Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Một số giải pháp rèn kỹ năng thực hiện các phép tính về số thập phân cho học sinh lớp 5a trường tiểu học xuân lẹ, huyện thường xuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1016.37 KB, 18 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THƯỜNG XUÂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP RÈN KĨ NĂNG THỰC HIỆN
CÁC PHÉP TÍNH VỀ SỐ THẬP PHÂN CHO HỌC SINH LỚP 5A
TRƯỜNG TIỂU HỌC XUÂN LẸ, HUYỆN THƯỜNG XUÂN.

Người thực hiện: Hoàng Viết Hưng
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Xuân Lẹ
SKKN thuộc môn: Toán

THANH HOÁ, NĂM 2020


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Một số giải pháp rèn kĩ năng thực hiện các phép tính về số thập phân
cho học sinh lớp 5A trường Tiểu học Xuân Lẹ, huyện Thường Xuân.
STT
CÁC PHẦN CHÍNH CỦA SKKN
SỐ
TRANG
MỤC LỤC
STT

NỘI DUNG SÁNG KIẾN

TRANG



1

1. Mở đầu.

1

2

1.1. Lý do chọn đề tài.

1

3

1.2. Mục đích nghiên cứu.

2

4

1.3. Đối tượng nghiên cứu.

2

5

1.4. Phương pháp nghiên cứu.

2


6

2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm

3

7

2.1. Cơ sở lý luận sáng kiến kinh nghiệm.

3

8

2.2.Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến.

4

9

2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.

5

10

2.4. Hiệu quả của sáng kiến đối với hoạt động giáo dục,với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.


11

11

3. Kết luận, kiến nghị.

13

12

3.1. Kết luận.

13

13

3.2. Kiến nghị.

14

14

Tài liệu tham khảo

15
1

15

Danh mục SKKN đã được Hội đồng SKKN Ngành

GD&ĐT huyện, tỉnh và cấp cao hơn xếp loại C trở lên

16


1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài:
Đến thời điểm hiện tại, tôi đã có 15 năm công tác tại miền núi, tại các xã
vùng khó khăn, vùng 135. Trong đó hơn 11 năm công tác tại trường Tiểu học
Xuân Lẹ xã Xuân Lẹ, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Trong quãng thời
gian đó, tôi đã được BGH Nhà trường phân công 10 năm làm công tác chủ
nhiệm và trực tiếp giảng dạy học sinh lớp 5. Qua quá trình công tác; quá trình
làm công tác giảng dạy, công tác chủ nhiệm lớp; qua tìm hiểu về tình hình giáo
dục của xã nhà, tôi nhận thấy vẫn còn tồn tại nhiều mặt hạn chế làm ảnh hưởng
trực tiếp đến chất lượng giáo dục. Trong từng khối lớp vẫn còn nhiều mạch kiến
thức gây khó khăn cho học sinh nơi đây. Trong chương trình môn toán lớp 5,
mỗi khi dạy phần các phép tính với số thập phân, vẫn còn “Tình trạng học sinh
thực hiện chưa thành thạo các phép tính về số thập phân”. Vậy tình trạng đó xuất
phát từ đâu. Tôi xin đưa ra một số lí do sau:
Hành trang của học sinh nơi đây trước khi bước vào lớp học là rất nghèo
nàn. Trong quá trình sinh sống và học tập ở bậc Tiểu học các em ít có cơ hội
được va chạm với tính toán thực tế, kiến thức chủ yếu được hình thành trên lớp.
Kết thúc chương trình lớp học (lớp 1, 2, 3, 4) còn nhiều em kĩ năng thực
hiện các phép tính cơ bản (cộng, trừ, nhân, chia, đổi đơn vị,…) còn gặp nhiều
khó khăn. Nhiều em chưa thuộc nhuần nhuyễn bảng cộng, trừ, nhân, chia theo
yêu cầu của từng khối lớp; có nhiều em sau khi thuộc hết thời gian nghỉ hè các
em lại quên.
Nhiều học sinh phải đi học với khoảng cách quá xa, hàng 4, 5 cây số
đường rừng lại qua nhiều sông suối. Nhiều em có hoàn cảnh gia đình khó khăn,
bố mẹ đi làm ăn xa phải ở với ông bà hoặc ở với cô dì, chú bác nên ít được quan

tâm chăm sóc.
Tình hình thực tế tại đơn vị là như vậy. Trong khi đó, Tiểu học là bậc học
góp phần quan trọng trong việc đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển
nhân cách học sinh. Môn Toán cũng như những môn học khác cung cấp những
tri thức khoa học ban đầu, những nhận thức về thế giới xung quanh nhằm phát
triển năng lực nhận thức, hoạt động tư duy và bồi dưỡng tình cảm đạo đức tốt
đẹp của con người.
Tâm lý nhận thức của học sinh Tiểu học chủ yếu là tư duy trực quan cụ
thể, tư duy trừu tượng mới bắt đầu hình thành và phát triển ở các lớp cuối cấp
song còn ở mức độ đơn giản. Khả năng phân tích, tổng hợp, khái quát hoá các
dữ kiện ở các em chưa cao đặc biệt là đối với các em học sinh vùng cao.
Môn Toán lớp 5 có vị trí vô cùng đặc biệt vì nội dung dạy học Toán 5 chủ
yếu là dạy học và ứng dụng những kiến thức, kỹ năng về số thập phân và bốn
phép tính với số thập phân. Ngược lại, nắm vững kiến thức về số thập phân giúp
học sinh vừa nắm vững, vừa củng cố và khắc sâu hơn những kiến thức đã học
trước đó.
Trong chương trình môn Toán lớp 5, nội dung về số thập phân là một nội
dung quan trọng và khó nhất đối với học sinh nói chung và đặc biệt khó khăn
đối với học sinh miền núi. Nội dung này có khối lượng kiến thức lớn và khá trừu
2


