghiệp mới nổi nhưng lại phát triển mạnh mẽ như:
ngành công nghệ thông tin, kỹ thuật máy tính, tự động hóa… . Điều này là thách thức rất
lớn đối với nguồn nhân lực ở mỗi quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam.

2.2.

Tác động của cuộc CMCN 4.0 đối với nguồn nhân lực Việt Nam

Trong mấy trăm năm gần đây, cả thế giới đã trải qua những bước chuyển mình
mạnh mẽ trong tất cả mọi mặt mà những dấu mốc thành quả quan trọng chính là 4 cuộc

Cách mạng công nghiệp. Từ cuộc cách mạng đầu tiên là cơ khí hóa với máy chạy bằng
thủy lực và hơi nước, đến cuộc cách mạng mạng thứ 2 là sử dụng động cơ điện và dây
chuyền lắp đặt, sản xuất hàng loạt cho đến cuộc cách mạng thứ 3 của kỷ nguyên máy tính
và tự động hóa, đến nay chúng ta đã bước qua cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 - cuộc
cách mạng của các hệ thống liên kết thế giới thực và ảo. Có thể nói rằng, cuộc CMCN 4.0
chính là cuộc cách mạng mang đến những đổi mới một cách sâu rộng và toàn diện nhất đối
với tất cả các quốc gia trên thế giới. Nó hội tụ một loạt các nền tảng kết nối và công nghệ
số có thể kể đến như Internet kết nối vạn vật (IoT); Cơ sở dữ liệu tập trung (Big data); Trí
tuệ nhân tạo (AI); Năng lượng tái tạo/ Công nghệ sạch (Renewable energy/ Cleantech);
Người máy (Robotics); Công nghệ in 3D (3D printing); Vật liệu mới (graphene, skyrmions,
bio-plastic,...); Blockchain; Kết nối thực ảo (Virtual/Augmented Reality); Thành phố thông
minh (Smart cities); Công nghệ màng mỏng (Fintech); Các nền kinh tế chia sẻ (Shared
economics); v.v. Cuộc CMCN 4.0 thay đổi hoàn toàn cách thức mà con người giao kết và
chia sẻ thông tin trên thế giới, mang đến một kỉ nguyên

9


mà ở đó khoảng cách giữa các nước đang phát triển và các nước đã phát triển có thể
được rút ngắn một cách nhanh chóng dựa vào ứng dụng công nghệ.
Không đứng ngoài vòng tác động của cuộc CMCN 4.0, Việt Nam cũng có những
bước chuyển mình nhanh chóng trên nhiều lĩnh vực nhằm bắt kịp với những bước tiến
của nhân loại trong cuộc cách mạng 4.0. Tuy nhiên, ngoài các thành quả tích cực, cuộc
cách mạng 4.0 cũng tác động và làm xáo trộn nhiều lĩnh vực mà trong đó, nguồn nhất
lực có thể là một trong những lĩnh vực chịu sự xáo trộn mạnh mẽ nhất tại Việt Nam.
*Sự chuyển dịch về cơ cấu lao động
Ngày nay, sự phát triển không ngừng của Trí tuệ nhân tạo (AI) và Người máy
(Robotics) là mối đe dọa đến sự tồn vong của nhiều ngành nghề tại Việt Nam. Nghiên
cứu của Tập đoàn công nghệ Cisco phối hợp với Oxford Economics cùng thực hiện tại
ASEAN nhấn mạnh đến một số ngành nghề sẽ bị ảnh hưởng mạnh mẽ của cuộc CMCN

4.0 tại Việt Nam.
• Nông nghiệp: Là một đất nước nổi tiếng với ngành nông nghiệp trù phú,
những năm gần đây nông sản Việt Nam đã có được những thành tích đáng tự
hào, ngày một vươn xa trên thị trường thế giới khi mà chúng ta thành công
trong việc chinh phục hoàng loạt thị trường khó tính như Mỹ, Châu Âu, Nhật
Bản,... Tuy nhiên, cùng với đó chính là sự đòi hỏi ngày một khắt khe hơn đối
với quy trình sản xuất, cần có sự chuẩn hóa nhất định trong các khâu để cho ra
đời những loại nông sản đạt chuẩn quốc tế. Chính vì thế, việc ứng dụng máy
móc tự động và robot vào quá trình sản xuất nhằm tạo sự đồng bộ cho nông
sản thành phẩm là xu hướng không thể tránh khỏi. Theo dự báo, đến năm
2028, máy móc và công nghệ sẽ thay thế khoảng 6.6 triệu lao động phổ thông,
lao động có tay nghề thấp trong ngành nông nghiệp.
• Dệt may, giày dép, lắp ráp: Cùng chung số phận với ngành nông nghiệp,

