Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tiểu luận cao học, môn chính sách công, phân tích các tiêu chí đánh giá chính sách công lựa chọn một chính sách công mà anh (chị) quan tâm và đánh giá chính sách đó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.94 KB, 18 trang )

Câu 11. Phân tích các tiêu chí đánh giá chính sách công? Lựa chọn một
chính sách công mà anh (chị) quan tâm và đánh giá chính sách đó thông qua
các tiêu chí đã phân tích?
Bài làm
1.

Phân tích các tiêu chí đánh giá chính sách công

Tiêu chí là thước đo, chuẩn mực đặt ra trong từng điều kiện và hoàn cảnh cụ
thể, làm công cụ phân tích, đánh giá lựa chọn các phương án và giải pháp chính
sách. Đánh giá chính sách là việc xem xét, nhận định về các giá trị các kết quả
thực hiện chính sách.
Tiêu chí đánh giá chính sách gồm:
Tính khoa học: Phản ánh chân thực và khoa học quy luật khách quan của sự
vật, vừa phải phù hợp với tổng thể, vừa phải đáp ứng được tính đặc thù của hệ
thống.
Tính khách quan: một số tiêu chuẩn có thể định lượng và một số tiểu chuẩn
không thể định lượng được thì cần công khai chúng khi đánh giá
Tính so sánh: Để so sánh, đánh giá các kết quả của một chính sách hoặc giữa
các chính sách với nhau, cần phải có thước đo chung
Tính phương hướng: Tiêu chuẩn đánh giá phải thể hiện phương hướng cải
cách và phát triển của xã hội. Vì vậy, những tiêu chí và chỉ tiêu cụ thể phải được
đặt trong sự so sánh với các tiêu chí, chỉ tiêu quốc tế
Tính chuẩn xác: Tiêu chuẩn đánh giá phải phù hợp với thực tế, không được
quá cao, cũng không quá thấp. Phải kết hợp chặt chẽ giữa tính nguyên tắc và tính
linh hoạt, giữa chỉ tiêu định lượng và chỉ tiêu định tính
2. Đánh giá chính sách công ở Việt Nam: vấn đề và giải pháp?

Chính sách công là một công cụ quan trọng của quản lý nhà nước. Thông qua
việc ban hành và thực thi các chính sách, những mục tiêu của Nhà nước được
hiện thực hóa.




Mỗi chính sách vận động theo một quy trình, bao gồm 3 giai đoạn cơ bản:
hoạch định chính sách, thực thi chính sách và đánh giá chính sách. Ở Việt Nam,
lâu nay Nhà nước đã chú trọng nhiều đến khâu hoạch định và thực thi chính sách,
song việc đánh giá chính sách thì dường như bị bỏ qua hoặc rất ít được quan tâm.
Đánh giá chính sách là xem xét, nhận định về giá trị các kết quả đạt được khi
ban hành và thực thi một chính sách công. Để có thể đi vào cuộc sống, chính sách
công được thể chế hóa thành các quy định pháp luật. Việc nhìn nhận và đánh giá
chính sách do đó thường gắn với sự đánh giá những quy định pháp luật này có
phù hợp với những yêu cầu của cuộc sống hay không và chúng được vận hành
như thế nào trên thực tế. Tuy nhiên, chính sách công không chỉ thể hiện trong các
quy định pháp luật, chúng còn nằm trong các chương trình, kế hoạch, chủ trương
hoạt động của nhà nước. Do đó, đánh giá chính sách công sẽ bao quát việc xem
xét về tổng thể các quyết định của nhà nước (chính phủ trung ương và chính
quyền địa phương) trong việc giải quyết một vấn đề cấp thiết đặt ra trong thực
tiễn quản lý nhà nước. Đánh giá chính sách cho phép xem xét, nhận định không
chỉ về nội dung chính sách, mà còn về quá trình thực thi chính sách, từ đó có biện
pháp điều chỉnh phù hợp với đòi hỏi thực tế để đạt các mục tiêu mong đợi.
Khi Việt Nam chuyển sang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế, đòi hỏi ban hành các chính sách để tạo ra những nhân
tố, môi trường cho sự chuyển đổi trở thành cấp bách. Vì vậy, trong một thời gian
khá dài, Nhà nước tập trung cao vào việc xây dựng và ban hành các thể chế, nhằm
tạo các hành lang pháp lý cho mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội. Việc ban hành hàng
loạt văn bản pháp luật trong không ít trường hợp dẫn đến tình trạng chồng chéo,
trùng lắp, thậm chí mâu thuẫn nhau giữa các quy định pháp lý, mà cuối cùng là sự
chi phối của chúng đối với các hoạt động kinh tế - xã hội theo các chiều khác
nhau, khiến cho những hoạt động này không đạt được mục tiêu mong muốn. Nói
cách khác, hàng loạt chính sách được ban hành, có hiệu lực thi hành, song việc
chính sách đó có hiệu lực thực tế như thế nào và đáp ứng mục tiêu đặt ra đến đâu