tượng. Muốn học tập có hiệu quả phần này, học sinh phải huy động những kiến
thức về số tự nhiên, phân số, số đo đại lượng và các phép tính với các loại số
này đã được học từ các lớp dưới.
Như vậy, Toán 5 góp phần tạo điều kiện cho học sinh phát triển các kiến
thức, kỹ năng cơ bản của số học ngày càng sâu và rộng. Vì khả năng ứng dụng
trong thực tế của số thập phân rất lớn nên sau khi học các phép tính với số thập
phân học sinh có thể giải được nhiều dạng bài toán thực tế gần gũi với đời sống
mà ở các lớp dưới các em chưa giải được.

Trong những năm qua, tại đơn vị chúng tôi, nhiều giáo viên đã có những
giải pháp nhằm giúp học sinh có kĩ năng thực hiện 4 phép tính với số thập phân
cũng đã thu được những thành quả nhất định. Song vẫn còn một số học sinh
chưa thành thạo trong khi làm bài, đặt tính chưa chuẩn khi cộng, trừ số thập
phân, hay nhầm lẫn trong lúc tính toán; còn khó khăn trong việc xác định dấu
phẩy ở tích khi nhân số thập phân với số thập phân, thường hay quên nhớ khi
tính, quên thực hiện bước tính khi nhân với thừa số có số 0; nhiều em chưa nắm
được cách chia số thập phân, ước lượng thương trong phép chia còn chậm.
Từ những tìm hiểu và phân tích như trên, sau khi vận dụng và đạt những
kết quả đáng khích lệ; tôi đã quyết định chọn đề tài: “Một số giải pháp rèn kĩ
năng thực hiện các phép tính về số thập phân cho học sinh lớp 5A trường
Tiểu học Xuân Lẹ”.
Với mong muốn tìm ra những nguyên nhân chính, những nguyên nhân
sâu xa của vấn đề thực hiện các phép tính về số thập phân của học sinh lớp 5A
trường Tiểu học Xuân Lẹ nói riêng và học sinh khối 5 trường Tiểu học Xuân Lẹ
nói chung. Từ đó đưa ra các giải pháp nhằm: giúp học sinh lớp 5A thực hiện
thành thạo, linh hoạt các phép tính về số thập phân góp phần nâng cao chất
lượng học tập của học sinh lớp chủ nhiệm.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Qua nghiên cứu đề tài nhằm tìm hiểu nguyên nhân về việc học sinh
thường vướng mắc khi thực hiện các phép tính về số thập phân và đưa ra những
giải pháp nhằm khắc phục tình trạng này. Qua đó góp phần nâng cao chất lượng
học của học sinh.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu các phép tính về số thập phân, kĩ năng thực
hiện các phép tính về số thập phân của học sinh lớp 5A trường Tiểu học Xuân
Lẹ, huyện Thường Xuân. Từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp giúp học sinh thực
hiện thành thạo các phép tính về số thập phân.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết:

Thu thập thông tin khoa học trên cơ sở nghiên cứu các văn bản, tài liệu đã
có như: Đề cương bài giảng “Hình thành phát triển nhân cách học sinh” của
Thạc sĩ Đặng Thị Chúc; Giáo trình “Tâm lý học đại cương”; Giáo trình “Tâm lý
học lứa tuổi”; Báo cáo sơ kết học kỳ, Báo cáo tổng kết các năm học của nhà
trường; Qua thăm lớp dự giờ giáo viên khối 5 dạy phần phép tính với số thập
phân. Từ đó bằng các thao tác tư duy logic để rút ra kết luận khoa học cần thiết.
3


Phương pháp điều tra khảo sát thực tế:
Qua quá trình công tác nhiều năm và trực tiếp làm công tác chủ nhiệm,
công tác dạy học lớp 5, qua công tác tổ chức sinh hoạt 15 phút đầu giờ và sinh
hoạt tập thể hàng tuần; qua thông tin hai chiều giữa nhà trường và gia đình, giữa
giáo viên chủ nhiệm lớp và học sinh của lớp (những học sinh ở gần nhà bạn);
qua quá trình thăm hỏi học sinh đặc biệt là các em học sinh chưa hoàn thành.
Tôi đã tìm ra những lí do mà học sinh thường mắc phải khi thực hiện các phép
tính về số thập phân.
Phương pháp thu thập thông tin:
Thu thập các thông tin liên quan đến từng học sinh lớp chủ nhiệm thông
qua chính học sinh, cha mẹ học sinh, giáo viên chủ nhiệm cũ, giáo viên bộ môn,
Tổng PTĐ…
Phương pháp thống kê, xử lý số liệu:
Dựa trên số liệu về kết quả điều tra thống kê, xử lý số liệu. Từ đó đưa ra
những giải pháp thích hợp nhằm phát huy cao nhất vai trò của giáo viên chủ
nhiệm lớp.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Ở Tiểu học, học sinh được cung cấp kiến thức cơ bản phổ thông trên rất
nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong đó môn Toán là một trong những môn học quan
trọng trong chương trình Giáo dục tiểu học. Hệ thống ngôn ngữ toán học, các