ngành dệt may, giày dép và lắp ráp cũng đang trên đà áp dụng máy móc và
tự động hóa để nâng cao năng xuất. Chẳng hạn, đối với ngành dệt may, các
10


thao tác như cắt, may thì máy móc đều có thể thay thế được. Hay robot có thể
thay thế đối với ngành lắp ráp điện tử và có thể làm việc liên tục 24/24 mang
lại sự chính xác và năng suất lao động cao hơn hẳn con người. Theo ước tính
sẽ có khoảng 86% lao động của ngành dệt may có nguy cơ mất việc cho đến
năm 2028 do sự công nghiệp hóa mạnh mẽ của nhóm ngành này.

• Các ngành lao động đòi hỏi kỹ năng cơ bản, đơn điệu: Khi mà công
nghệ AI ngày càng phát triển, Trí tuệ nhân tạo ngày một đảm đương được
nhiều công việc của con người. Chính vì vậy, những công việc lặp đi lặp
lại, không đòi hỏi nhiều kĩ năng phân tích hay sáng tạo như kế toán, thu
ngân, nhân viên làm hồ sơ chứng từ,... sẽ dần bị thay thế. Theo kết quả

nghiên cứu, 41% lao động trong những ngành này sẽ bị tự đào thải nếu
không kịp trang bị những kỹ năng về công nghệ thông tin trước năm 2028.
• Công nghệ thông tin, điện tử, viễn thông, an ninh mạng: Cùng với sự phát
triển của những nền tảng kết nối điện tử, việc ứng dụng và quản lý thông tin
cũng như việc làm thế nào để khai thác hiệu quả thông tin trở thành mối quan
tâm lớn của toàn xã hội. Chính vì vậy, nguồn lao động được dự báo sẽ chuyển
dịch và tập trung mạnh ở nhóm ngành này trong những năm tới.

• Sự bùng nổ của những ngành nghề mới: Tuy công nghệ AI hay robot có
những ứng dụng to lớn đối với cuộc sống con người, nhưng chúng không thể
thay thế tất cả. Sự phát triển của AI và robot cũng đòi hỏi phải có một phương
pháp quản lý hiệu quả thì mới có thể tạo ra giá trị thiết thực. Để làm được điều
này, Việt Nam cũng như toàn thế giới cần có một đội ngũ lao động với chất
lượng cao, có kĩ năng phân tích và tư duy nhạy bén để đáp ứng với những
nhiệm vụ hoàn toàn mới này. Theo dự báo, tới năm 2025, có tới 80% công việc
sẽ là những công việc mới mà chưa từng có ở thời điểm hiện nay.

* Những thách thức của cuộc CMCN 4.0 đối với nguồn nhân lực Việt Nam

11


Chúng ta vừa điểm qua những tác động mạnh mẽ của cuộc CMCN 4.0 đối với sự
chuyển dịch cơ cấu lao động ở Việt Nam. Chính sự thay đổi đột ngột này đã đặt ra
những thách thức đối với nguồn nhân lực Việt Nam.
Đầu tiên, phải kể đến một số lượng lớn lao động sẽ bị đào thải và thay thế trong
tương lai do việc áp dụng máy móc công nghệ tiên tiến vào sản xuất. Lượng lao động
dư thừa này sẽ làm tăng tỷ lệ thất nghiệp tại Việt Nam và dẫn đến những gánh nặng to
lớn về an sinh xã hội, ngân sách nhà nước và trật tự xã hội nói chung. Nhằm giảm thiểu
thực trạng đen tối này, nhà nước cần có những biện pháp ngay lập tức để đào tạo, trang

bị những kỹ năng cần thiết cho người lao động để đáp ứng với nhu cầu của thị trường
trong thời đại mới, hoặc nâng cao tay nghề trong lĩnh vực hiện tại để bám trụ được với
công việc. Tuy nhiên, theo báo cáo của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) công bố tháng
4/2018, chất lượng đào tạo nghề của Việt nam đang ở mức thấp, chỉ xếp hạng 80/100, bị
thụt lùi khá xa so với các nước trong khu vực ASEAN.