thì dường như không được quan tâm. Đôi khi chính sách được ban hành chẳng


những không giải quyết được vấn đề đặt ra, mà còn gây ra những hiệu ứng phụ
làm phức tạp thêm vấn đề. Chẳng hạn, chính sách hạn chế ùn tắc giao thông trong
các thành phố lớn đã được triển khai với nhiều giải pháp khác nhau, song thực tế
vẫn chưa giải quyết được vấn đề ùn tắc, trong khi đó một số giải pháp đưa ra, như
chặn các ngã tư, thu phí chống ùn tắc lại gây ra các hiệu ứng phụ làm rắc rối thêm
hiện trạng. Hơn thế, việc hoạch định chính sách (thông qua việc soạn thảo và ban
hành hàng loạt văn bản pháp luật) và việc tổ chức triển khai các chính sách đó
trên thực tế đã tiêu tốn tiền của của nhân dân và sức lực của không ít người, song
nhiều khi các chính sách này không đem lại lợi ích tương xứng với chi phí đã bỏ
ra. Do đó, đã đến lúc cần coi đánh giá chính sách như một khâu không thể thiếu
trong quy trình chính sách.
Các trở ngại trong đánh giá chính sách công hiện nay
Mặc dù là một khâu quan trọng trong quy trình chính sách, song ở nước ta,
nhiều chính sách không được quan tâm đánh giá. Tình trạng đó xuất phát từ các lý
do sau đây:
Thứ nhất, nhận thức về đánh giá chính sách còn đơn giản. Điều đó được biểu
hiện:
- Đồng nhất chính sách với một văn bản đơn lẻ. Mặc dù chính sách được thể
chế hóa trong văn bản pháp luật, song không thể đồng nhất chính sách với một
văn bản đơn lẻ. Thậm chí có những chính sách lớn lại là tập hợp của những chính
sách bộ phận. Chẳng hạn, chính sách xóa đói, giảm nghèo bao gồm chính sách hỗ
trợ người nghèo thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia, chính sách miễn
giảm học phí cho người nghèo, chính sách khám, chữa bệnh miễn phí cho người
nghèo... Do đó, việc đánh giá chính sách thường khá phức tạp, đòi hỏi có cách
nhìn tổng thể.



- Coi đánh giá chính sách là việc của cơ quan ban hành chính sách, nên chờ đợi
khi cơ quan này có chủ trương hoặc yêu cầu cụ thể mới tổ chức triển khai đánh
giá.
- Tách biệt giữa đánh giá nội dung chính sách (thể hiện qua văn bản) với đánh
giá việc thực thi chính sách. Đôi khi, chúng ta rơi vào các nhận xét phiến diện:
hoặc cho rằng các chính sách ban hành là đúng đắn, thường chỉ sai phạm trong
khâu thực thi; nhưng có lúc lại che lấp các hạn chế trong thực thi chính sách bằng
cách đổ lỗi cho sự không phù hợp của các quy định pháp luật.
Thứ hai, các cơ quan chức năng thường không quan tâm tổ chức đánh giá chính
sách. Trên thực tế, rất ít chính sách được tổ chức đánh giá một cách nghiêm túc,
bài bản. Nhiều cơ quan có thẩm quyền (cơ quan ban hành chính sách hoặc chủ trì
tổ chức thực hiện chính sách) không đưa việc đánh giá chính sách vào chương
trình hoạt động của mình. Có thể nêu ra nhiều nguyên nhân của tình trạng này: do
không có đủ nhân lực, không có nguồn lực tài chính để đánh giá, do chính sách
được thực hiện rất “bình lặng” không gây ra vấn đề gì, do bản thân các cơ quan
này không muốn “tự phán xét” các chính sách do mình ban hành và thực thi...
Đương nhiên, việc đánh giá chính sách không chỉ do các cơ quan nhà nước tiến
hành. Các đánh giá chính sách có thể được phản ánh qua công luận, qua ý kiến
của nhân dân, của các tổ chức chính trị - xã hội. Song sự đánh giá từ bên ngoài
nhà nước sẽ chỉ có giá trị thực sự nếu được các cơ quan nhà nước tiếp nhận, tổng
hợp và rút kinh nghiệm. Trong không ít trường hợp, sự đánh giá lẻ tẻ, tự phát của
nhân dân bị bỏ qua. Nếu thiếu sự chủ trì của các cơ quan chức năng, thì việc đánh
giá cũng ít có tác động đến các nhà hoạch định và thực thi chính sách.
Thứ ba, việc xem xét lại chính sách đôi khi chỉ được thực hiện khi xuất hiện
“vấn đề”. Trong một số trường hợp, các chính sách vẫn “bình yên” trong một thời
gian dài, chỉ đến khi “vấp váp” trong thực tiễn, người ta mới nhận ra được những
“lỗ hổng” của chính sách.