kiến thức và kĩ năng toán học rất cần thiết cho cuộc sống, là cơ sở cho việc tiếp
tục học lên các lớp trên và các môn học khác. Ở lớp 5, các em bước đầu được
làm quen với số thập phân, khái niệm và cách thực hiện các phép tính về số thập
phân. Chương trình gồm 31 tiết cộng, trừ, nhân, chia số thập phân. Đây có thể
coi là nội dung trọng tâm trong chương trình Toán 5.
Thông thường trình độ của các em phát triển không đồng đều, dù các em
học chung một lớp, một giáo viên giảng dạy, có em nắm bắt kiến thức và xử lý
nhanh nhưng cũng có nhiều em xử lý rất chậm làm cho giáo viên gặp nhiều khó
khăn trong khi giảng dạy.
Thực tế trong quá trình giảng dạy, giáo viên đã vận dụng linh hoạt các
phương pháp, hình thức dạy học, kỹ thuật dạy học khác nhau trong một tiết học
cũng như trong cả năm học và nhận thấy học sinh đã nắm được kiến thức cơ bản
và có các kỹ năng tính toán cần thiết. Tuy nhiên, các em chưa được thuần thục,
còn hay mắc sai lầm khi đặt tính, tính kết quả do một số nguyên nhân sau:
+ Về phía giáo viên: Vì chủ quan nghĩ rằng các em đã làm tốt các phép
tính với số tự nhiên nên khi hướng dẫn học sinh thực hiện các phép tính với số
thập phân thường để học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức dẫn đến một số sai sót
như: đặt tính chưa thẳng cột sẽ sai kết quả (cộng, trừ), khi thực hiện nhân quên
nhớ, quên viết thêm chữ số 0 khi nhân với thừa số có chữ số 0 ở giữa, nhầm lẫn
nhiều nhất là ở phép chia (quên dấu phẩy, quên thêm 0 vào bên phải phần thập
phân của số bị chia khi gạch dấu phẩy ở cả số bị chia lẫn số chia).
+ Về phía học sinh: Việc nhận thức về vị trí, vai trò ở môn học của các
em còn chưa sâu sắc, các em chưa chú trọng vào môn học. Tinh thần thái độ học
4


tập của các em còn chưa tự giác, chủ động. Kỹ năng thực hiện phép cộng, trừ,
nhân, chia các số tự nhiên còn hạn chế. Việc lĩnh hội nắm bắt kiến thức của các
em ở các nội dung trước còn chưa đầy đủ, chưa vững chắc, chẳng hạn như: kỹ
năng chia nhẩm, kỹ năng ước lượng thương trong phép chia còn chậm do chưa

thuộc nhuần nhuyễn bảng nhân, bảng chia và còn thiếu kinh nghiệm. . . Việc
thực hành luyện tập rèn luyện kỹ năng ở các em chưa thường xuyên.
+ Về phía phụ huynh học sinh: Mặt bằng dân trí của một bộ phận người
dân còn hạn chế nên chưa quan tâm nhắc nhở con cái học hành. Ngoài ra, một số
học sinh ở cách xa trường, gia đình có hoàn cảnh khó khăn, các em lớp 5 đã lớn
đến mùa vụ thường phải giúp bố mẹ làm việc nên ảnh hưởng không nhỏ đến
chất lượng học tập của các em nhất là chất lượng môn Toán.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Xuân Lẹ là một xã thuộc vùng sâu, vùng xa của huyện Thường Xuân, là
xã thuộc vùng 135; trung tâm xã cách trung tâm huyện hơn 25km. Đường sá đi
lại vô cùng khó khăn, phải qua lắm sông nhiều suối. Địa bàn xã rộng được chia
thành 8 thôn bản. Dân cư phân bố không đồng đều. Vào mùa mưa lũ có nhiều
thôn bản bị cô lập. Điều kiện kinh tế của nhân dân đang còn thấp, đời sống của
nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ đói nghèo còn cao so với mặt bằng
chung của huyện. Trường Tiểu học Xuân Lẹ được chia thành 4 điểm trường,
điểm trường chính được đóng trên địa bàn trung tâm xã. 3 điểm còn lại đóng
trên địa bàn của các thôn bản, có những điểm trường cách điểm trường chính
6km. Đường sá đi lại gặp rất nhiều khó khăn, lại lắm sông nhiều suối. Vào mùa
mưa lũ, nhiều điểm trường bị cô lập.
Trong những năm qua, nhiều giáo viên đã có những giải pháp nhằm giúp
học sinh có kĩ năng thực hiện 4 phép tính với số thập phân nhưng vẫn còn một
số học sinh chưa thành thạo trong khi làm bài. Với hình thức thầy giảng trò
nghe, trò học thuộc lý thuyết áp dụng vào làm bài tập và thời lượng lý thuyết
nhiều hơn thực hành dẫn đến nhiều học sinh học thuộc lòng quy tắc, công thức
mà việc áp dụng làm bài tập còn nhiều hạn chế.
Sau nhiều năm dạy học ở vùng cao; nhiều năm chủ nhiệm và giảng dạy
học sinh lớp 5, đặc biệt khi dạy các phép tính về số thập phân tôi nhận thấy:
Học sinh bị động trong tiếp thu kiến thức, tri thức các em tiếp nhận được
chóng quên. Nhiều học sinh chưa thực hiện đúng phép tính. Thường là những
em chậm, không tập trung, và ít khi làm bài tập đầy đủ. Một số học sinh thuộc lý

