Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

tiểu luận kinh tế quốc tế khu vực mậu dịch tự do CAFTA với trung quốc và tác động của nó đến việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.23 KB, 31 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Thương mại luôn là động lực chủ yếu thúc đẩy sự phát triển kinh tế quốc
gia. Tuy nhiên, trong từng thời kỳ phát triển, xuất phát từ những lợi ích quốc
gia, các Nhà nước luôn tìm cách dựng lên những rào cản thương mại nhằm bảo
hộ các ngành kém cạnh tranh trong nước. Sự phát triển của thương mại, vì thế,
luôn là cuộc đấu tranh gay gắt giữa xu hướng tự do hoá thương mại và bảo hộ
thương mại. Tuy nhiên, từ những năm 1950 đến nay, với sự phát triển của xu thế
toàn cầu hoá kinh tế, đặc biệt với sự ra đời của GATT( 1947), và nay là WTO,
tự do hoá thương mại đã trở thành xu thế chủ yếu, là nội dung cốt lõi của quá
trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Trong thời đại ngày nay, mở rộng
quan hệ kinh tế quốc tế đã và đang là một trong những vấn đề thời sự đối với
hầu hết các nước. Mỗi quốc gia không thể tự mình giải quyết một số vấn đề nhất
định. Để giải quyết vấn đề, mỗi quốc gia phải tham gia liên kết, hội nhập cùng
với các quốc gia khác để cùng nhau phát triển.
Nằm trong xu thế chung đó, ASEAN và Trung Quốc đã ký kết hiệp định
thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc (CAFTA hay ACFTA).
Hiệp định này chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/2010. Mặc dù hứa hẹn những
thuận lợi cơ bản đối với cả hai bên, thực tế, hiệp định này cũng chứa đựng nhiều
thách thức đối với các nước ASEAN. Trước thực tế đó, vấn đề “được và mất”
của ASEAN khi tham gia CAFTA với Trung Quốc đã được một số học giả
nghiên cứu, tìm hiểu. Để vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn, góp phần làm
sáng tỏ thêm vấn đề này, bằng những kiến thức được học từ môn Kinh tế quốc
tế, nhóm chúng em xin mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Khu vực mậu dịch tự do
CAFTA với Trung Quốc và tác động của nó đến Việt Nam”. Đề tài được nghiên
cứu nhằm mục đích vận dụng kiến thức đã học, đưa ra những nhận định ban đầu
về cơ hội, thuận lợi cũng như khó khăn và thách thức của ASEAN khi tham gia


CAFTA. Bên cạnh đó là những tác động của CAFTA đến Việt Nam. Để đạt
được mục tiêu đó, đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu chung: phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các phương pháp


nghiên cứu cụ thể: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh tĩnh…
Dưới sự giảng dạy và hướng dẫn của giảng viên ThS. Lê Kiều Phương, chúng
em đã hoàn thành tiểu luận với nội dung như sau:
Phần 1: Sự hình thành ACFTA
Phần 2: Tác động của ACFTA đến các quốc gia thành viên: Cơ hội và Thách
thức
Phần 3 : Tác động của ACFTA đến Việt Nam
Quan hệ hợp tác Việt Nam và Trung Quốc, Cơ hội và Thách thức với Việt Nam
Giải pháp thúc đẩy quan hệ hội nhập Việt Nam và ACFTA

NỘI DUNG
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ
DO ASEAN – TRUNG QUỐC (ACFTA)
1. Những nhân tố thúc đẩy sự hình thành ACFTA
Sự hình thành khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc chịu ảnh
hưởng của nhiều nhân tố, cả nhân tố bên ngoài mang tính xu hướng phổ biến và
nhân tố bên trong mang tính đặc thù nội tại của khu vực. Nhìn chung có 3 nhân
tố chính thúc đẩy ASEAN và Trung Quốc bắt tay nhau hình thành nên một khu
vực mậu dịch tự do. Đó là:


Sự phát triển mạnh mẽ của các khu vực mậu dịch tự do (FTA) trên
toàn thế giới.

Nền kinh tế thế giới đã trải qua sự biến đổi chưa từng thấy trong nửa cuối
những năm 1990. Đặc biệt, các hoạt động của các tập đoàn đã được toàn cầu


hoá mạnh mẽ thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), sự sáp nhập và mua
lại(M&A) xuyên biên giới và thông qua các kênh giao dịch quốc tế khác nhau.

Cùng với cuộc cách mạng công nghệ thông tin, luật chơi mới về cạnh tranh đã
được thiết lập ở các lĩnh vực như kiểm soát quản lý, quản lý công nghệ, nội địa
hoá và mối quan hệ giữa các hãng, tìm kiếm các nguồn lực bên ngoài và sử
dụng các chính sách thương mại quốc tế. Cả ASEAN và Trung Quốc không nằm
ngoài xu hướng này vì đây là phương thức hợp tác hiệu quả làm tăng cường sự
thịnh vượng chung cho các nước.
 Mức độ điều chỉnh của các FTA sâu rộng hơn so với tổ chức
WTO.
Các FTA có những mức ưu đãi rất cao, tạo điều kiện thuận lợi để tự do hóa
tối đa và triệt để hoàn toàn những trở ngại đối với thương mại hàng hóa, dịch
vụ, đầu tư. Đặc biệt hơn là thuế suất nhập khẩu giảm xuống chỉ còn 0% và có
các ưu đãi hấp dẫn mở cửa thị trường đầu tư. Ngoài ra, FTA không chỉ tự do hóa
trong thương mại mà còn bao gồm tất cả các hợp tác trong tất cả lĩnh vực ngoài
thương mại chẳng hạn như: nguồn nhân lực, công nghệ thông tin,….
 Sức mạnh kinh tế mới của Trung Quốc.
Sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa các nước trong ASEAN và Trung
Quốc ngày càng tăng. Với sức mạnh kinh tế mới của Trung Quốc, đặc biệt kể từ
khi Trung Quốc trở thành thành viên của WTO càng tạo động lực cho các nước
ASEAN và Trung Quốc mong muốn hợp tác chặt chẽ để đối phó với những
thách thức nảy sinh trong tình hình chính trị - kinh tế thế giới đang ngày càng
biến đổi khôn lường.
2. Sự hình thành ACFTA
 Ý tưởng về việc thành lập một khu vực mậu dịch tự do giữa Trung Quốc
và ASEAN xuất phát từ đề xuất của Cựu Thủ tướng Trung Quốc Chu Dung Cơ
tại Hội nghị thượng đỉnh không chính thức ASEAN lần thứ 4 tổ chức vào tháng


11/2000. Trong năm này, Trung Quốc còn thỏa thuận sẽ tăng cường hợp tác và
đưa ra những hạng mục hợp tác cụ thể như khai thác sông Mekong, xây dựng
tuyến đường sắt xuyên Á…