Thứ tư, thiếu các tiêu chí để đánh giá chính sách một cách khoa học. Khi đánh

giá chính sách, người ta thường so sánh các kết quả đạt được với mục tiêu chính
sách ban đầu. Việc đánh giá chính sách sẽ dễ dàng nếu các mục tiêu chính sách
được thể hiện dưới dạng định lượng, chẳng hạn như tốc độ gia tăng dân số, tỷ lệ
trẻ em trong độ tuổi đi học được đến trường... Song, trên thực tế đa số các mục
tiêu chính sách được thể hiện dưới dạng định tính, nhiều khi mục tiêu không rõ
ràng, trong trường hợp đó việc đánh giá chính sách theo mục tiêu đề ra có thể
không phản ánh hết các giá trị của chính sách. Để đánh giá chính sách, về nguyên
tắc, phải có các bộ tiêu chí đánh giá được thiết kế đối với từng loại chính sách.
Việc thiếu các tiêu chí đánh giá khiến cho việc đánh giá không toàn diện, đầy đủ,
mang tính phiến diện. Chẳng hạn, đánh giá về chính sách xóa đói, giảm nghèo ở
Việt Nam, có thể thấy kết quả rất khả quan với việc giảm tỷ lệ nghèo từ 22% năm
2005 xuống còn 10,7% năm 2010 theo chuẩn nghèo giai đoạn 2006 - 2010. Song,
nếu đi vào đánh giá tác động của các chính sách cụ thể tới người nghèo thì thấy
còn rất nhiều hạn chế. Chẳng hạn, Chương trình 135 trong giai đoạn 2006 - 2010
tuy đã chi hơn 14.000 tỉ đồng, chưa tính đến giá trị công sức đóng góp của dân,
nhưng đến năm 2010, mới chỉ có 113 xã, chiếm 6% số xã được hưởng thụ
Chương trình, được “xóa tên” khỏi diện nghèo. Ở một số tỉnh có số xã còn tỷ lệ
nghèo cao, như Lạng Sơn: 49%, Điện Biên: 50%, Quảng Bình: 49,34%, Quảng
Nam: 48,78%, Quảng Ngãi: 49,94%.
Thứ năm, đánh giá chính sách đôi khi mang tính một chiều, chỉ phản ánh nhận
xét của các cơ quan nhà nước mà không quan tâm đủ mức đến sự phản hồi từ xã
hội, từ những đối tượng mà chính sách hướng vào. Mặc dù đánh giá của các cơ
quan nhà nước về chính sách có thuận lợi do họ nắm rất rõ về chính sách và quá
trình thực hiện chính sách, nhưng cách làm này có thể dẫn đến chỗ các kết quả
đánh giá chịu sự chi phối của chính những người làm ra và vận hành chính sách
đó, việc chỉ ra các sai sót của bản thân họ sẽ gặp phải rào cản tâm lý mạnh mẽ và
nhiều khi bị bóp méo theo ý muốn chủ quan. Vì vậy, khi đánh giá chính sách, ít
cơ quan tổ chức các cuộc khảo sát lấy ý kiến phản hồi từ nhân dân hay các đối
tượng hưởng lợi một cách rộng rãi, công khai. Trong một số trường hợp các cơ



quan chức năng đã tổ chức thu thập ý kiến phản hồi từ các phương tiện truyền
thông, hay tổ chức các buổi đóng góp ý kiến thông qua các đoàn thể chính trị - xã
hội. Tuy nhiên, không phải lúc nào các ý kiến này cũng phản ánh đầy đủ và chính
xác những vấn đề mà thực tiễn đang đặt ra liên quan đến chính sách được đánh
giá.
Thứ sáu, thiếu kinh phí dành cho việc đánh giá chính sách. Các cơ quan thường
dành nguồn kinh phí có hạn của mình để triển khai các công việc mới (nhằm tạo
ra những kết quả mới) hơn là dùng kinh phí đó để xem xét lại những gì đã làm.
Các giải pháp tăng cường đánh giá chính sách công
Một là, đưa việc đánh giá chính sách thành một nội dung bắt buộc đối với một
số chính sách quan trọng của Nhà nước. Cần nhận thức rõ, những chính sách quan
trọng, liên quan đến những vấn đề cấp thiết nhất của đời sống, đến lợi ích của
nhiều người thì việc đánh giá chính sách là rất cần thiết để hoàn thiện chính sách,
tránh các rủi ro hay lãng phí xảy ra, đặc biệt là tránh những phản ứng ngược lại
với mong muốn của Chính phủ. Cần có kế hoạch đánh giá chính sách và xây
dựng lịch trình đánh giá cụ thể. Trong kế hoạch đánh giá cần xác định rõ mục
tiêu, phạm vi, chủ thể tham gia, các đối tượng, nội dung, các phương pháp và tiêu
chí đánh giá. Cần tổng kết việc đánh giá, công bố công khai kết quả đánh giá ở
phạm vi cần thiết. Tổ chức rút kinh nghiệm nghiêm túc đối với những sai sót về
nội dung chính sách và những hạn chế, vướng mắc trong thực thi chính sách.
Hai là, xây dựng các tiêu chí đánh giá chính sách một cách đầy đủ và đúng
đắn. Tùy theo từng lĩnh vực, sẽ có các tiêu chí đánh giá chính sách khác nhau.
Thông thường, các tiêu chí đánh giá tập trung vào những phương diện sau đây:
- Tính hiệu lực của chính sách phản ánh mức độ tác động, ảnh hưởng của chính
sách đó trên thực tế, làm biến đổi hoặc duy trì thực tế theo mong muốn của Nhà
nước. Tính hiệu lực của chính sách thể hiện ở mức độ đạt được các mục tiêu đề
ra.



- Tính hiệu quả của chính sách phản ánh tương quan so sánh giữa kết quả do
chính sách đưa lại với chi phí đã bỏ ra. Phương pháp phân tích chi phí - lợi ích
thường được sử dụng để xác định hiệu quả của chính sách. Nếu không quan tâm
tính toán hiệu quả sẽ dẫn đến lãng phí, thất thoát tiền của và kinh phí từ ngân sách
nhà nước.
- Tính công bằng của chính sách thể hiện ở chỗ thông qua chính sách, Nhà
nước thực hiện phân phối lại thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, đồng thời trợ
giúp cho các đối tượng dễ bị tổn thương, như người nghèo, người già, trẻ em và
người tàn tật để khắc phục tình trạng bất bình đẳng về thu nhập giữa các nhóm xã
hội. Tính công bằng của chính sách còn thể hiện ở sự phân bổ hợp lý các chi phí
và lợi ích, các quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia hoạch định, thực thi
chính sách và các nhóm đối tượng liên quan đến chính sách.
- Chú trọng đánh giá tác động của chính sách đến các đối tượng hưởng lợi từ
chính sách. Tác động của chính sách phản ánh kết quả đầu ra hay kết quả cuối
cùng của chính sách. Đây là một tiêu chí rất quan trọng trong đánh giá chính sách
công. Song việc đánh giá tác động của chính sách cũng là khâu khó khăn nhất
trong đánh giá chính sách, bởi lẽ các tác động này đôi khi rất khó đo lường.
Chẳng hạn, để đánh giá chính sách giảm nghèo đã tác động đến đối tượng người
nghèo như thế nào, cần xem xét việc người nghèo được hưởng những lợi ích gì từ
chính sách của Chính phủ và các lợi ích đó đã giúp họ thoát nghèo đến đâu. Việc
đánh giá tác động này không thể căn cứ vào những ý kiến chủ quan của các cấp
chính quyền, mà phải được đo lường bằng mức độ hài lòng của người dân về các
lợi ích được hưởng. Cần tổ chức các cuộc khảo sát lấy ý kiến đánh giá của người
dân, đối tượng hưởng lợi từ chính sách. Kinh nghiệm thành công của các cuộc
khảo sát lấy ý kiến khách hàng về việc cung cấp các dịch vụ công thiết yếu tại
Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng là những minh chứng có giá trị trong việc
đánh giá mức độ hưởng lợi của các đối tượng chính sách.
- Mức độ giải quyết vấn đề chính sách. Mỗi chính sách được xây dựng khởi
nguồn từ việc xác định vấn đề chính sách - đó là nhu cầu xã hội hay mâu thuẫn