thuyết nhưng lúng túng khi áp dụng vào thực hành. Nhiều học sinh tính toán
chậm, tính sai và có dấu hiệu ngại tính. Nhiều em vận dụng vào thực hành máy
móc, không sáng tạo. Các em không say mê môn học. Nhiều giáo viên khi dạy
còn phụ thuộc vào sách giáo khoa, sách hướng dẫn để truyền thụ kiến thức cho
học sinh dẫn đến không khí lớp không sôi nổi, tiết học hiệu quả chưa cao.
Nguyên nhân của những tồn tại trên là do học sinh chưa có ý thức học tập,
chưa biết cách tự học; thiếu cẩn trọng trong đặt tính và thực hiện tính toán kết
quả; do không thuộc nhuần nhuyễn bảng cộng, trừ, nhân, chia ở các lớp dưới
(lớp 1 đến lớp 4). Một số giáo viên chưa quan tâm xác định rõ nội dung trọng
tâm của bài học, của môn học. Việc vận dụng các phương pháp dạy học cũng
5


như hình thức tổ chức dạy học chưa phù hợp, chưa khơi dậy được tính tích cực
học tập của học sinh.
Kết quả khảo sát (Kĩ năng đặt tính và thực hiện cộng, trừ, nhân, chia) số
thập phân của 2 năm học, trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:

Năm học

2017- 2018

2018- 2019

Lớp

5A
5A

Tổng

số
HS

Thời điểm

Kĩ năng đặt tính và thực hiện
cộng, trừ, nhân, chia số thập phân
Chưa
Hoàn
Hoàn
hoàn
thành tốt
thành
thành

Cuối HK I

5

14

6

Cuối HK II

9

15

1


Cuối HK I

8

15

3

Ghi
chú

25
26

Từ những thực trạng trên, qua vận dụng đạt hiệu quả đáng khích lệ tôi xin
trình bày: “Một số giải pháp rèn kĩ năng thực hiện các phép tính về số thập
phân cho học sinh lớp 5A trường Tiểu học Xuân Lẹ, huyện Thường Xuân”
mà tôi đã đưa vào thực nghiệm và đạt hiệu quả cao.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
2.3.1. Giải pháp1: Giáo dục học sinh lòng yêu thích, say mê toán học.
Mục tiêu:
Giúp học sinh yêu thích và thái độ học tập tích cực đối với môn Toán,
khơi dậy niềm đam mê, hứng thú trong học tập dần hình thành thói quen tự học
và có trách nhiệm hơn trong học tập.
Cách tiến hành:
Để thực hiện được việc này một cách có hiệu quả, trước hết giáo viên cần
tạo ra một không khí tự nhiên, thoải mái cho lớp học để các em cảm nhận được
“Mỗi ngày đến trường, đến lớp là một ngày vui”. Nội dung dạy học Toán đều có
những chương, những bài gần gũi với đời sống hằng ngày, phù hợp với từng đối

tượng tạo điều kiện để tất cả các em đều có thể tự tìm được cách giải quyết vấn
đề. Khi hướng dẫn học sinh tìm tòi kiến thức mới, giáo viên luôn tạo ra những
tình huống có vấn đề dẫn học sinh đến những thắc mắc để rồi bản thân các em
muốn tìm cách giải quyết. . .
Bên cạnh đó giáo viên dành thời gian tiết hoạt động tập thể cuối tuần kể
cho các em nghe một số câu chuyện về các danh nhân, người nổi tiếng trong lĩnh
vực toán học, kể các câu chuyện về các bạn nhỏ có hoàn cảnh khó khăn vẫn cố
gắng học tập, . . . nhằm bồi dưỡng cho học sinh sự cố gắng vươn lên trong học
tập từ đó sẽ có lòng say mê học toán.
Ngay trong tuần ôn tập nói về vai trò và tác dụng của toán học đối với
cuộc sống và con người: giúp con người rèn luyện cách suy nghĩ tư duy độc lập
cho mỗi công việc khác nhau rất có ích cho mỗi con người. Nhờ các công thức
toán học mà chúng ta có thể có được cuộc sống hiện đại với các tiện nghi máy
móc phục vụ cho mọi nhu cầu của con người. Trong Toán 5 có nhiều vấn đề liên
6


quan đến thực tế mà các em có thể giúp cha mẹ ngay từ bây giờ: giúp cha mẹ
tính toán diện tích ruộng nương, tính số lương thực thu được xem có cao hơn vụ
mùa trước hay không? vì sao cao hơn? . . . Hỗ trợ cha mẹ trong việc nâng cao
chất lượng cuộc sống.
Bên cạnh đó, giáo viên cũng giúp học sinh hiểu rằng toán học là một
trong những nhân tố rất quan trọng đối với mỗi người. Ngoài việc cung cấp cho
ta những khái niệm, kỹ năng, thói quen cần thiết cũng góp phần hoàn thiện nhân
cách con người, thì toán học có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển tư
duy của mỗi người (tư duy logic và ngôn ngữ chính xác, suy đoán và tưởng
tượng, tư duy thuật giải, tư duy hình tượng…) theo hướng tích cực và góp phần
giải quyết nhu cầu thực tế. Những kiến thức về số tự nhiên, phân số, số thập
phân và các kỹ năng tính toán cơ bản (cộng, trừ, nhân, chia) vốn hay được sử
dụng trong cuộc sống hàng ngày.