 Đến năm 2001, những thỏa thuận này giữa Trung Quốc và ASEAN đã có
những bước tiến mới. Trung Quốc ủng hộ nỗ lực của ASEAN thiết lập khu vực
không có vũ khí hạt nhân, xem xét ký kết Hiệp định hợp tác hữu nghị Đông
Nam Á, cam kết đầu tư 5 triệu USD để nạo vét sông Mekong và tài trợ 1/3 chi
phí xây dựng tuyến đường cao tốc Bankok – Côn Minh. Đặc biệt, tại Hội nghị
những nhà lãnh đạo ASEAN – Trung Quốc tổ chức vào ngày 6/11/2001 tại
Banda Seri Begawan (Brunei), các nhà lãnh đạo Trung Quốc và mười nước
ASEAN đã đi đến nhất trí về việc thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN –
Trung Quốc (ACFTA) trong vòng 10 năm, đồng thời chính thức ủy quyền cho
các bộ trưởng và quan chức của hai bên đàm phán về vấn đề này.
 Với những nỗ lực của hai bên, ngày 4/11/2002 tại Hội nghị thượng đỉnh
ASEAN lần thứ 8 diễn ra ở thủ đô Phnompenh (Campuchia), các nhà lãnh đạo
ASEAN - Trung Quốc đã chính thức ký bản hiệp định khung về hợp tác kinh tế
toàn diện ASEAN - Trung Quốc (Framework Agreement on Asea-China
Comprehensive Economic Cooperation – FAACCEC), mở đường cho việc thiết
lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) trong 10 năm tới.
Đây là một sự kiện quan trọng đánh dấu bước phát triển của quan hệ ASEAN Trung Quốc trong thế kỷ này. Hiệp định ký kết bắt đầu có hiệu lực vào 1 tháng 1
năm 2010. Đây là khu vực mậu dịch tự do lớn nhất thế giới xét về diện tích và
dân số (1,9 tỉ người trong đó Trung Quốc là hơn 1,3 tỉ người), nhưng đứng thứ 3
về tổng thu nhập quốc dân sau Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ và Khu vực
mậu dịch tự do của Châu Âu.
3. Mục tiêu của ACFTA
 Tăng cường trao đổi buôn bán trong nội bộ khối bằng việc loại bỏ các
hàng rào thuế quan và phi thuế quan giữa các nước ASEAN
Đây là mục tiêu quan trọng nhất của AFTA. Bởi lẽ các nước thành viên
ASEAN đều có nền kinh tế hướng ngoại dựa vào xuất khẩu với tỉ trọng mậu


dịch với các nước ngoài khối khoảng 77% trong đó Mỹ chiếm khoảng 20%,
Nhật 14% và EU 15% trong khi đó tỉ trọng mậu dịch nội bộ khối chỉ chiếm

khoảng 23% theo số liệu thống kê trung bình từ năm 1993 là năm bắt đầu thực
hiện Hiệp định CEPT đến năm 1998. Thêm vào đó cơ cấu hàng hoá xuất nhập
khẩu của các nước ASEAN tương đối giống nhau vì các nền kinh tế ASEAN
chủ yếu đều là các nền kinh tế đang phát triển có các điều kiện và nhu cầu xuất
nhập khẩu tương đối giống nhau. Vì vậy kim ngạch thương mại chịu ảnh hưởng
trực tiếp của AFTA sẽ không lớn. Về mặt này, AFTA sẽ không thể so được với
các thoả thuận thương mại khu vực khác như EU hay NAFTA trong đó có sự
liên kết giữa các nền kinh tế rất phát triển với những nền kinh tế kém phát triển
hơn như trường hợp của Mỹ và Mexico. Tuy nhiên mục tiêu này nhằm thúc đẩy
sự hợp tác kinh tế trong nội bộ ASEAN. Thông qua AFTA, tạo ra một thị trường
chung ASEAN mà trong đó các nước thành viên được hưởng ưu đãi hơn so với
các nước không thuộc Hiệp hội. Từng bước, tiến tới xoá bỏ về cơ bản thuế nhập
khẩu hàng hoá thuộc các nước thành viên ASEAN với nhau, nhưng vẫn giữ
nguyên thuế nhập khẩu đối với hàng hoá của các nước khác.
Như vậy, với mục tiêu thúc đẩy buôn bán giữa các nước trong khu vực
thông qua chế độ ưu đãi thuế quan, AFTA sẽ tăng sức cạnh tranh của hàng hoá
ASEAN trên thương trường thế giới.

 Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc đưa ra một
khối thị trường thống nhất – xây dựng khu vực đầu tư ASEAN (AIA):
Mục tiêu của AFTA là biến các nước ASEAN thành khu vực hợp tác
kinh tế thông qua việc thực hiện các chương trình kinh tế mà quan trọng nhất là
chương trình ưu đãi thuế quan (CEPT). Mục tiêu trung tâm này góp phần làm
tăng cường năng lực kinh tế của các nước thành viên ASEAN nhằm tạo ra sức
mạnh để tự bảo vệ mình và vươn lên trong sự cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn
của nền kinh tế Thế giới, tăng sức hấp dẫn của môi trường đầu tư nhằm thu hút
vốn đầu tư nước ngoài.


Vào đầu thập kỷ 90, từ địa vị là địa bàn đầu tư hấp dẫn các nước

ASEAN ở vào thế bị cạnh tranh gay gắt với các nước khác như Trung Quốc,
Nga, các nước Đông Âu, và cả Việt Nam. AFTA sẽ tạo ra một thị trường thống
nhất, cho phép việc khai thác lợi thế kinh tế về qui mô và tạo nhiều điều kiện
thuận lợi khác cho việc hấp dẫn đầu tư nước ngoài. Khi đầu tư nước ngoài vào
ASEAN tăng lên, do việc mở rộng khai thác các lợi thế của AFTA, chắc chắn sẽ
dẫn đến việc gia tăng trao đổi buôn bán giữa các nước ASEAN về các sản phẩm
đầu vào của quá trình sản xuất. Tuy vây, khối lượng buôn bán trao đổi về các
sản phẩm đầu vào như vậy chắc chắn sẽ tăng nhưng tỷ trọng so với tổng kim
ngạch thương mại của ASEAN sẽ không lớn vì những lý do mang tính cơ cấu
hàng hoá xuất nhập khẩu như đã nêu trên, đặc biệt trong giai đoạn đầu thực hiện
AFTA khi quá trình chuyển dịch cơ cấu đầu tư và sản xuất quốc tế và khu vực
xuất phát từ việc thành lập AFTA và sau này là việc hình thành khu vực đầu tư
ASEAN (AIA).
Mục tiêu của AIA là xây dựng một khu vực đầu tư ASEAN thông
thoáng, rõ ràng và hấp dẫn nhất nhằm đẩy mạnh đầu tư vào ASEAN từ cả các
nguồn trong và ngoài Hiệp hội. Tinh thần của AIA là muốn các nước thành viên
“mở cửa ngay lập tức” các ngành nghề và “dành ngay lập tức” chế độ đối xử
quốc gia.
Đầu tư trực tiếp vào các nước ASEAN sẽ tăng vì kết quả trao đổi mậu
dịch giữa các quốc gia này sẽ tăng theo AFTA và do đó, sẽ kích thích các công
ty Nhật, Mỹ, EU và NIEs đầu tư nhiều hơn để giữ thị trường này thay vì trước
đây họ thường cung ứng từ các cơ sở sản xuất ngoài ASEAN. Đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) vào ASEAN sẽ tăng nhờ sự lớn mạnh của chính thị trường
khu vực ASEAN và theo đó, sẽ ngày càng có nhiều dự án đầu tư trực tiếp nhằm
cung cấp sản phẩm cho các thị trường này. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu này,
các thành viên ASEAN còn phải nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư và thông
qua AFTA làm cho các môi trường đầu tư của ASEAN trở nên hấp dẫn hơn so


với các khu vực khác. Vấn đề đáng lưu ý là ASEAN cần phải đón bắt được các

dòng đầu tư quốc tế đang trong xu hướng chuyển mạnh từ các khu vực Âu, Mỹ
trở lại châu Á. Dĩ nhiên, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ASEAN không phải là
một hiện tượng mới, song những tác động của tiến trình AFTA sẽ nâng cao và
thúc đẩy chúng khởi sắc. Với định hướng phát triển ra ngoài khu vực trên cơ sở
liên kết thị trường bên trong AFTA, ASEAN hoàn toàn có thể hy vọng tới khả
năng đẩy mạnh thế thương lượng cạnh tranh về thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài.