trong xã hội đòi hỏi Nhà nước phải sử dụng quyền lực công để giải quyết nhằm
đạt tới mục tiêu hiệu quả, ổn định và công bằng xã hội. Nhu cầu giải quyết vấn đề
của chính sách thường thể hiện ở các mục tiêu của chính sách. Tuy nhiên, đôi khi
mục tiêu được đề ra quá rộng, chung chung, không rõ ràng, khi đó dù các chính
sách có được thực thi trên thực tế theo mục tiêu đề ra, thì cũng rất khó xác định
vấn đề chính sách đã được giải quyết đến đâu. Hơn nữa, vấn đề chính sách
thường có ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh kinh tế, xã hội khác nhau. Do đó, mức
độ giải quyết vấn đề chính sách có thể đo lường được bằng một loạt tiêu chí liên
quan đến các khía cạnh kinh tế - xã hội này. Chẳng hạn, để đánh giá mức độ giải
quyết vấn đề đói, nghèo, sẽ không thể chỉ đưa ra chỉ tiêu nghèo đã giảm xuống
bao nhiêu phần trăm, mà còn phải xem xét các khía cạnh khác, như người nghèo
được tiếp cận như thế nào đến các dịch vụ công thiết yếu, như y tế, giáo dục,
nước sạch; việc tạo điều kiện cho người nghèo trong thực hiện các quyền lợi của
công dân...
Ba là, quan tâm đến dư luận xã hội, ý kiến, nguyện vọng của nhân dân để thấy
được các bất cập trong hoạch định và quá trình thực thi chính sách. Việc đánh giá
chính sách theo những tiêu chí nêu trên đã phản ánh được thực trạng các thành
công và yếu kém của chính sách. Song, không chỉ chờ đến khi các cơ quan chức
năng tổ chức đánh giá thì các hạn chế của chính sách mới bộc lộ ra. Các phương
tiện thông tin đại chúng, dư luận xã hội và ý kiến đóng góp của các tổ chức quần
chúng là các kênh phản hồi quan trọng về chính sách. Việc quan tâm theo dõi và
tiếp nhận những thông tin này sẽ giúp cáccơ quan chức năng của Nhà nước định
hướng việc đánh giá chính sách. Những ý kiến nói trên cũng sẽ tạo cơ sở đề hình
thành các đề xuất nhằm tiếp tục hoàn chỉnh, bổ sung chính sách.
Bốn là, tổ chức nhóm đánh giá độc lập, gồm các thành viên hoạt động với tư
cách chuyên gia đánh giá, có thể từ cơ quan nhà nước hoặc ngoài nhà nước, song
tất cả các thành viên sẽ thực hiện việc đánh giá một cách độc lập, khách quan
theo mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể của nhóm.



Thứ năm, dành nguồn kinh phí thỏa đáng cho việc đánh giá chính sách. Việc bỏ
ra một khoản kinh phí cần thiết và sử dụng có hiệu quả kinh phí đó cho đánh giá
chính sách sẽ đem lại lợi ích đáng kể cho quá trình tiếp tục vận hành chính sách
trong giai đoạn tiếp theo, khắc phục những hạn chế, bất cập của chính sách và bảo
đảm cho chính sách đáp ứng các yêu cầu của cuộc sống.
Trong một xã hội đang phát triển theo xu hướng dân chủ hóa, việc đánh giá các
chính sách công ngày càng trở thành đòi hỏi chính đáng và cấp thiết. Đánh giá
chính sách công giúp Nhà nước xác định được các bất cập trong đời sống kinh tế
- xã hội và tìm cách khắc phục các bất cập đó. Chính sách công phản ánh rõ nét
nhất các mục tiêu của Nhà nước và các giải pháp mà Nhà nước sử dụng để đạt tới
các mục tiêu này. Đánh giá chính sách cho phép Nhà nước nhìn nhận lại năng lực
thể chế và năng lực thực thi chính sách của mình. Trong một môi trường không
ngừng biến đổi, việc đánh giá các chính sách công sẽ tạo cơ sở vững chắc cho sự
phát triển quản lý nhà nước trong giai đoạn tiếp theo, hướng đến một Nhà nước
thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân./.


Câu 5: Chứng minh đánh giá chính sách là cần thiết trong quy trình
chính sách? Trình bày thực tiễn công tác đánh giá chính sách ở Việt Nam
hiện nay và phân tích nguyên nhân của thực trạng đó.
Đánh giá chính sách công là việc xem xét mức độ đạt được mục tiêu đề ra
(hiệu quả kinh tế, - xã hội của một chính sách) làm căn cứ cho việc lựa chọn và
hoàn thiện chính sách công. Đánh giá chính sách công có nhiệm vụ: sơ kết, tổng
kết việc thực hiện chính sách; rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết … Đánh
giá chính sách công để trả lời các câu hỏi: Chính sách đó có cần thiết hay không?
Mục đích của chính sách là gì? Chính sách đã tác động đến đối tượng ra sao?,
hiệu quả thế nào? Ai đánh giá tác động? Các phản hồi của chính sách là gì?
Những tiêu chuẩn để đánh giá chính sách? Chính sách đó nên tiếp tục duy trì,
phát triển hay chấm dứt?