Từ sự yêu thích và thái độ học tập tích cực đối với môn Toán, khơi dậy
niềm đam mê, hứng thú trong học tập để học sinh dần hình thành thói quen tự
học và có trách nhiệm hơn trong học tập.
2.3.2. Giải pháp 2: Xây dựng nề nếp học toán.
Mục tiêu:
Xây dựng cho học sinh những thói quen, cách học hợp lý có trật tự để
mang lại hiệu quả cao trong học tập nhất là trong học Toán.
Cách tiến hành:
Ngay từ đầu năm học hướng cho học sinh bầu chọn Hội đồng tự quản lớp
gồm các bạn có ý thức tốt hỗ trợ giáo viên trong việc quản lớp cũng như các
hoạt động của lớp, sau đó lựa chọn các thành viên trong Ban học tập là những
học sinh có ý thức học tập tốt phụ trách việc theo dõi, kiểm tra các bạn trong 15
phút đầu giờ học buổi sáng cũng như buổi chiều.
Ở lớp: Với quy tắc “thầy giảng trò lắng nghe, theo dõi - thầy giao nhiệm
vụ trò thực hành”. Tuyệt đối không để tình trạng thầy giảng bài, chữa bài học
sinh làm việc riêng. Trong các tiết học bài mới, giáo viên dành thời gian mở
rộng kiến thức, đưa ra nhiều bài tập đồng dạng để rèn luyện kỹ năng vận dụng
kiến thức mới cho học sinh.
Đối với các quy tắc thực hiện các phép tính với số thập phân, giáo viên
cho học sinh nhắc lại nhiều lần và thuộc ngay trước khi chuyển sang phần luyện
tập- thực hành. Ban học tập sẽ có trách nhiệm nhắc nhở và kiểm tra các quy tắc
này trong thời gian tự học.
Trong thời gian học môn Toán ở buổi 2 giáo viên dành nhiều thời gian
giúp đỡ những học sinh gặp khó khăn và giao thêm một số bài tập có yêu cầu
cao hơn cho những em hoàn thành tốt bài trong vở bài tập.
Tổ chức thi đua trong tổ, nhóm, cá nhân, giáo viên chủ nhiệm theo dõi sát
sao mọi sự tiến bộ dù là nhỏ nhất của học sinh để có những lời động viên,
khuyến khích kịp thời để các em cố gắng vươn lên rèn luyện và học tập.
Ở nhà: Hướng dẫn học sinh đọc trước bài học mới trong sách giáo khoa
để biết bài học mới sẽ học gì và cần những kiến thức cũ nào có liên quan. Học

thuộc các quy tắc của bài cũ và các kiến thức cũ có liên quan. Rèn cho các em
7


thói quen trước khi tự học ở nhà học thuộc kiến thức bài cũ, xem lại bài thầy
giáo hướng dẫn, đọc kĩ yêu cầu của bài tập rồi mới làm bài.
2.3.3. Giải pháp 3: Rèn kĩ năng tính cho học sinh.
Mục tiêu:
Rèn kỹ năng tính cho học sinh trong suốt quá trình học tập nhằm giúp học
sinh tính nhanh, tính đúng các phép tính, vận dụng vào giải toán có lời văn, tính
giá trị biểu thức, giải toán hình, …
Cách tiến hành:
Khi tổ chức dạy học các bài phần lý thuyết giáo viên lựa chọn phương
pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp với nội dung từng bài học, phù hợp với
từng đối tượng học sinh. Nội dung dạy học đảm bảo tính hệ thống theo mức độ
tăng dần (từ dễ đến khó). Sau mỗi bài học, giáo viên khắc sâu kiến thức trọng
tâm của bài, lựa chọn xem cần củng cố khắc sâu phần nào để tránh sai lầm
không đáng có khi các em vận dụng thực hành.
Thường xuyên kiểm tra nhận xét việc nắm kiến thức và rèn kỹ năng của
học sinh để có sự điều chỉnh, giúp đỡ phù hợp.
Thường xuyên quan tâm đến từng đối tượng học sinh, đồng thời phải
động viên, khuyến khích học sinh kịp thời khi thấy học sinh có sự tiến bộ. Tạo
điều kiện để học sinh được thực hành luyện tập thường xuyên.
2.3.4. Giải pháp 4: Sử dụng phấn màu trong dạy kiến thức mới về các phép
tính với số thập phân.
Mục tiêu:
Giúp các em phân biệt rõ phần nguyên và phần thập phân. Từ đó giúp các
em đặt tính và tính kết quả tốt hơn (nhất là phép cộng và phép tính trừ về số thập
phân). Ngoài ra phấn hai màu còn giúp các em thích thú khi học tập, các em sẽ
tập trung hơn, tiết học từ đó hiệu quả hơn.