 Hướng ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đặc biệt là
xu thế tự do hoá thương mại thế giới
Chương trình CEPT là sẽ đưa ASEAN AFTA trở thành một khu vực mở
và là sự phản ứng đáp lại với các mô hình bảo hộ mậu dịch ở cả trong và ngoài
khu vực. Hay nói cách khác mục tiêu này liên quan đến sự đáp ứng của ASEAN
đối với xu hướng đang gia tăng của chủ nghĩa khu vực trên thế giới. Trước
những biến động của bối cảnh quốc tế, AFTA buộc phải đẩy nhanh tiến độ thực
hiện và tương lai có thể không chỉ dừng lại ở một khu vực mậu dịch hay liên
minh quan thuế mà sẽ tiếp tục được phát triển thành một liên minh tiền tệ, một
liên minh kinh tế. Nhờ tăng buôn bán trong và ngoài khu vực, AFTA sẽ trợ giúp
cho các quốc gia thành viên ASEAN thích ứng được với chế độ thương mại đa
biên đang tăng lên ngày càng nhanh chóng, hoà nhập với xu thế thương mại
chung của thế giới.
4. Một số hiệp định
4.1. Hiệp định tự do hóa thương mại
 Tự do hóa thuế quan
Về tự do hóa thuế quan, Hiệp định TIG quy định việc cắt giảm thuế đối với
tất cả các sản phẩm không thuộc phạm vi Chương trình EHP theo mốc thời gian
như sau:


• 2010 cho ASEAN 6 + Trung Quốc và 2015 cho các nước CLMV đối với

các sản phẩm thuộc Danh mục cắt giảm thuế thông thường; và
• 2018 cho ASEAN 6 + Trung Quốc và 2020 cho các nước CLMV đối với
các sản phẩm thuộc Danh mục hàng nhạy cảm.

Danh
mục cắt
giảm
thông
thường
(I và II)

Nhóm

Sản phẩm

Thu hoạch sớm

Nông nghiệp (HS
01-08)

0% kể từ 01/01/2006

Tất cả
trong
“danh
mục
thường”

NT I


0% kể từ 01/01/2010
trừ NT II

NT II

150 dòng thuế (0% kể
từ 01/01/2012)

50% các dòng thuế

0-5% kể từ năm 2009
(Việt Nam), 2010
(Myanmar, Lào), 2012
(Campuchia)

40% các dòng thuế

0% kể từ 01/01/2013

Tất cả các sản phẩm
liệt kê

0% kể từ năm 2015 trừ
250 dòng thuế (0% kể
từ năm 2018)

ASEAN-6 + Trung Quốc
(0% kể từ 01/01/2012)

CMLV

(0% kể từ 01/01/2018)

Mức thuế và thời hạn

Danh
mục
hàng
nhạy
cảm

ASEAN-6 + Trung Quốc
(tối đa 400 dòng thuế và 10%
tổng nhập khẩu)

Các sản phẩm liệt
kê trong Danh mục
hàng nhạy cảm

20% không muộn hơn
01/01/2012
0-5% không muộn hơn
01/01/2018

CMLV (tối đa 500 dòng thuế)

Các sản phẩm liệt
kê trong nhóm nhạy
cảm

20% không muộn hơn

01/01/2015
0-5% không muộn hơn
01/01/2020

Danh
mục
hàng
nhạy
cảm cao

ASEAN-6 + Trung Quốc (tối
đa 40% dòng thuế thuộc Danh
mục hàng nhạy cảm hoặc 100
dòng thuế)

Các sản phẩm liệt
kê trong Danh mục
hàng nhạy cảm cao

50% không muộn hơn
01/01/2015

CMLV (tối đa 40% dòng thuế
thuộc Danh mục hàng nhạy
cảm hoặc 150 dòng thuế)

Các sản phẩm liệt
kê trong Danh mục
hàng nhạy cảm cao


50% không muộn hơn
01/01/2018

Bảng sau tóm lược lộ trình tự do hóa thương mại hàng hóa theo ACFTA.
 Quy tắc xuất xứ


Quy tắc xuất xứ áp dụng đối với hàng hóa trao đổi thuộc phạm vi điều
chỉnh của Hiệp định được quy định tại Phụ lục 3, thay thế cho quy tắc xuất xứ
tạm thời quy định tại EHP. Theo quy tắc xuất xứ của Hiệp định TIG, các sản
phẩm có xuất xứ ACFTA khi:
• Hoàn toàn được sản xuất hay khai thác trong lãnh thổ của một bên
• Không dưới 40% hàm lượng có xuất xứ từ một Bên;
• Tổng giá trị của nguyên vật liệu, bộ phận hay nông sản ngoài khu vực
ACFTA không vượt quá 60% giá FOB của sản phẩm, với điều kiện khâu sản
xuất cuối cùng nằm trong lãnh thổ của một Bên tham gia ACFTA. Quy tắc
này đặt ra yêu cầu hàm lượng thuộc khu vực ACFTA phải đạt 40%, như quy
định ở trên;

• Tổng hàm lượng ACFTA của sản phẩm cuối cùng không dưới 40% trong
trường hợp xuất xứ cộng gộp
• Phát sinh chuyển đổi cơ bản trong lãnh thổ của một Bên. Những hoạt
động hoặc giai
đoạn chế biến sau đây, dù riêng rẽ hay kết hợp cũng sẽ không được chấp
nhận xuất xứ:
(i) bảo quản hàng hóa cho mục đích vận tải hoặc lưu kho; (ii) tạo thuận lợi
cho việc vận chuyển hoặc vận tải; (iii) bao bì đóng gói
• Các sản phẩm đáp ứng Quy tắc sản phẩm cụ thể quy định tại Tài liệu đính
kèm B Phụ lục 3 Hiệp định TIG.
Như vậy, quy tắc xuất xứ của Hiệp định TIG đặt ra hàm lượng 40%

ACFTA để được cấp xuất xứ ACFTA cho các sản phẩm không được sản xuất
hoặc khai thác hoàn toàn trong lãnh thổ của một Bên. Từ góc độ ASEAN, điều


này có nghĩa là để được hưởng ưu đãi, hàm lượng ASEAN phải đạt ít nhất 40%,
bất kể là “trong một nước” hay cộng gộp xuất.
 Yêu cầu về đối xử quốc gia và minh bạch hóa
Quy định về đối xử quốc gia tại Điều 2 Hiệp định TIG lồng ghép quy định
của Điều III GATT (với điều chỉnh phù hợp - mutatis mutandis). Ngôn ngữ của
Điều 2 (và từ ‘incorporation’) ngụ ý rằng nghĩa vụ đối xử quốc gia cũng áp
dụng đối với Lào.
Tương tự, nghĩa vụ minh bạch hóa tại Điều X của GATT cũng được lồng
ghép (với điều chỉnh phù hợp) vào Hiệp định TIG. Cần lưu ý rằng Hiệp định về
Thương mại hàng hóa của ASEAN (sau đây gọi là “Hiệp định ATIGA”) cũng áp
dụng cách này. Hiệp định ATIGA khi có hiệu lực sẽ là cơ sở pháp lý cho khu
vực thương mại tự do giữa các Thành viên ASEAN.