Đánh gia chính sách là việc xem xét, nhận định về giá trị các kết quả thu được
khi thực hiện chính sách công.
Nghiên cứu, đánh giá chính sách công thường tập trung vào 3 nhóm vấn đề:
Một là, xem xét vấn đề một cách tổng thể, trên bình diện quốc gia, liên quan
đến vấn đề bình đẳng, công bằng xã hội.
Hai là, đánh giá thực hiện chương trình chính sách.
Ba là, đánh giá kết quả chính sách.
Đánh giá chính sách công là giai đoạn cuối cùng trong quy trình chính sách
nhưng trên thực tế, đánh giá chính sách công được thực hiện trong suốt quá trình
chính sách.
Đánh giá chính sách công bao gồm đánh giá kết quả thực tế triển khai chính
sách cũng như việc đánh giá về bản thân quá trình triển khai để tổng kết các kinh
nghiệm. Việc đánh giá chính sách trước và sau khi triển khai có ảnh hưởng sống
còn đối với một chính sách, không những trên phương diện vật chất mà còn cả về
uy tín và sinh mạng chính trị của các chủ thể liên quan.
Đánh giá chính sách công là công việc khó khan, phức tạp, bởi các lý do:


Một là, thực thi chính sách công luôn là một quá trình biến động theo những
điều kiện cụ thể trong thực tế, nên rất khó xác định được một căn cứ nhất định để
đánh giá.
Hai là, các mục tiêu ban đầu đặt ra cho chính sách công nhiều khi thiếu phân
minh, cụ thể và hiếm khi đạt được sự đồng thuận hoàn toàn từ các bên tham gia.
Vì thế, cơ sở của đánh giá chính sách công là mơ hồ.
Ba là, khó khăn để đạt đến sự thống nhất giữa người quản lý và người đánh
giá trong vấn đề xác định đầu ra.
Tóm lại: Đánh giá chính sách cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách
những kinh nghiệm, bài học trong việc ban hành chính sách; xem xét tính hợp lý
của chính sách; cung cấp cách nhìn, bài học thực tiến trong việc thực hiện chính
sách; góp phần tổng kết thực tiễn, hoàn thiện chính sách thông qua việc rút ra

những thiếu sót của các chính sách để bổ sung cho chính sách mới.
Các đặc trưng của đánh giá chính sách công:
Đánh giá chính sách công tập trung vào việc phán xét các giá trị thu được.
Đánh giá chính sách công căn cứ vào kết quả thực tế.
Tác dụng của việc đánh giá chính sách công:
Một là, nuôi dưỡng, thuc đẩy sự phát triển của chính sách.
Hai là, tăng cường tính hiệu quả của chính sách.
Ba là, xác định, đo lường các kết quả thực hiện chính sách.
Bốn là, xác định mực độ thỏa mãn của các đối tượng chính sách.
Năm là, cải tiến chính sách.
Các kiểu đánh giá chính sách: Có 3 kiểu đánh giá chính sách, đó là: Đánh giá
chính trị, đánh giá kỹ thuật và đánh giá toàn diện.
Các hính thức đánh giá chính sách công: Đánh giá theo phương pháp chuyên
môn, đánh giá dự trên cơ sở so sánh các kết quả thu được với những mục tiêu và
chỉ tiêu mà cơ quan hoạch định và thực hiện chính sách đã công bố và cuối cùng
là đánh giá thông qua thăm dò ý kiến các đối tượng của chính sách.
Thực tiễn công tác đánh giá chính sách ở Việt Nam hiện nay và phân tích
nguyên nhân của thực trạng đó:


Cùng với hoạch định và triển khai thực hiện, thì đánh giá chính sách là một
khâu không thể thiếu của quy trình chính sách. Vì nhiều nguyên nhân khách quan
và chủ quan khác nhau, mà khâu đánh giá chính sách chưa được thực sự coi trọng
trong thực tiễn Việt Nam.
Chính sách công là một công cụ quan trọng của quản lý nhà nước. Thông qua
việc ban hành và thực thi các chính sách, những mục tiêu của Nhà nước được
hiện thực hóa.
Mỗi chính sách vận động theo một quy trình, bao gồm 3 giai đoạn cơ bản:
hoạch định chính sách, thực thi chính sách và đánh giá chính sách. Ở Việt Nam,
lâu nay Nhà nước đã chú trọng nhiều đến khâu hoạch định và thực thi chính sách,