Hình 2.2. Thứ hạng về chỉ số chất lượng đào tạo nghề của Việt Nam và các nước
ASEAN
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng chưa thực sự có một nguồn nhân lực mới đủ vững mạnh
và có trình độ chuyên môn để đáp ứng với nhu cầu nhân lực ngành càng cao trong các
ngành công nghệ thông tin, viễn thông, điện tử hay các ngành nghề mới đang xuất hiện.
Khi mà chúng ta đang xếp thứ 81/100 về chỉ số lao động có chuyên môn cao. Đây 12


là một con số thấp đáng báo động đối với một đất nước đang trên đà phát triển mạnh về
công nghiệp hóa - hiện đại hóa như Việt Nam.

Hình 2.3 Thứ hạng về chỉ số lao động có chuyên môn cao của Việt Nam và các nước ASEAN

Cũng theo báo cáo của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) được nêu ở trên, Việt
Nam thuộc nhóm các quốc gia chưa sẵn sàng cho cuộc CMCN 4.0, chỉ xếp thứ 70/100
về nguồn nhân lực. So sánh với các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á về chỉ số
nguồn nhân lực, Việt Nam xếp sau Malaysia, Thái Lan, Philippines và chỉ xếp hạng gần
tương đương Campuchia.

Hình 2.4. Thứ hạng về chỉ số nguồn nhân lực Việt Nam và các nước ASEAN

13



Chính nghịch lý giữa việc lao động cũ thì thiếu tay nghề để bám trụ với công
việc và lao động mới thì đang chưa đủ trình độ năng lực để đáp ứng với nhu cầu ngày
càng cao của thị trường đã chỉ ra vấn đề còn tồn đọng trong ngành giáo dục và đào tạo.
Đó chính là việc đào tạo còn nặng về sách vở, chưa đáp ứng được nhu cầu của thị
trường, phương pháp giáo dục còn lạc hậu và thiếu tính cập nhật. Chính điều này đã dẫn
đến một thực trạng đáng báo động khi mà rất nhiều doanh nghiệp đang gặp khó khăn
trong việc tuyển dụng lao động có chuyên môn cao, thậm chí phải mất rất nhiều chi phí
để đào tạo, tập huấn tại doanh nghiệp trước khi bước vào làm việc. Thách thức lớn nhất
của nguồn nhân lực Việt nam ngày nay chính là làm thế nào để phối hợp một cách có
hiệu quả với doanh nghiệp để có thể đào tạo, tôi luyện ra những nguồn nhân lực thực sự
chất lượng, đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của thị trường.
Cuộc CMCN 4.0 mang đến nhiều cơ hội cho các nước đang phát triển có thể
chạy đà và vươn mình trên trường thế giới, nhưng nó cũng có thể là tảng đá đè nặng lên
sự phát triển quốc gia nếu chúng ta không thực sự chuẩn bị được một nguồn nhân lực
dồi dào đáp ứng với yêu cầu ngày càng tăng cho xã hội.
2.3.

Nhận xét

Tóm lại, từ những thông tin và phân tích kể trên, ta có thể thấy tuy Việt Nam
đang đứng trước cơ hội chuyển mình từ làn sóng Cách mạng công nghiệp 4.0, nhưng
chúng ta phải đối mặt với những thách thức rất lớn mà cuộc cách mạng này đem lại, đặc
biệt là trong nguồn nhân lực.
Nền nhân lực hiện tại của Việt Nam vẫn được biết đến với thế mạnh là dồi dào và
giá rẻ với 96,2 triệu dân và đang trong thời kỳ dân số vàng. Song hành với đó, trình độ
nhân lực ở một số lĩnh vực bắt đầu được nâng cao khi có sự quan tâm và đầu tư trong công
tác đào tạo từ phía nhà nước. Tuy nhiên, thế mạnh giá rẻ của nguồn nhân lực nước nhà
cũng phản ánh một thực trạng là một phần lớn lao động nước ta là lao động phổ thông trình
độ thấp, chỉ làm những công việc cơ bản và có tính chất lặp lại, dễ dàng bị thay thế bởi
máy móc khi công nghệ phát triển và được áp dụng. Trong những năm qua, chính