Cách tiến hành:
Giáo viên sử dụng phấn hai màu trong các ví dụ (phần kiến thức mới) của
các bài phép cộng và phép trừ số thập phân.
Sau khi đọc ví dụ, phân tích ví dụ, hướng dẫn học sinh rút ra phép tính,
đổi đơn vị đo và tính kết quả (ở ví dụ 1), giáo viên yêu cầu học sinh quan sát
bảng và nhấn mạnh: ta đặt tính rồi thực hiện tính như sau (dùng phấn hai màu để
viết và thực hiện kết quả tính).
Ví dụ 1: Bài cộng hai số thập phân
Ví dụ 2: Bài trừ hai số thập phân
1,84
45,8
+

2,45
4,29

-

19,26
26,54

Lưu ý: Trong quá trình thực hiện các phép tính thường xuyên cho học
sinh (đặc biệt là những em còn chậm) nêu lại phần nguyên, phần thập phân, nêu
quy tắc thực hiện của phép tính.
2.3.5. Giải pháp 5: Triển khai một số phong trào.
a. Phong trào: “Thầy giúp trò vượt khó”.
Mục tiêu:
8



Thăm hỏi động viên, giúp đỡ những học sinh thường xuyên vắng học vô
lý do, học sinh có hoàn cảnh khó khăn, học sinh chưa hoàn thành (đặc biệt
những học sinh cộng, trừ, nhân, chia số thập phân chưa thành thạo); giáo viên
trực tiếp nhận và giúp đỡ những học sinh chưa hoàn thành theo chuẩn kiến thức
và kĩ năng của môn học, hoạt động giáo dục hoặc chưa hoàn thành các năng lực,
các phẩm chất.
Cách tiến hành:
Giáo viên chủ nhiệm lên kế hoạch, làm công tác tham mưu cho Ban giám
hiệu nhà trường. Từ kết quả khảo sát học sinh của từng lớp mà nhà trường phân
bổ giáo viên nhận và giúp đỡ những học sinh cụ thể. Giúp đỡ bằng vật chất, giúp
đỡ bằng cách trực tiếp kèm các em học tập để tiến bộ. Nhà trường phân công
thêm giáo viên bộ môn làm công tác đồng chủ nhiệm…
Ngoài ra với những trường hợp học sinh quá khó khăn giáo viên chủ
nhiệm còn vận động thêm các nhà hảo tâm ủng hộ trực tiếp đến các em bằng
tiền hoặc hiện vật.
Giáo viên chủ nhiệm nêu gương trong công tác giúp đỡ bằng cách: tự
chọn 2 học sinh chậm nhất để giúp trong thời gian khoảng 2 tháng lại đổi 2 học
sinh khác nếu 2 học sinh đó tiến bộ hơn một số học sinh khác trong lớp.
Thời gian để quan tâm học sinh chưa đạt chuẩn hiệu quả mà lại không ảnh
hưởng đến các học sinh khác, đó là: giáo viên đến tận nhà học sinh 2 tuần một
buổi; phù đạo riêng buổi chiều (tuần 1 buổi); phù đạo trong 15 phút đầu giờ; lúc
ra chơi.

(Một số hoạt động thầy giúp trò vượt khó)
b. Phong trào: “Đôi bạn cùng tiến”.
Mục tiêu:
9


Giúp học sinh có trách nhiệm hơn trong việc tự vận động nhau, giúp đỡ

nhau đến lớp, đến trường cũng như giúp đỡ nhau trong học tập. Mục tiêu của lớp
là kết thúc học kì I, kết thúc năm học tất cả học sinh trong lớp phải đọc tốt; viết
tốt và thực hiện thành thạo các phép tính cơ bản của chương trình lớp học… tiến
tới cuối năm học 100% học sinh hoàn thành chương trình lớp học theo quy định.
Cách tiến hành:
Về phía giáo viên chủ nhiệm:
Giáo viên chủ nhiệm chọn ra một số học sinh trong lớp có năng lực tốt (có
khả năng tiếp thu, hoàn thành nhanh kiến thức mới). Tổ chức cho học sinh trao
đổi, tự chọn cho mình một người bạn “cùng tiến” phù hợp nhất. Giáo viên chủ
nhiệm định hướng cho học sinh chọn bạn cho phù hợp (ở gần nhau, có thể hỗ trợ
nhau về đi lại càng tốt).
Hằng ngày, giáo viên chủ nhiệm giám sát, kiểm tra (không báo cụ thể đôi
nào) nếu có vi phạm sẽ phê bình.
Phân công Ban hội đồng tự quản theo dõi hoạt động của các đôi bạn.
Cuối tuần tuyên dương những đôi bạn cùng tiến đạt hiệu quả nhất. Cuối
mỗi học kì phát phần thưởng cho những “Đôi bạn cùng tiến” đạt hiệu quả nhất.
Về phía học sinh:
Hằng ngày, ở lớp cũng như ở nhà, hai bạn đổi vở bài tập toán: kiểm tra
việc làm bài tập trên lớp cũng như ở nhà, sau đó chỉ rõ những lỗi cho bạn biết.
Bạn hoàn thành trước kiến thức, kĩ năng của môn học sẽ hướng dẫn bạn chưa
hoàn thành kiến thức, kĩ năng của môn học; hướng dẫn nhau làm bài tập ở nhà,
ở trường; cùng nhau nghiên cứu bài mới.