song việc đánh giá chính sách thì dường như bị bỏ qua hoặc rất ít được quan tâm.
Đánh giá chính sách là xem xét, nhận định về giá trị các kết quả đạt được khi
ban hành và thực thi một chính sách công. Để có thể đi vào cuộc sống, chính sách
công được thể chế hóa thành các quy định pháp luật. Việc nhìn nhận và đánh giá
chính sách do đó thường gắn với sự đánh giá những quy định pháp luật này có
phù hợp với những yêu cầu của cuộc sống hay không và chúng được vận hành
như thế nào trên thực tế. Tuy nhiên, chính sách công không chỉ thể hiện trong các
quy định pháp luật, chúng còn nằm trong các chương trình, kế hoạch, chủ trương
hoạt động của nhà nước. Do đó, đánh giá chính sách công sẽ bao quát việc xem
xét về tổng thể các quyết định của nhà nước (chính phủ trung ương và chính
quyền địa phương) trong việc giải quyết một vấn đề cấp thiết đặt ra trong thực
tiễn quản lý nhà nước. Đánh giá chính sách cho phép xem xét, nhận định không
chỉ về nội dung chính sách, mà còn về quá trình thực thi chính sách, từ đó có biện
pháp điều chỉnh phù hợp với đòi hỏi thực tế để đạt các mục tiêu mong đợi.
Khi Việt Nam chuyển sang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế, đòi hỏi ban hành các chính sách để tạo ra những nhân
tố, môi trường cho sự chuyển đổi trở thành cấp bách. Vì vậy, trong một thời gian
khá dài, Nhà nước tập trung cao vào việc xây dựng và ban hành các thể chế, nhằm
tạo các hành lang pháp lý cho mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội. Việc ban hành hàng
loạt văn bản pháp luật trong không ít trường hợp dẫn đến tình trạng chồng chéo,


trùng lắp, thậm chí mâu thuẫn nhau giữa các quy định pháp lý, mà cuối cùng là sự
chi phối của chúng đối với các hoạt động kinh tế – xã hội theo các chiều khác
nhau, khiến cho những hoạt động này không đạt được mục tiêu mong muốn. Nói
cách khác, hàng loạt chính sách được ban hành, có hiệu lực thi hành, song việc
chính sách đó có hiệu lực thực tế như thế nào và đáp ứng mục tiêu đặt ra đến đâu
thì dường như không được quan tâm. Đôi khi chính sách được ban hành chẳng
những không giải quyết được vấn đề đặt ra, mà còn gây ra những hiệu ứng phụ
làm phức tạp thêm vấn đề. Chẳng hạn, chính sách hạn chế ùn tắc giao thông trong

các thành phố lớn đã được triển khai với nhiều giải pháp khác nhau, song thực tế
vẫn chưa giải quyết được vấn đề ùn tắc, trong khi đó một số giải pháp đưa ra, như
chặn các ngã tư, thu phí chống ùn tắc lại gây ra các hiệu ứng phụ làm rắc rối thêm
hiện trạng. Hơn thế, việc hoạch định chính sách (thông qua việc soạn thảo và ban
hành hàng loạt văn bản pháp luật) và việc tổ chức triển khai các chính sách đó
trên thực tế đã tiêu tốn tiền của của nhân dân và sức lực của không ít người, song
nhiều khi các chính sách này không đem lại lợi ích tương xứng với chi phí đã bỏ
ra. Do đó, đã đến lúc cần coi đánh giá chính sách như một khâu không thể thiếu
trong quy trình chính sách.
Mặc dù là một khâu quan trọng trong quy trình chính sách, song ở nước
ta, nhiều chính sách không được quan tâm đánh giá. Tình trạng đó xuất phát
từ các lý do sau đây:
1. Nhận thức về đánh giá chính sách còn đơn giản. Điều đó được biểu
hiện:
Đồng nhất chính sách với một văn bản đơn lẻ. Mặc dù chính sách được thể
chế hóa trong văn bản pháp luật, song không thể đồng nhất chính sách với một
văn bản đơn lẻ. Thậm chí có những chính sách lớn lại là tập hợp của những chính
sách bộ phận. Chẳng hạn, chính sách xóa đói, giảm nghèo bao gồm chính sách hỗ
trợ người nghèo thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia, chính sách miễn
giảm học phí cho người nghèo, chính sách khám, chữa bệnh miễn phí cho người
nghèo… Do đó, việc đánh giá chính sách thường khá phức tạp, đòi hỏi có cách
nhìn tổng thể.


Coi đánh giá chính sách là việc của cơ quan ban hành chính sách, nên chờ đợi
khi cơ quan này có chủ trương hoặc yêu cầu cụ thể mới tổ chức triển khai đánh
giá.
Tách biệt giữa đánh giá nội dung chính sách (thể hiện qua văn bản) với đánh
giá việc thực thi chính sách. Đôi khi, chúng ta rơi vào các nhận xét phiến diện:
hoặc cho rằng các chính sách ban hành là đúng đắn, thường chỉ sai phạm trong

khâu thực thi; nhưng có lúc lại che lấp các hạn chế trong thực thi chính sách bằng
cách đổ lỗi cho sự không phù hợp của các quy định pháp luật.
2.Các cơ quan chức năng thường không quan tâm tổ chức đánh giá chính
sách. Trên thực tế, rất ít chính sách được tổ chức đánh giá một cách nghiêm túc,
bài bản. Nhiều cơ quan có thẩm quyền (cơ quan ban hành chính sách hoặc chủ trì
tổ chức thực hiện chính sách) không đưa việc đánh giá chính sách vào chương
trình hoạt động của mình. Có thể nêu ra nhiều nguyên nhân của tình trạng này: do
không có đủ nhân lực, không có nguồn lực tài chính để đánh giá, do chính sách
được thực hiện rất “bình lặng” không gây ra vấn đề gì, do bản thân các cơ quan
này không muốn “tự phán xét” các chính sách do mình ban hành và thực thi…
Đương nhiên, việc đánh giá chính sách không chỉ do các cơ quan nhà nước tiến
hành. Các đánh giá chính sách có thể được phản ánh qua công luận, qua ý kiến
của nhân dân, của các tổ chức chính trị – xã hội. Song sự đánh giá từ bên ngoài
nhà nước sẽ chỉ có giá trị thực sự nếu được các cơ quan nhà nước tiếp nhận, tổng
hợp và rút kinh nghiệm. Trong không ít trường hợp, sự đánh giá lẻ tẻ, tự phát của
nhân dân bị bỏ qua. Nếu thiếu sự chủ trì của các cơ quan chức năng, thì việc đánh
giá cũng ít có tác động đến các nhà hoạch định và thực thi chính sách.
3. Việc xem xét lại chính sách đôi khi chỉ được thực hiện khi xuất hiện
“vấn đề”.
Trong một số trường hợp, các chính sách vẫn “bình yên” trong một thời gian
dài, chỉ đến khi “vấp váp” trong thực tiễn, người ta mới nhận ra được những “lỗ
hổng” của chính sách.
4.Thiếu các tiêu chí để đánh giá chính sách một cách khoa học.