14


phủ Việt Nam tuy có những cố gắng nhất định trong việc nâng cao trình độ nhân sự qua
hệ thống giáo dục từ các trường phổ thông, đào tạo nghề cho đến giáo dục đại học, cao
đẳng, nhưng kết quả còn chưa thực sự đột phá.
Trong khi đó, với tốc độ phát triển như vũ bão của công nghệ trong cuộc Cách
mạng công nghiệp 4.0, các ngành nghề mới đòi hỏi nhân sự trình độ cao xuất hiện ngày
càng nhiều, các ngành nghề truyền thống cũng có sự thay đổi, cải tiến bởi những phát
triển vượt bậc của công nghệ thì nguồn nhân lực của Việt Nam đang gặp phải những
xáo trộn không nhỏ. Cơ cấu nhân sự giữa các ngành thay đổi và chuyển dịch mạnh mẽ,
nhu cầu về nhân sự có trình độ cao tăng vọt, những công việc của lao động có trình độ
thấp dần bị máy móc thay thế. Như vậy, thế mạnh hiện tại của nguồn nhân lực Việt
Nam (nhân công dồi dào, giá rẻ do trình độ còn thấp) lại trở thành trở ngại khi mà các
ngành nghề mới thì lại khan hiếm nhân sự chất lượng cao, các ngành nghề cũ dần áp
dụng máy móc tự động lại khiến một lượng lớn lao động phổ thông rơi vào tình trạng
thất nghiệp, ảnh hưởng lớn đến đời sống của người dân và an sinh xã hội.
Chính vì vậy, chính phủ Việt Nam cần nhìn nhận trực diện vào vấn đề và hành
động nhanh chóng, quyết liệt trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có những
chính sách khuyến khích phân bổ nguồn lực lực giữa các ngành nghề hợp lí để không bị
bỏ lại phía sau so với các nước trong khu vực và trên thế giới trong cuộc Cách mạng
công nghiệp 4.0.

III. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP
3.1.

Cơ sở đề xuất

Nhận biết được thực trạng vấn đề nguồn nhân lực trong nền công nghiệp Việt

Nam 4.0, Việt Nam cần phải đưa ra những giải pháp tối ưu để nâng cao chất lượng lao
động ngay từ trên ghế nhà trường.

15


Trong phần 3.1, tiểu luận này sẽ chỉ ra những cơ sở dựa trên báo cáo chính trị
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XII của Đảng.
Theo Báo cáo chính trị, Đảng đã nêu rõ:
• Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu
từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; học
đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn. Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn
với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ
khoa học - công nghệ, yêu cầu phát triển nguồn nhân lực và thị trường lao động.

• Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo
theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học. Đổi mới
chương trình, nội dung giáo dục theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực, phù
hợp với lứa tuổi, trình độ và ngành nghề. Đa dạng hóa nội dung, tài liệu học tập,
đáp ứng yêu cầu của các bậc học, các chương trình giáo dục, đào tạo và nhu cầu
học tập suốt đời của mọi người. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và
học, hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào
tạo, bảo đảm trung thực, khách quan.
• Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học
tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập. Quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục
nghề nghiệp, giáo dục đại học gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy
hoạch phát triển nguồn nhân lực. Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực
cho đất nước, cho từng ngành, từng lĩnh vực, với những giải pháp đồng bộ, trong

đó tập trung cho giải pháp đào tạo, đào tạo lại nguồn nhân lực trong nhà trường
cũng như trong quá trình sản xuất kinh doanh, chú trọng nâng cao tính chuyên
nghiệp và kỹ năng thực hành. Phát triển hợp lý, hiệu quả các loại hình trường
ngoài công lập đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học.

16


• Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống
nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo;
coi trọng quản lý chất lượng. Giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ
sở giáo dục, đào tạo; thực hiện giám sát của các chủ thể trong nhà trường và xã
hội, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra của cơ quan quản lý các cấp, bảo
đảm dân chủ, công khai, minh bạch.
• Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục
và đào tạo. Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo từng cấp học và trình độ
đào tạo.
• Đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của toàn
xã hội; nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo. Đổi mới và
hoàn thiện cơ chế, chính sách giá dịch vụ giáo dục - đào tạo. Đẩy mạnh xã hội
hóa, trước hết đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. Tiếp tục thực
hiện mục tiêu kiên cố hóa trường, lớp học; từng bước hiện đại hóa cơ sở vật chất
- kỹ thuật, đặc biệt là hạ tầng công nghệ thông tin.
• Nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ,
đặc biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản lý. Khuyến khích thành lập viện,
trung tâm nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, doanh nghiệp khoa học và công
nghệ. Nghiên cứu sáp nhập một số tổ chức nghiên cứu khoa học và triển khai
công nghệ với các trường đại học công lập.”
Như vậy, Đảng cũng đã nhận thấy rằng phương pháp giáo dục còn lạc hậu. Trong
bối cảnh phát triển công nghệ như hiện nay, ta phải có những giải pháp giáo dục phù hợp

để có thể phát triển con người và đi đôi với phát triển kinh tế xã hội, khoa học công nghệ.