II.

TÁC ĐỘNG CỦA ACFTA ĐẾN CÁC QUỐC GIA
THÀNH VIÊN.

1. Cơ hội
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc từ khi được hình thành đã
ảnh hưởng đến sự phát triển của ASEAN và Trung Quốc, thậm chí của toàn thế
giới. Về mặt kinh tế, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc sẽ đem lại
những cơ hội tốt đẹp cho sự hợp tác thương mại và đầu tư giữa hai bên, cụ thể
là:
 Tăng cường mở rộng tiềm năng thương mại
Theo những mô phỏng mà Tổ nghiên cứu hỗn hợp của Nhóm chuyên gia

về hợp tác kinh tế ASEAN-Trung Quốc đã tiến hành dựa trên Dự án nghiên cứu
thương mại toàn cầu (GTAP), việc thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEANTrung Quốc sẽ mang lại những cơ hội lớn cho các nước tham gia với việc tạo ra


một khu vực thị trường lớn nhất trên thế giới với hơn 1,7 tỷ người tiêu dung,
tổng thu nhập quốc nội vào khoảng 2 nghìn tỷ USD và tổng kim ngạch trao đổi
thương mại ước tính lên đến 1,23 nghìn tỷ USD.
Về mặt kinh tế, việc hình thành ACFTA sẽ mang lại cục diện cùng có lợi
cho Trung Quốc và ASEAN:
 Thứ nhất, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc sẽ góp phần
tăng trưởng GDP và xuất khẩu của cả ASEAN và Trung Quốc, nâng cao hiệu
quả của nền kinh tế nhờ tính cạnh tranh cao.
Bảng: Tác động của ACFTA đến GDP thực tế theo mô hình GTAP

Nước

GDP thực tế
(triệu USD)

Giá trị gia tăng thêm
Số tuyệt đối
Số tương đối

(triệu USD)
Indonesia
204031,4
2267,8
Malaysia
98032,3
1135,5

Philippines
71167,1
229,1
Singapore
72734,9
753,3
Thái Lan
165516
673,6
Việt Nam
16110,9
339,1
Trung Quốc
815163
2214,9
Mỹ
7120465,5
- 2594,5
Nhật
5078704,5
- 4452
Phần còn lại
14657026
- 6272
Tổng
28298952,1
- 5706,9
Nguồn: Báo cáo của Nhóm ASEAN – Trung Quốc về hợp tác

(%)

1,12
1,16
0,33
1,04
0,41
2,11
0,28
- 0,04
- 0,09
- 0,05
- 0,03
kinh tế, “Xây

dựng quan hệ kinh tế ASEAN – Trung Quốc chặt chẽ hơn trong thế kỷ XXI”
tháng 10/2001.
Sau khi ACFTA được thành lập, tổng thu nhập quốc nội của cả ASEAN và
Trung Quốc tăng thêm 7,6 tỷ USD. Cùng với sự tăng trưởng của GDP thực tế,
theo mô hình GTAP thì Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc sẽ làm
cho xuất khẩu của ASEAN sang Trung Quốc tăng 48% tương đương với 13 tỷ
USD, trong khi xuất khẩu của Trung Quốc sang ASEAN tăng 55,1% tương ứng
với 10,6 tỷ USD.


 Thứ hai, Khu vực mậu dịch tự do này sẽ mang lại những cơ hội rất lớn
cho các nước tham gia với việc tạo ra thị trường cung cấp nguyên liệu phong
phú hơn các nhà sản xuất trong khu vực. Và như vậy có thể nói rằng Trung
Quốc càng xuất khẩu nhiều thì nước này cũng sẽ nhập khẩu càng nhiều nguyên
liệu. Như vậy, điều này không những có lợi cho cả Trung Quốc mà còn đem lại
nhiều lợi ích cho các nước ASEAN, ví dụ: những nước giàu nguyên liệu như
Malaysia với diện tích trồng cao su và dầu cọ vô cùng lớn sẽ có cơ hội mở rộng

xuất khẩu các mặt hàng này sang Trung Quốc (giá trị xuất khẩu dầu cọ Malaysia
sang Trung Quốc tăng 59% lên tới 60 triệu tấn trong 7 tháng đầu năm 2002).
Nhu cầu lớn về năng lượng của Trung Quốc cũng khiến các nhà máy lọc dầu ở
Đông Nam Á luôn luôn bận rộn. Và sự bùng nổ trong ngành xây dựng Trung
Quốc đòi hỏi một lượng gỗ nhập khẩu khổng lồ, một lần nữa lại là món lợi cho
Malaysia.
 Thứ ba, sự hợp nhất về kinh tế giữa Trung Quốc và ASEAN sẽ mang lại
hiệu quả kinh tế to lớn cho các thương nhân thuộc mọi ngành nghề và tạo nên
sự liên kết mật thiết hơn về thông tin, giao thông và mậu dịch. Thật vậy, một số
thị trường lớn một mặt sẽ giúp cho nhà sản xuất mở rộng quy mô sản xuất, mặt
khác cũng có lợi cho việc hoàn thành hệ thống phân công công hợp tác sản xuất
đạt hiệu quả kinh tế cao, từ đó góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp. Hơn nữa, một thị trường rộng lớn hơn được tạo ra bởi ACFTA sẽ
cho phép các doanh nghiệp, đặc biệt là những ngành chỉ hoạt động trên thị
trường trong nước giảm giá sảnh phẩm nhờ việc sản xuất với số lượng lớn. Điều
quan trọng hơn là Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc sẽ tạo ra môi
trường cạnh tranh hơn cho các công ty hoạt động trong khu vực do họ đã sẵn
sang đón nhận thử thách. Với sức ép cạnh tranh lớn hơn, các công ty hoạt động
trong khu vực mậu dịch tự do sẽ có chính sách cởi mở hơn đối với những đổi
mới cũng như tăng cường đầu tư cải tiến công nghệ, dẫn tới hiệu quả sản xuất
cao hơn.


 Thứ tư, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc sẽ thúc đẩy sự
phân công chuyên môn hóa sản xuất giữa các nước trong khu vực tren lợi thế
tương đối của từng nước do nguồn lực được phân bổ hợp lý vào những nơi và
ngành được sử dụng có hiệu quả và năng suất hơn. Mặc dù ASEAN và Trung
Quốc đang cạnh tranh nhau để giành giật thị trường nước thứ ba và thu hút đầu
tự nước ngoài, nhưng xem xét cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của hai bên có thể
thấy ASEAN và Trung Quốc có sự bổ sung lẫn nhau về tài nguyên thiên nhiên