Khi đánh giá chính sách, người ta thường so sánh các kết quả đạt được với
mục tiêu chính sách ban đầu. Việc đánh giá chính sách sẽ dễ dàng nếu các mục
tiêu chính sách được thể hiện dưới dạng định lượng, chẳng hạn như tốc độ gia
tăng dân số, tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi đi học được đến trường… Song, trên thực
tế đa số các mục tiêu chính sách được thể hiện dưới dạng định tính, nhiều khi

mục tiêu không rõ ràng, trong trường hợp đó việc đánh giá chính sách theo mục
tiêu đề ra có thể không phản ánh hết các giá trị của chính sách. Để đánh giá chính
sách, về nguyên tắc, phải có các bộ tiêu chí đánh giá được thiết kế đối với từng
loại chính sách. Việc thiếu các tiêu chí đánh giá khiến cho việc đánh giá không
toàn diện, đầy đủ, mang tính phiến diện. Chẳng hạn, đánh giá về chính sách xóa
đói, giảm nghèo ở Việt Nam, có thể thấy kết quả rất khả quan với việc giảm tỷ lệ
nghèo từ 22% năm 2005 xuống còn 10,7% năm 2010 theo chuẩn nghèo giai đoạn
2006 – 2010. Song, nếu đi vào đánh giá tác động có nhiều khi bị bóp méo theo ý
muốn chủ quan. Vì vậy, khi đánh giá chính sách, ít cơ quan tổ chức các cuộc khảo
sát lấy ý kiến phản hồi từ nhân dân hay các đối tượng hưởng lợi một cách rộng
rãi, công khai. Trong một số trường hợp các cơ quan chức năng đã tổ chức thu
thập ý kiến phản hồi từ các phương tiện truyền thông, hay tổ chức các buổi đóng
góp ý kiến thông qua các đoàn thể chính trị – xã hội. Tuy nhiên, không phải lúc
nào các ý kiến này cũng phản ánh đầy đủ và chính xác những vấn đề mà thực tiễn
đang đặt ra liên quan đến chính sách được đánh giá.
5.Thiếu kinh phí dành cho việc đánh giá chính sách.
Các cơ quan thường dành nguồn kinh phí có hạn của mình để triển khai các
công việc mới (nhằm tạo ra những kết quả mới) hơn là dùng kinh phí đó để xem
xét lại những gì đã làm.
Các giải pháp tăng cường đánh giá chính sách công
Một là, đưa việc đánh giá chính sách thành một nội dung bắt buộc đối với một
số chính sách quan trọng của Nhà nước. Cần nhận thức rõ, những chính sách quan
trọng, liên quan đến những vấn đề cấp thiết nhất của đời sống, đến lợi ích của
nhiều người thì việc đánh giá chính sách là rất cần thiết để hoàn thiện chính sách,
tránh các rủi ro hay lãng phí xảy ra, đặc biệt là tránh những phản ứng ngược lại


với mong muốn của Chính phủ. Cần có kế hoạch đánh giá chính sách và xây
dựng lịch trình đánh giá cụ thể. Trong kế hoạch đánh giá cần xác định rõ mục
tiêu, phạm vi, chủ thể tham gia, các đối tượng, nội dung, các phương pháp và tiêu

chí đánh giá. Cần tổng kết việc đánh giá, công bố công khai kết quả đánh giá ở
phạm vi cần thiết. Tổ chức rút kinh nghiệm nghiêm túc đối với những sai sót về
nội dung chính sách và những hạn chế, vướng mắc trong thực thi chính sách.
Hai là, xây dựng các tiêu chí đánh giá chính sách một cách đầy đủ và đúng
đắn. Tùy theo từng lĩnh vực, sẽ có các tiêu chí đánh giá chính sách khác nhau.
Thông thường, các tiêu chí đánh giá tập trung vào những phương diện sau đây:
Tính hiệu lực của chính sách phản ánh mức độ tác động, ảnh hưởng của chính
sách đó trên thực tế, làm biến đổi hoặc duy trì thực tế theo mong muốn của Nhà
nước. Tính hiệu lực của chính sách thể hiện ở mức độ đạt được các mục tiêu đề
ra.
Tính hiệu quả của chính sách phản ánh tương quan so sánh giữa kết quả do
chính sách đưa lại với chi phí đã bỏ ra. Phương pháp phân tích chi phí – lợi ích
thường được sử dụng để xác định hiệu quả của chính sách. Nếu không quan tâm
tính toán hiệu quả sẽ dẫn đến lãng phí, thất thoát tiền của và kinh phí từ ngân sách
nhà nước.
Tính công bằng của chính sách thể hiện ở chỗ thông qua chính sách, Nhà
nước thực hiện phân phối lại thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, đồng thời trợ
giúp cho các đối tượng dễ bị tổn thương, như người nghèo, người già, trẻ em và
người tàn tật để khắc phục tình trạng bất bình đẳng về thu nhập giữa các nhóm xã
hội. Tính công bằng của chính sách còn thể hiện ở sự phân bổ hợp lý các chi phí
và lợi ích, các quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia hoạch định, thực thi
chính sách và các nhóm đối tượng liên quan đến chính sách.
Chú trọng đánh giá tác động của chính sách đến các đối tượng hưởng lợi từ
chính sách. Tác động của chính sách phản ánh kết quả đầu ra hay kết quả cuối
cùng của chính sách. Đây là một tiêu chí rất quan trọng trong đánh giá chính sách
công. Song việc đánh giá tác động của chính sách cũng là khâu khó khăn nhất
trong đánh giá chính sách, bởi lẽ các tác động này đôi khi rất khó đo lường.