(Giúp bạn ôn bài trong giờ ra chơi)

(Hướng dẫn bạn học bài ở nhà)

c. Phong trào: “Học nhóm”.
Mục tiêu:
Nâng cao trách nhiệm vận động nhau đến lớp trong phạm vi lớn hơn và ý

thức giúp đỡ nhau trong học tập.
Cách tiến hành:
Về phía giáo viên chủ nhiệm:
10


Phân nhóm, có thể cho học sinh tự chọn nhưng phải đảm bảo mỗi nhóm
gồm khoảng 2 đến 3 đôi bạn cùng tiến kết hợp thành; có một bạn trong Hội
đồng tự quản lớp (bầu làm nhóm trưởng).
Giáo viên chủ nhiệm lớp kết hợp với Ban hội đồng tự quản lớp giám sát
và kiểm tra việc thực hiện của các nhóm. Nếu một thành viên trong nhóm vi
phạm thì sẽ phê bình cả nhóm.
Giáo viên chủ nhiệm kết hợp với trưởng ban đại diện cha mẹ học sinh của
lớp, kiểm tra việc học của ít nhất 1 nhóm trong 1 tuần.
Cuối mỗi tuần, tuyên dương nhóm có hiệu quả nhất. Cuối mỗi tháng,
tuyên dương khoảng 2 nhóm có hiệu quả nhất.
Về phía học sinh:
Hằng ngày, ở lớp cũng như ở nhà, các bạn trong nhóm động viên giúp đỡ
nhau cùng học, cùng hoàn thiện nội dung chương trình học. Hướng dẫn những
bạn chưa hoàn thành kiến thức môn học sau mỗi tiết học.
Ở nhà, cùng nhau xem lại bài cũ, nghiên cứu trước bài mới, vận động giúp
đỡ nhau đi học, đưa đón bạn cùng đi học…

Tới thăm động viên bạn bị ốm

Cùng bạn học bài trong giờ ra chơi

2.3.6. Giải pháp 6: Tổ chức tốt câu lạc bộ “Em yêu Toán- Tiếng Việt” cho
học sinh.
Mục tiêu:

Tạo sân chơi bổ ích và lành mạnh cho các em, tạo điều kiện cho các em
phát triển năng khiếu…Tạo cơ hội cho các em được thực hành, vận dụng kiến
thức kỹ năng vào thực tiễn, được tham gia các hoạt động phù hợp với năng
khiếu, niềm đam mê và sở trường của các em sẽ phát huy hiệu quả hơn. Các em
trong câu lạc bộ là nguồn nhân lực chính giúp đỡ các bạn chưa hoàn thành hiệu
quả nhất.
Cách tiến hành:
Căn cứ vào công văn của cấp trên, căn cứ vào kế hoạch năm học nhà
trường thông báo và tìm hiểu về nhu cầu tham gia các câu lạc bộ của học sinh và
của cha mẹ học sinh (cho học sinh viết đơn đăng ký có xác nhận của phụ huynh
học sinh).
11


Từ nhu cầu thực tế của học sinh, nhà trường sẽ quyết định thành lập
những câu lạc bộ và sắp xếp giáo viên tham gia vào Ban chủ nhiệm, trực tiếp tổ
chức sinh hoạt câu lạc bộ cho học sinh.
Hiệu trưởng ra Quyết định thành lập Câu lạc bộ học sinh. Phân công giáo
viên phụ trách câu lạc bộ.
Sau đó giáo viên lên kế hoạch, nội dung, thời gian và hình thức tổ chức
phù hợp trình lên BGH phê duyệt, tiến hành hoạt động các Câu lạc bộ theo Công
văn chỉ đạo của Phòng GD&ĐT và theo kế hoạch đã đề ra.
Tổ chức cho học sinh giao lưu cấp trường 2 lần/ 1 học kỳ; tham gia cấp
huyện 2 lần/ năm học. Sau mỗi lần tổ chức có nhận xét, đánh giá, tuyên dương
và trao thưởng cho học sinh đạt thành tích cao.
2.4. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng
nghiệp và nhà trường:
2.4.1. Đối với hoạt động giáo dục:
Sau khi nghiên cứu và áp dụng sáng kiến vào thực nghiệm tôi nhận thấy
chất lượng môn Toán của học sinh lớp 5A được nâng lên rõ rệt: 100% học sinh