Do đó, dựa trên những định hướng của Đảng đã đề ra trong Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ XII, tiểu luận này sẽ đề cập và phân tích rõ những giải pháp cụ thể
chia thành 3 nhóm chính:
• Nhóm giải pháp về hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển nguồn nhân lực
17


• Nhóm giải pháp về giáo dục đào tạo
• Nhóm giải pháp về sử dụng nguồn nhân lực
3.2.

Giải pháp cụ thể

*Nhóm giải pháp về hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển nguồn nhân lực
Với sự phát triển của công nghệ và cách mạng công nghiệp 4.0, nhiều doanh
nghiệp dần ứng dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất, kinh doanh để nâng cao doanh
thu, giảm thiểu chi phí. Ngoài việc ứng dụng thì nhiều ngành nghề được ra đời và phát
triển rộng rãi. Các doanh nghiệp dần phải thích ứng với thay đổi, đưa ra các tiêu chuẩn
về kỹ năng tối thiểu cho các ứng viên. Các doanh nghiệp sẽ chỉ đạo, xây dựng các khóa
đào tạo nhân viên theo đúng nhu cầu đề ra. Ngoài ra, các cơ quan, doanh nghiệp, tổ
chức sử dụng lao động cần tăng cường hợp tác với các cơ sở giáo dục, trường nghề, xác
định nhu cầu nhân lực, huy động và chia sẻ nguồn lực, kinh phi để đẩy mạnh công tác
đào tạo, nghiên cứu khoa học theo nhu cầu; phối hợp với các cơ sở đào tạo để xây dựng
các tiêu chuẩn đầu ra của ngành, nghề đào tạo, đặc biệt chú trọng đến các lĩnh vực liên
quan đến công nghệ thông tin.
Bộ, ngành và địa phương cần có kế hoạch phát triển nhân lực phù hợp với nhu
cầu xã hội. Nhà nước nên đưa ra các chính sách khuyến khích, hỗ trợ chi phí cho các cơ
sở đào tạo để mở rộng quy mô, điều chỉnh cơ cấu ngành nghề đào tạo, nâng cao chất

lượng nhân lực.
* Nhóm giải pháp về giáo dục đào tạo
Các cơ sở đào tạo, trung tâm dạy nghề cần bổ sung một số ngành nghề lĩnh vực đào
tạo phù hợp với yêu cầu đang đặt ra. Các cơ sở đào tạo cũng cần trang bị cho học viên,
nghiên cứu sinh các kỹ năng cần thiết như: giao tiếp, nghiên cứu tài liệu nước ngoài, sử
dụng công nghệ thông tin, sự sáng tạo, thích nghi, nắm bắt được xu thế phát triển của xã
hội…Đặc biệt, các cơ sở đào tạo cần công khai các tiêu chí, hướng đi học và sử dụng cán
bộ để làm tăng tính tích cực, chủ động cho cả người học và đơn vị sử dụng, không

18


quá phụ thuộc vào vấn đề bằng cấp mà coi trọng đến hiệu quả công việc. Trong quá
trình đào tạo, các cán bộ giảng dạy cần đẩy mạnh ứng dụng của công nghệ thông tin
nhằm tối đa hóa hiệu quả giảng dạy, giúp học viên làm quen và bắt kịp xu hướng của
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
* Nhóm giải pháp về sử dụng nguồn nhân lực.
-

Phát triển nguồn nhân lực sẵn có
Dù trong thời đại nào đi chăng nữa , việc tận dụng tối đa nguồn lực sẵn có

luôn đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển của công ty. Để phát
triển được nguồn nhân lực chất lượng cao, điều đầu tiên bạn cần làm chính là
sàng lọc, đào tạo nguồn nhân lực sẵn có, đưa ra những chính sách để bồi dưỡng
nhân viên trở nên chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu công việc đề ra.
-

Tuyển dụng nhân tài
Để sở hữu được nguồn nhân lực chất lượng cao, doanh nghiệp không những


tận dụng mọi tiềm năng sẵn có mà còn cần đưa ra những chính sách thu hút và
tìm kiếm nhân tài. Để làm được điều đó, doanh nghiệp cần xây dựng được một
chính sách đãi ngộ tốt với mức lương và phúc lợi ổn định, xây dựng một môi
trường làm việc chuyên nghiệp, năng động, văn hoá doanh nghiệp lành mạnh,
ấn tượng. Đồng thời, để có thể tiếp cận với nguồn nhân tài, các doanh nghiệp
có thể lựa chọn phối hợp với các trường đại học, trung tâm đào tạo để thực
hiện các ngày hội tuyển dụng. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần có sự sàng lọc
và tuyển chọn nghiêm túc, kĩ lưỡng để có thể tìm ra được những nhân tài thực
sự phù hợp cho công việc

19


IV.