và ưu thế thành phẩm công nghiệp.
Nói tóm lại, nếu Trung Quốc có thể duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao thì
nó sẽ tạo cho các nước ASEAN một thị trường rộng lớn hơn, đồng thời cho
phép các nước có chỗ để phân bổ lại các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao
động không có sức cạnh tranh của mình. Đặc biệt với sự hình thành ACFTA,
việc dỡ bỏ các hàng rào cản trở thương mại giữa ASEAN và Trung Quốc sẽ làm
giảm chi phí kinh doanh trong sản xuất cũng như thương mại, tự đó tăng hiệu
quả kinh tế và khuyến khích gia tăng thương mại giữa các nước trong khu vực.
 Cải thiện môi trường đầu tư
Việc tăng cường hợp tac kinh tế ASEAN-Trung Quốc và việc thành lập
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc sẽ không chỉ đẩy mạnh hơn nữa
tiến hành hợp tác thương mại ASEAN-Trung Quốc hiện nay mà còn góp phần
tăng cường và mở rộng tiềm năng đầu tự của ASEAN và Trung Quốc, đồng thời
cải thiện môi trường đầu tư hấp dẫn hơn và nâng cao năng lực cạnh tranh
ASEAN và Trung Quốc với thế giới.
 Thứ nhất, ACFTA trước hết sẽ thu hút thêm đầu tư của Trung Quốc vào
khu vực này. Sau nhiều năm phát triển, các doanh nghiệp Trung Quốc đã trở nên
những doanh nghiêp hung mạnh và mang tính cạnh tranh với lượng vốn đầu tư
ra nước ngoài tăng khá nhanh. Hơn nữa, dự kiến tốc độ tăng trưởng kinh tế bình
quân của Trung Quốc trong thập kỷ tới đạt 7%/năm và việc Trung Quốc trở


thành thành viên của WTO sẽ mang lại nhiều cơ hội quan trọng hơn để tăng
cường thương mại và đầu tư giữa ASEAN và Trung Quốc.
 Thứ hai, không chỉ các doanh nghiệp của ASEAN và Trung Quốc sẵn
sàng đầu tư hơn vào thị trường chung này mà cả các doanh nghiệp Mỹ, EU và
Nhật Bản quan tâm tới việc thâm nhập vào thị trường châu Á cũng sẽ mong
muốn đầu tư vào thị trường chung này do các rủi ro và bất trắc về thị trường
giảm đi.
 Thứ ba, một thị trường rộng lớn hơn và một cuộc cạnh tranh mạnh mẽ

hơn có thể sẽ là chất xúc tác đầu tư đối với ACFTA. Do giữa các thành viên
ASEAN cũng phải cạnh tranh về đầu tư, nên các quốc gia này phải tự phát triển
tới tiêu chuẩn cao hơn về mở cửa, trình độ lao động, sản xuất, kỹ năng quản lý,
tổ chức, pháp luật, công lý, chất lượng cơ sở hạ tầng. Trong môi trường kinh tế
tự do, những quốc gia nào không đáp ứng được các điều kiện trên sẽ tụt hậu.
Nói tóm lại, các tiềm năng và cơ hội cho sự tăng trưởng kinh tế dài hạn,
thay đổi cơ cấu và phát triển thông qua Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung
Quốc là vô cùng quan trọng. Nhưng chúng ta cung nhận thức rõ rang cả 2 phía
sẽ phải quản lý một cách hiệu quả mà tự do hóa thương mại và đầu tư, cũng như
sự cạnh tranh tren thị trường cả nước thứ ba gây ra. Đây sẽ là một trong những
thách thức lớn đối với cam kết kinh tế và ý chí chính trị về hợp tác bễn vững và
hội nhập vì sự tăng trưởng và phát triển chung, đồng đều trong khu vực.
2. Thách thức
 Cạnh tranh gay gắt hơn
FTA bên cạnh việc thúc đẩy giao thương giữa các nước thì đồng thời cũng
làm gia tăng tính cạnh tranh giữa những nhà sản xuất cả trong và ngoài lãnh thổ
mỗi quốc gia. Đặc biệt khi kí hiệp định thương mại tự do với một đất nước có
nền kinh tế lớn và phát triển như Trung Quốc các quốc gia Đông Nam Á càng
phải chịu những thách thức lớn.
Các chuyên gia cho rằng, FTA giữa ASEAN và Trung Quốc sẽ khiến một số
ngành công nghiệp của Đông Nam Á chịu sự cạnh tranh lớn từ Trung Quốc. Các


nhà sản xuất lo ngại hàng hóa giá rẻ từ Trung Quốc sẽ tràn ngập thị trường nước
mình khi thuế nhập khẩu được dỡ bỏ. Điều này gây khó khăn cho chính phủ các
nước trong việc duy trì hoặc tăng cường thị phần của mình.
Trên thực tế những năm gần đây tình trạng hàng hóa nhập khẩu từ Trung
Quốc tràn ngập thị trường nước ta cũng như các nước Đông Nam Á khác rõ
ràng đã chỉ ra những lo ngại trên đã thực sự trở thành sự thật. Điều này gây khó
khăn lớn cho các nước có nền kinh tế kém phát triển hơn so với các nước thành

viên khác, đặc biệt trong trường hợp có sự phát triển không đồng đều giữa các
nước như hiện nay.

 Nông nghiệp
Việc cắt giảm thuế ở các mặt hàng nông sản cũng đã gây ra không ít biến
động lớn đối với các nước trong thời gian này.
Ví dụ như ở Thái Lan, nơi mà tác động của chương trình “Thu hoạch sớm”
Thái Lan- Trung Quốc một phần trong CAFTA, đã quá rõ ràng trong giai đoạn
đầu khi hiệp định bắt đầu được áp dụng. Theo thỏa thuận ACFTA, Thái Lan và
Trung Quốc nhất trí lập tức xóa bỏ hàng rào thuế quan đối với trên 200 nhóm
hàng rau quả. Thái Lan sẽ xuất khẩu hoa quả nhiệt đới sang Trung Quốc, trong
khi hoa quả ôn đới của Trung Quốc sẽ vào Thái Lan với thuế suất bằng 0. Tuy
nhiên, chương trình này đã không đem lại kết quả như mong đợi. Toàn bộ các
nhà sản xuất tỏi và hành ở khu vực miền Bắc Thái Lan bị xóa sổ, các dự án bán
hoa quả của nước này trong thời gian đó cũng bị tê liệt do ảnh hưởng của
chương trình “thu hoạch sớm”.
Ở nước ta trong những năm gần đây, tình trạng nông sản dồn ứ tại biên giới
Việt – Trung cũng là một ví dụ điển hình cho sức ảnh hưởng của một thị trường


lớn như Trung Quốc đối với các nước đối tác khi hàng rào thuế quan dần được
dỡ bỏ. Đây là một trong những thách thức lớn cho công tác quản lý và việc sản
xuất nông sản ở mỗi nước.

 Sự ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế gia tăng
Lịch sử cho thấy năm 1994, sau khi Trung Quốc phá giá đồng nhân dân tệ,
đầu tư nước ngoài (FDI) đã chuyển từ Đông Nam Á sang Trung Quốc. ASEAN
tiếp tục thua kém Trung Quốc về thu hut FDI sau khủng hoảng tài chính năm
1997. Hậu quả là năm 2000, FDI vào ASEAN giảm 10% trong tổng FDI châu
Á.

Trong những năm gần đây với sự phát triển kinh tế vượt bậc của Trung
Quốc, có nhiều chuyên gia lo ngại nền kinh tế ASEAN có xu hướng lệ thuộc
quá nhiều vào nước này, khi FDI từ Trung Quốc tăng mạnh. Đến năm 2014,
Trung Quốc là nguồn vốn FDI lớn thứ sáu tại Đông Nam Á, chiếm 6,1% tổng số
vốn được phê duyệt.
Một ví dụ điển hình nữa có thể kể đến là lần phá giá đồng nhân dân tệ (NDT)
vào tháng 8/2015 của Trung Quốc đã gây ra sức ảnh hưởng cực lớn đối với nền
kinh tế khu vực, buộc các nước khác tại châu Á cũng phải phá giá đồng tiền, do
ảnh hưởng của xuất nhập khẩu.
Việc gia tăng sự ràng buộc giữa các nền kinh tế đòi hỏi các cơ quan quản lý
càng phải suy xét kĩ càng hơn trong mỗi quyết định điều chỉnh của mình.