Chẳng hạn, để đánh giá chính sách giảm nghèo đã tác động đến đối tượng người

nghèo như thế nào, cần xem xét việc người nghèo được hưởng những lợi ích gì từ
chính sách của Chính phủ và các lợi ích đó đã giúp họ thoát nghèo đến đâu. Việc
đánh giá tác động này không thể căn cứ vào những ý kiến chủ quan của các cấp
chính quyền, mà phải được đo lường bằng mức độ hài lòng của người dân về các
lợi ích được hưởng. Cần tổ chức các cuộc khảo sát lấy ý kiến đánh giá của người
dân, đối tượng hưởng lợi từ chính sách. Kinh nghiệm thành công của các cuộc
khảo sát lấy ý kiến khách hàng về việc cung cấp các dịch vụ công thiết yếu tại
Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng là những minh chứng có giá trị trong việc
đánh giá mức độ hưởng lợi của các đối tượng chính sách.
Mức độ giải quyết vấn đề chính sách. Mỗi chính sách được xây dựng khởi
nguồn từ việc xác định vấn đề chính sách – đó là nhu cầu xã hội hay mâu thuẫn
trong xã hội đòi hỏi Nhà nước phải sử dụng quyền lực công để giải quyết nhằm
đạt tới mục tiêu hiệu quả, ổn định và công bằng xã hội. Nhu cầu giải quyết vấn đề
của chính sách thường thể hiện ở các mục tiêu của chính sách. Tuy nhiên, đôi khi
mục tiêu được đề ra quá rộng, chung chung, không rõ ràng, khi đó dù các chính
sách có được thực thi trên thực tế theo mục tiêu đề ra, thì cũng rất khó xác định
vấn đề chính sách đã được giải quyết đến đâu. Hơn nữa, vấn đề chính sách
thường có ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh kinh tế, xã hội khác nhau. Do đó, mức
độ giải quyết vấn đề chính sách có thể đo lường được bằng một loạt tiêu chí liên
quan đến các khía cạnh kinh tế – xã hội này. Chẳng hạn, để đánh giá mức độ giải
quyết vấn đề đói, nghèo, sẽ không thể chỉ đưa ra chỉ tiêu nghèo đã giảm xuống
bao nhiêu phần trăm, mà còn phải xem xét các khía cạnh khác, như người nghèo
được tiếp cận như thế nào đến các dịch vụ công thiết yếu, như y tế, giáo dục,
nước sạch; việc tạo điều kiện cho người nghèo trong thực hiện các quyền lợi của
công dân…
Ba là, quan tâm đến dư luận xã hội, ý kiến, nguyện vọng của nhân dân để thấy
được các bất cập trong hoạch định và quá trình thực thi chính sách. Việc đánh giá
chính sách theo những tiêu chí nêu trên đã phản ánh được thực trạng các thành
công và yếu kém của chính sách. Song, không chỉ chờ đến khi các cơ quan chức



năng tổ chức đánh giá thì các hạn chế của chính sách mới bộc lộ ra. Các phương
tiện thông tin đại chúng, dư luận xã hội và ý kiến đóng góp của các tổ chức quần
chúng là các kênh phản hồi quan trọng về chính sách. Việc quan tâm theo dõi và
tiếp nhận những thông tin này sẽ giúp cáccơ quan chức năng của Nhà nước định
hướng việc đánh giá chính sách. Những ý kiến nói trên cũng sẽ tạo cơ sở đề hình
thành các đề xuất nhằm tiếp tục hoàn chỉnh, bổ sung chính sách.
Bốn là, tổ chức nhóm đánh giá độc lập, gồm các thành viên hoạt động với tư
cách chuyên gia đánh giá, có thể từ cơ quan nhà nước hoặc ngoài nhà nước, song
tất cả các thành viên sẽ thực hiện việc đánh giá một cách độc lập, khách quan
theo mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể của nhóm.
Thứ năm, dành nguồn kinh phí thỏa đáng cho việc đánh giá chính sách. Việc
bỏ ra một khoản kinh phí cần thiết và sử dụng có hiệu quả kinh phí đó cho đánh
giá chính sách sẽ đem lại lợi ích đáng kể cho quá trình tiếp tục vận hành chính
sách trong giai đoạn tiếp theo, khắc phục những hạn chế, bất cập của chính sách
và bảo đảm cho chính sách đáp ứng các yêu cầu của cuộc sống.
Trong một xã hội đang phát triển theo xu hướng dân chủ hóa, việc đánh giá
các chính sách công ngày càng trở thành đòi hỏi chính đáng và cấp thiết. Đánh
giá chính sách công giúp Nhà nước xác định được các bất cập trong đời sống kinh
tế – xã hội và tìm cách khắc phục các bất cập đó. Chính sách công phản ánh rõ
nét nhất các mục tiêu của Nhà nước và các giải pháp mà Nhà nước sử dụng để đạt
tới các mục tiêu này. Đánh giá chính sách cho phép Nhà nước nhìn nhận lại năng
lực thể chế và năng lực thực thi chính sách của mình. Trong một môi trường
không ngừng biến đổi, việc đánh giá các chính sách công sẽ tạo cơ sở vững chắc
cho sự phát triển quản lý nhà nước trong giai đoạn tiếp theo.



×