KẾT LUẬN
Với việc phân tích thực trạng nguồn nhân lực, tiểu luận đã chỉ ra được những lợi

thế đến từ dân số đông và trạng thái dân số vàng ở Việt Nam, cũng như những thách
thức đến từ trình độ còn hạn chế của dân số trong độ tuổi lao động dù gần đây vấn đề
này đang dần được cải thiện. Từ những phân tích cũng như những nhận xét và đánh giá,
tiểu luận đi đến kết luận: Để cải thiện chất lượng, sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực,
Việt Nam cần nỗ lực hoàn thiện các cơ chế, chính sách liên quan đến phát triển nguồn
nhân lực, cùng với đó cần phải có sự quan tâm đúng mức tới công tác giáo dục - đào tạo
và đưa ra các chính sách sử dụng nguồn nhân lực một cách hợp lý.
Việc phát triển nguồn nhân lực là một vấn đề quan trọng với bất cứ ngành nghề,
lĩnh vực nào trong nền kinh tế bởi con người là yếu tố cốt lõi trong mọi hoạt động. Đầu
tư và con người là khoản đầu tư không bao giờ lỗ. Với tốc độ thay đổi chóng mặt của
Cách mạng công nghiệp 4.0, nhân lực cần được trang bị những kiến thức, kĩ năng mới

và phức tạp hơn. Vì vậy, cách thức phát triển, đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực, v.v.
cũng cần thay đổi. Do đó, tất cả các giải pháp đề ra cần được thực hiện đồng bộ chứ
không thể được áp dụng riêng lẻ. Có như vậy, nguồn nhân lực của Việt Nam mới có thể
phát triển toàn diện và bắt kịp được với tốc độ của cuộc cách mạng công nghiệp đang
đem lại làn sóng thay đổi mới và cực kì nhanh chóng.

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Sinh Cúc - Hội Thống kê Việt Nam (2014). Nguồn nhân lực và phát triển nhân
lực. Trích từ: />TS. Võ Văn Lợi (2019) - Phát triển nguồn nhân lực Việt Nam đáp ứng yêu cầu của Cách
mạng Công nghiệp 4.0. nhanluc-viet-nam-dap-ung-yeu-cau-cua-cach-mang-cong-nghiep-40-302127.html

Cổng thông tin Bộ Lao động - Thương binh và xã hội (2018) Xu hướng chuyển đổi cơ
cấu nhân lực trong Cách mạng công nghiệp 4.0. Trích từ:
/>Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (2018) - Tác động Cách mạng công nghiệp
4.0 đến phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam. Trích từ:
/>c%20%C4%91%E1%BB%99ng%20CMCN%204_0%20%C4%91%E1%BA%BFn%20n
gu%E1%BB%93n%20nh%C3%A2n%20l%E1%BB%B1c%20VN-converted.pdf
ThS. Phạm Quang Khánh (2019) Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt
Nam trước yêu cầu số hóa nền kinh tế. Trích từ: />(2016) Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XII của Đảng. Trích từ: hanh-trunguong-dang-khoa-xi-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xii-cua-dang-1600

ThS. Nguyễn Hữu Giới (2018). Tạp chí Thư viện Việt Nam - 2018 - Số 3 - Tr. 3-8. Trich
từ: />Bộ Công thương Việt nam (2017). Nguồn nhân lực chất lượng cao là yêu cầu cấp thiết
cho Cách mạng công nghiệp 4.0. Trích từ: />Vietnamnet (2019). Việt Nam đang ở đâu trên bản đồ CMCN 4.0? Trích từ:
/>21



Báo nhân dân (2020). Nguồn nhân lực trong kỷ nguyên 4.0. Trích từ:
/>Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) (2018). Readiness for the Future of Production Report.
Trích từ: />Thư viện quốc gia Việt Nam (2018) />
22



×