III. VIỆT NAM VÀ ACFTA
1. Quan hệ hợp tác song phương Việt Nam – Trung Quốc
1.1.

Quan hệ chính trị

Từ khi bình thường hóa quan hệ năm 1991 đến nay, về tổng thể, quan hệ
Việt Nam - Trung Quốc khôi phục nhanh, phát triển mạnh. Năm 2008, hai nước
thiết lập quan hệ “đối tác hợp tác chiến lược toàn diện”. Tiếp xúc cấp cao được
duy trì với nhiều hình thức, góp phần tăng cường tin cậy chính trị, thúc đẩy hợp


tác, tạo điều kiện để hai bên từng bước giải quyết tranh chấp, bất đồng. Hai
nước đã ký nhiều hiệp định và văn kiện hợp tác, đặt cơ sở pháp lý cho quan hệ
hợp tác lâu dài.
Hợp tác giữa hai Đảng được đẩy mạnh. Hai bên duy trì trao đổi đoàn và
thiết lập cơ chế hợp tác, giao lưu giữa các Ban Đảng; tổ chức 10 cuộc hội thảo
về lý luận giữa hai Đảng.

Hai bên thành lập cơ chế Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương (2006) để
điều phối tổng thể các mặt hợp tác trong quan hệ hai nước. Quan hệ giữa các
ngành quan trọng như ngoại giao, an ninh, quốc phòng được đẩy mạnh, hai bên
tiếp tục triển khai hiệu quả các thỏa thuận văn bản hợp tác giữa hai Bộ Ngoại
giao (2002), hai Bộ Công an (2003), hai Bộ Quốc phòng (2003)...
Quan hệ giữa các địa phương được tăng cường với nhiều hình thức với
các cơ chế như: Ủy ban công tác liên hợp giữa 04 tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn,
Quảng Ninh, Hà Giang (Việt Nam) và Quảng Tây (Trung Quốc); Nhóm công
tác liên hợp giữa 04 tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang (Việt Nam)
và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc); Hội nghị kiểm điểm tình hình hợp tác giữa các
Bộ/ngành, địa phương Việt Nam với tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc); Hội nghị
hợp tác hành lang kinh tế 5 tỉnh, thành phố Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng Quảng Ninh (Việt Nam) và Côn Minh (Trung Quốc).
Giao lưu nhân dân và thế hệ trẻ hai nước được triển khai thường xuyên.
Hai bên đã tổ chức 02 lần Liên hoan thanh niên Việt Nam - Trung Quốc với quy
mô 10 nghìn người tại Quảng Tây (2010, 2013); 02 lần Liên hoan hữu nghị
nhân dân Việt Nam - Trung Quốc (2010, 2013), 06 lần Diễn đàn nhân dân Việt Trung, 14 lần Gặp gỡ hữu nghị thanh niên Việt - Trung.
1.2.

Quan hệ kinh tế - thương mại và đầu tư

Kể từ khi bình thường hóa quan hệ, kim ngạch thương mại Việt - Trung
tăng hơn 1.800 lần, từ 32 triệu USD (1991) lên gần 60 tỷ USD (2014), từ năm


2004, Trung Quốc là bạn hàng thương mại lớn nhất của Việt Nam. Kim ngạch
thương mại song phương năm 2014 đạt 58,78 tỷ USD, trong đó Việt Nam xuất
14,91 tỷ USD, nhập 43,87 tỷ USD (lần lượt tăng 17,16%, 12,70% và 18,76% so
với cùng kỳ 2013).
Về đầu tư, tính lũy kế đến hết tháng 02/2015, Trung Quốc có 1109 dự án tại
Việt Nam, tổng vốn đăng ký 7,99 tỷ USD, đứng thứ 9/101 quốc gia và vùng

lãnh thổ.
Nhằm tăng cường các dự án đầu tư lớn về cơ sở hạ tầng và hợp tác trong
lĩnh vực tài chính ngân hàng, nhất là hợp tác trong việc phòng ngừa tác động
của khủng hoảng tài chính tiền tệ quốc tế, giữ vững an ninh tiền tệ ở mỗi nước,
hai bên đang thúc đẩy thành lập Nhóm công tác hợp tác về cơ sở hạ tầng và
Nhóm công tác về hợp tác tiền tệ.
1.3.

Quan hệ hợp tác giáo dục, văn hoá, thể thao và du lịch

Về giáo dục: Hiện có hơn 13.500 lưu học sinh Việt Nam đang học tại các
trường đại học của Trung Quốc và khoảng trên 4.000 học sinh Trung Quốc đang
du học tại Việt Nam.
Về văn hóa, thể thao: hai bên đang tích cực triển khai “Kế hoạch thực hiện
Hiệp định văn hóa Việt - Trung giai đoạn 2013 - 2015”; thúc đẩy việc thành lập
Trung tâm văn hóa của nước này tại nước kia; tăng cường hợp tác trong các lĩnh
vực sản nghiệp văn hóa, nguồn nhân lực. Hàng năm, hai bên trao đổi nhiều đoàn
biểu diễn nghệ thuật, giao lưu văn hoá - thể thao, góp phần tăng cường tình hữu
nghị giữa nhân dân hai nước. Hai bên cũng đã triển khai thực hiện hiệu quả
“Thoả thuận về hợp tác Thể dục thể thao”; Trung Quốc giúp Việt Nam trong
việc huấn luyện và đào tạo vận động viên tài năng.
Về du lịch: nhiều năm qua, du khách Trung Quốc luôn đứng đầu trong thị
trường khách du lịch quốc tế đến Việt Nam (năm 2014 là 1,95 triệu lượt người)
trong khi có khoảng một triệu lượt người Việt Nam đi Trung Quốc du lịch.


1.4.

Về biên giới lãnh thổ:


Sau khi bình thường hoá quan hệ, hai bên đã ký Thoả thuận về các nguyên
tắc cơ bản giải quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ (1993) và tiến hành đàm
phán về 3 vấn đề: biên giới trên đất liền, phân định Vịnh Bắc Bộ và vấn đề Biển
Đông. Đến nay, hai trong ba vấn đề do lịch sử để lại này đã được giải
- Về biên giới trên đất liền: sau khi ký Hiệp định về biên giới trên đất liền
(1999), ngày 31/12/2008, hai bên hoàn thành công tác phân giới cắm mốc trên
toàn tuyến biên giới trên bộ. Đây là sự kiện có ý nghĩa lịch sử trong quan hệ
Việt - Trung khi lần đầu tiên giữa hai nước có một đường biên giới trên đất liền
hoàn chỉnh, được thể hiện rõ ràng trong các văn bản pháp lý, có giá trị trường
tồn với hai quốc gia, tạo điều kiện để tăng cường giao lưu hữu nghị và phát triển
hợp tác kinh tế - thương mại. Tháng 7/2010, các văn kiện quản lý biên giới trên
đất liền Việt - Trung là Nghị định thư phân giới cắm mốc, Hiệp định về quy chế
quản lý biên giới và Hiệp định về cửa khẩu và Quy chế quản lý cửa khẩu chính
thức có hiệu lực. Đến nay, hai bên đang đàm phán để ký kết Hiệp định tàu
thuyền tự do đi lại tại khu vực cửa sông Bắc Luân và Hiệp định hợp tác bảo vệ
và khai thác nguồn tài nguyên du lịch khu vực thác Bản Giốc.
- Về Vịnh Bắc Bộ: Hai bên đã ký Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ (2000),
Hiệp định hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ (2000) và Nghị định thư hợp tác nghề
cá Vịnh Bắc Bộ (2004). Đến nay, các văn kiện này đều được triển khai tương
đối thuận lợi, công tác quản lý đánh bắt và bảo vệ nguồn lợi dần đi vào nề nếp,
hạn chế tối đa các xung đột có thể nảy sinh. Hai bên cũng thực hiện tốt công tác
kiểm tra liên hợp, điều tra liên hợp nguồn thủy sản trong Vùng đánh cá chung
và tuần tra chung giữa hải quân hai nước ở Vịnh Bắc Bộ.
- Về vấn đề biển Đông: hai bên đã ký kết “Thỏa thuận về những nguyên tắc
cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc” (2011), làm
cơ sở cho việc giải quyết vấn đề Biển Đông. Theo đó, hai bên nhất trí kiên trì


giải quyết hòa bình vấn đề Biển Đông trên cơ sở luật pháp quốc tế, Công ước
Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 và tinh thần DOC. Trên cơ sở Thỏa thuận này,

hai bên đã thành lập cơ chế đàm phán cấp chuyên viên về khu vực ngoài cửa
Vịnh Bắc Bộ và cơ chế đàm phán cấp chuyên viên về hợp tác trong các lĩnh vực
ít nhạy cảm trên biển. Đến nay, sau các vòng đàm phán, hai bên đã đạt một số
kết quả gồm nhất trí thành lập Tổ chuyên gia kỹ thuật khảo sát chung phục vụ
công tác phân định và hợp tác cùng phát triển tại khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc
Bộ; nhất trí chọn ra 03 dự án trong lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển để nghiên cứu
và triển khai thí điểm, gồm: Dự án về hợp tác trao đổi, nghiên cứu về quản lý
môi trường biển và hải đảo vùng Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc,
và Dự án về nghiên cứu so sánh trầm tích thời kỳ Holocenne khu vực châu thổ
sông Hồng và châu thổ sông Trường Giang và Dự án về phối hợp tìm kiếm cứu
nạn trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trong quá trình tìm kiếm giải pháp
cơ bản, lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được, hai bên đã thành lập và
đưa vào hoạt động Nhóm công tác bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển
trong khuôn khổ Đoàn đàm phán cấp Chính phủ về Biên giới lãnh thổ Việt Nam
- Trung Quốc (2013) nhằm nghiên cứu và bàn bạc về các giải pháp mang tính
quá độ, không ảnh hưởng lập trường và chủ trương của mỗi bên, bao gồm vấn
đề hợp tác cùng phát triển”.
Trong khuôn khổ đa phương, ASEAN (trong đó có Việt Nam) và Trung Quốc
đã ký Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC), Quy tắc hướng
dẫn thực hiện DOC và Tuyên bố chung ASEAN - Trung Quốc nhân dịp kỷ niệm
10 năm ký kết DOC. ASEAN hiện đã sẵn sàng và đang tích cực thúc đẩy đàm
phán với phía Trung Quốc về việc xây dựng Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông
(COC).
2. Tác động của ACFTA đối với Việt Nam
2.1. Cơ hội


Những năm gần đây đầu tư của các nước ASEAN đang có xu hướng tăng
nhanh. Sự tham gia của Việt Nam vào ACFTA sẽ tạo ra thuận lợi cho sự phát
triển kinh tế phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước

Cụ thể :
Tăng cường quan hệ thương mại với các nước;
- Việc tham gia vào chương trình này là điều kiên thuận lợi để Việt Nam tăng
nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và thương mại, thúc đẩy nhanh chóng quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Tham gia ACFTA cũng là bước đi cơ bản để Việt Nam tham gia vào các tổ
chức kinh tế có quy mô rộng lớn hơn như diễn đàn hợp tác kinh tế Thái Bình
Dương APEC, tổ chức thương mại thế giới WTO. ACFTA, APEC, WTO . Nâng
cao vị thế của Việt Nam trong quan hệ quốc tế nhất là trong đàm phán đa phương.
Mở rộng thị trường ưu đãi
ASEAN là thị trường rộng lớn với khoảng trên 530 triệu dân sẽ là thị trường
tiềm năng cho việc tiêu thụ hàng hoá tại Việt Nam. Hiện nay, khoảng 30% kim
ngạch nhập khẩu là từ các nước thành viên ASEAN. Các mặt hàng được nhà nước
ưu tiên nhập khẩu là máy móc thiết bị và nguyên vật liệu phục vụ cho nhu cầu xã
hội. Khi tham gia ACFTA và thực hiện chương trình CEPT thì các mặt hàng này
sẽ được giảm thuế nhập khẩu xuống 0-5%. Như vậy, luồng hàng nhập khẩu được
mở rộng nhanh chóng, ASEAN ảnh hưởng rất lớn thành phẩm của các cơ sở sản
xuất sử dụng nguyên liệu nhập khẩu từ các nước ASEAN .
- Do cơ cấu danh mục hàng hoá tham gia CEPT bao gồm cả nông sản thô và
nông sản chế biến, nếu Việt Nam tăng cường sản xuất hàng nông sản thì sự
cắt giảm thuế sẽ trở thành yếu tố kích thích cho các doanh nghiệp sản xuất
mặt hàng này để xuất khẩu sang các nước trong khu vực và ngoài khu vực.


- Một trong những quy định về sản phẩm được hưởng quy chế hệ thống ưu đãi
thuế quan phổ cập (GSP) của Mỹ là “ trị giá nguyên vật liệu cho phép nhập
để hoá đó phải dưới 65% toàn bộ giá trị của sản phẩm đó khi vào lãnh thổ
hải quan của Mỹ” và “trị giá một sản phẩm được chế tạo ở hai hoặc trên hai
nước là hội viên của một Hiệp hội kinh tế, Liên minh thuế quan khu sản xuất
hàng vưc mậu dịch tự do thì được coi sản phẩm của một nước”. Vì vậy, việc

Việt Nam gia nhập ACFTA tạo điều kiện cho Việt Nam có thể nhập nguyên
liệu của các nước ASEAN khác để sản xuất mà sản phẩm đó vẫn được hưởng
GSP.

Thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Tham gia vào ACFTA, Việt Nam có điều kiện thu hút được nhiều vốn đầu tư
từ những

nước thừa vốn và đa dạng có sự dịch chuyển mạnh sang các ngành

có hàm lượng kỹ thuật cao, sử dụng ít nhân công như: Singapo, Malaysia, Thái
Lan. Việt Nam cũng có điều kiện để tiếp thu công nghệ và đào tạo kỹ thuật cao
ở các ngành cần nhiều lao động mà các nước đó đang cần chuyển giao, tranh thủ
nguồn vốn và những tiến bộ khoa học kỹ thuật của các nước trong khu vực để
khai thác và sử dụng có hiệu quả tài nguyên đất nước, xây dựng cơ sở hạ tầng,
phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đó cũng là cách “đi
tắt, đón đầu” phù hợp của chúng ta.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Tham gia ACFTA sẽ tạo sức ép và động lực để các doanh nghiệp Việt Nam
đổi mới cơ cấu tổ chức, cách thức sản xuất, phương pháp quản lý để nâng cao
chất lượng, hạ giá thành sản phẩm tăng sức cạch tranh nền kinh tế từ đó có cơ
hội để phát triển công nghiệp, nông nghiệp, thương mại và dịch vụ tạo nên cơ
cấu kinh tế thích hợp. Trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang


ASEAN hiện nay, tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến mới chỉ đạt 18%, nông
sản thực phẩm 48%, nhiên liệu 34%. Trong đó trọng tâm ưu đãi của chương
trình CEPT lại là các mặt hàng công nghiệp chế biến. Việc thực hiện chương
trình CEPT sẽ là cơ hội để Việt Nam chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng
nâng cao tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến, giảm dần tỷ trọng các mặt hàng

thô, sơ chế. Đây cũng là cơ hội để Việt Nam tổ chức lại sản xuất theo mô hình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng tới xuất khẩu.
Kết luận
Những thuận lợi và lợi thế so sánh của Việt Nam chủ yếu là những nhân tố
khách quan nhưng những khó khăn chủ yếu là những yếu tố bắt nguồn từ chính
nội lực nền kinh tế. Điều này chứng tỏ rằng, trong quá trình hội nhập khu vực,
nền kinh tế Việt Nam rất dễ bị tổn thương, trở thành thách thức to lớn đòi hỏi
chúng ta phải vượt lên những trì trệ, ách tách của chính mình để tìm ra cách đi
hợp lý để chiến thắng trong cuộc chạy đua và cạnh tranh kinh tế về lâu dài để
các liên kết giữa Việt Nam với các nước thành viên ASEAN được bền chặt hơn
trên cơ sở bình đẳng hai bên cùng có lợi .
2.2.

Thách thức

Không nghi ngờ gì về lợi ích khi Việt Nam tham gia ACFTA, tuy nhiên,
thách thức trước mắt cho Việt Nam là khá lớn. Trung Quốc đã có những thay
đổi rất lớn về cơ cấu kinh tế, luật lệ, nhân lực trước khi gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO), nghĩa là đã có sự chuẩn bị khá kỹ lưỡng nên họ
muốn đẩy nhanh việc thực hiện ACFTA. Còn Việt Nam đang ở trong thế buộc
phải hội nhập, trong khi các thay đổi về cơ cấu kinh tế, luật lệ và cả về nhân lực
vẫn rất chậm.
So sánh với các nước ASEAN, cơ cấu xuất khẩu, thương mại của Việt Nam
còn rất lạc hậu và GDP cũng chưa đạt tới mức độ trung bình. Hàng hóa Việt
Nam xuất sang Trung Quốc cũng mới chỉ ở dạng thô nhưng lại nhập về chủ yếu


các mặt hàng chế biến. Vì vậy, trong mối quan hệ thương mại với nước bạn,
Việt Nam vẫn còn ở thế thụ động. Khi tham gia ACFTA, Việt Nam sẽ nhận
được sự thâm nhập và sức ép chiếm lĩnh thị trường từ Trung Quốc trong những

năm tới. Khoảng 70-80% cửa hàng dày giép ở đây bán hàng lậu từ Trung Quốc,
gây thiệt hại nặng nề cho việc sản xuất dày giép trong nước.
Tuy nhiên, hầu hết các diễn giả tại hội thảo đều cho biết, khi tham gia
ACFTA, cơ hội dành cho Việt Nam vẫn nhiều hơn là rủi ro. Ông Mun-Heng Toh
(Đại học Quốc gia Singapore) nói: ''Việt Nam sẽ đẩy nhanh tốc độ cơ cấu lại
nền kinh tế, cải cách các hệ thống thương mại và pháp lý cho phù hợp với nền
kinh tế thị trường. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam sớm gia
nhập WTO và các thể chế quốc tế khác''.
Ông Trần Đức Minh, Phó Tổng thư ký ASEAN cho rằng, việc hội nhập quốc
tế của Việt Nam là không thể cưỡng lại. Còn Đại sứ Ngô Quang Xuân cảnh báo:
''Phải nhìn nhận AFTA hay ACFTA hoặc WTO như là một vấn đề sát sườn, chứ
đừng nghĩ 2 hay 3 năm là còn xa mà đủng đỉnh''.
Ngoài những lợi ích về đầu tư mà Trung Quốc mang lại thì Việt Nam cũng sẽ
phải đối mặt với những thách thức như mất việc làm vì không thể nào cạnh
tranh nổi với chi phí nhân công của Trung Quốc. Do đó, các công ty phải tăng
năng lực sản xuất và phải chọn lựa đất nước nào phù hợp để đặt nhà máy sản
xuất nhằm giảm chi phí sản xuất tới mức thấp nhất. Từ đó lại phát sinh một vấn
đề khác đó là các công ty đầu tư từ những khu vực khác có thể sẽ chuyển nhà
máy từ Đông Nam Á sang Trung Quốc để giảm chi phí sản xuất
3. Các giải pháp thúc đẩy
• Chuyên môn hóa sản xuất và chế biến các mặt hàng xuất khẩu mà Việt
Nam có năng lực cạnh tranh hơn so với Trung Quốc


Tập trung phát triển lĩnh vực sản xuất chế biến hàng nông lâm hải sản để
tăng dần tỷ trọng hàng chế biến trong cơ cấu hàng xuất khẩu và mở rộng xuất
khẩu.
Về nông sản, các nước ASEAN có như cầu về sản phẩm nhiệt đới còn Trung
Quốc lại có ưu thế vể sản phẩm ơn đới và hàn đới. Do vậy, Trung Quốc có nhu
cầu nhập sản phẩm nhiệt đới và tài nguyên của ASEAN và như cầu đó chắc

chắn sẽ còn tăng mạnh khi Trung Quốc gia nhập WTO. Việt Nam nên tận dụng
lợi thế này bởi một con đường khôn ngoan là phải biết tận dụng thế mạnh của
mình để vươn lên chứ không chỉ tìm cách nâng cao sức mạnh thuộc nhiều lĩnh
vực khác phải cạnh tranh gay gắt.
Để phát huy thế mạnh trong xuất khẩu các mặt hàng này, Việt Nam có thể
tiến hành một số biện pháp như:
- Đầu tư đầu đủ vào việc sản xuất, nuôi trồng những mặt hàng nông sản
nhiệt đới nhằm nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm cũng như tăng
số lượng sản phẩm xuất khẩu.
- Tăng cường đầu tư vào khâu chế biến các loại sản phẩm này nhằm giảm
tỷ lệ hàng hóa sơ chế trong tổng lượng hàng nông sản xuất khẩu. Đây cũng
là những biện pháp đảm bảo các mặt hàng nông sản xuất khẩu trở nên đa
dạng và phong phú hơn.
- Nghiên cứu thay đổi bao bì sản xuất xuất khẩu theo hướng đa dạng, hấp
dẫn hơn những vẫn phải đảm bảo chất lượng hàng hóa đóng gói bên trong và
tiết kiệm chi phí bao bì.
- Thống nhất cao tiêu chuẩn vệ sinh, tiêu chuẩn kĩ thuật đối với các sản
phẩm xuất khẩu song song với nới lỏng các hàng rào thuế quan.
- Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng nông sản tích cực và
chủ động thâm nhập thị trường thế giới, đẩy mạnh công tác đàm phán song


×