tính toán thành thạo các phép tính với số thập phân, trong đó có trên 57,7% học
sinh tính toán nhanh nhẹn và vận dụng hiệu quả các phép tính vào giải toán có
lời văn.
Tạo điều kiện cho phụ huynh, lực lượng chính quyền địa phương tham gia
vào chiến lược giáo dục của nhà trường, từ đó tạo được sự ủng hộ, đồng thuận
cao đối với mô hình giáo dục, lộ trình phát triển giáo dục của nhà trường.
Phần lớn phụ huynh đã chủ động trong việc đưa, đón con em tới trường
đặc biệt là trong mùa mưa lũ; phụ huynh đã mua sắm đầy đủ sách vở đồ dùng
học tập cho con em ngay từ những tuần đầu tiên của năm học. Nhiều phụ huynh
thường xuyên liên lạc, trao đổi tình hình học tập của con em, trao đổi bài học
của con em mình, gặp gỡ giáo viên chủ nhiệm tìm cách hướng dẫn học sinh học
bài tại nhà. Nhiều phụ huynh đã chủ động hướng dẫn con em học tốt phần cộng,
trừ, nhân, chia số thập phân.
2.4.2. Đối với bản thân:
Sau khi nghiên cứu và áp dụng sáng kiến bản thân tôi nhận được những
thành quả sau:
Nâng cao khả năng quan sát, phán đoán; khả năng dự báo trước những
khó khăn trong công tác chủ nhiệm, giảng dạy (đặc biệt trong công tác giảng dạy
về các phép tính với số thập phân). Từ đó có những giải pháp kịp thời nhằm
khắc phục tình trạng học sinh đặt tính sai, tính toán chậm và những tình trạng
không mong muốn có thể xảy ra.
Trong quá trình thường xuyên thăm hỏi, giúp đỡ học sinh; gặp gỡ, trao
đổi với phụ huynh giúp giáo viên có thêm những hiểu biết, những mong muốn,
cũng như những tập quán của nhân dân trên địa bàn xã. Từ đó giúp giáo viên dễ
tiếp cận, dễ trao đổi với phụ huynh về việc học tập của con em mình.
Học sinh tích cực tới trường, tới lớp; tích cực tham gia vào các hoạt động
của nhà trường cũng như của lớp tổ chức. Nhiều em chăm chú và hăng say phát
biểu xây dựng bài. Nhiều em xung phong nhận và giúp đỡ bạn cùng tiến bộ..
12



Năm học 2018- 2019, trong kỳ thi giao lưu CLB “Em yêu Toán Tiếng Việt” cấp
huyện lớp 5A do tôi chủ nhiệm có 6 học sinh đạt 7 giải trong đó có 2 giải Ba và
5 giải Khuyến khích.
2.4.3. Đối với đồng nghiệp:
Giáo viên tích cực làm công tác tuyên truyền, làm cầu nối trong công tác
xã hội hóa giáo dục. Chủ động gặp phụ huynh, chủ động giải quyết những
vướng mắc của phụ huynh khi phụ huynh chưa rõ. Phối kết hợp với phụ huynh
giúp đỡ học sinh học tập ở nhà có hiệu quả. Nhiều giáo viên đã hướng dẫn phụ
huynh cách kèm con học ở nhà đạt hiệu quả.
Mọi giáo viên trong trường hằng năm đều nhận và giúp đỡ những học
sinh chưa đạt chuẩn kiến thức- kĩ năng. Hầu hết trong số học sinh được giúp đỡ
cuối năm học đều đọc thông viết thạo, đều tính toán thành thạo các phép tính cơ
bản của chương trình lớp học. Nhiều học sinh từ chưa hoàn thành lên hoàn
thành, từ hoàn thành lên hoàn thành tốt.
2.4.4. Đối với nhà trường:
Qua hai năm học áp dụng sáng kiến kinh nghiệm cho thấy chất lượng học
sinh lớp 5A được nâng lên rõ rệt. Từ đó ảnh hưởng tích cực đến chất lượng của
khối 5 nói riêng và chất lượng toàn trường nói chung. Nhất là kĩ năng đặt tính và
thực hiện tính cộng, trừ, nhân, chia số thập phân của học sinh khối 5, kết quả đó
được kiểm chứng cụ thể qua 2 năm học trong bảng sau:
Kĩ năng đặt tính và thực hiện
cộng, trừ, nhân, chia số thập phân
Chưa
Hoàn
Hoàn
hoàn
thành tốt
thành
thành


Năm học

Lớp

TSHS

Thời điểm

2018- 2019

5A

26

Cuối HK II

13

13

0

2019-2020

5A

26

Cuối HK I


15

11

0

Ghi
chú

Hoạt động giáo dục trong nhà trường ngày càng trở nên đa dạng và sôi nổi
hơn. Các em được chủ động lựa chọn và tham gia các hoạt động, các em có cơ
hội, có thời gian thể hiện mình… Tóm lại các em luôn cảm thấy thoải mái mỗi
khi đến trường, đến lớp; đúng với câu khẩu hiệu mà nhà trường luôn luôn hướng
tới: “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”.
Chất lượng cuối mỗi năm học được nâng lên rõ rệt. Số lượng học sinh
được khen thưởng mỗi năm học đều chiếm khoảng 70%. Học sinh hoàn thành
chương trình lớp học đạt 100%. 100% học sinh đều được công nhận hoàn thành
chương trình Tiểu học. Nhiều học sinh đạt giải trong các kỳ thi cấp trường, cấp
cụm và cấp huyện.
2.4.5. Những bài học kinh nghiệm:
Qua quá trình công tác, qua nghiên cứu và áp dụng rất thành công sáng
kiến kinh nghiệm; bản thân tôi rút ra một số bài học quý báu sau:
Phải thật sự yêu nghề, yêu trẻ; gần gủi, yêu thương trẻ; hiểu biết tâm tư,
nguyện vọng của trẻ, động viên, an ủi và giúp đỡ kịp thời, xem trẻ như người
thân trong gia đình.
13


Phải nhạy bén trong mọi tình huống và xử lí tình huống đúng lúc, đúng

chỗ và kịp thời.
Không được chủ quan lơ là vì các em có thể hiểu bài, thực hiện được yêu
cầu của bài hôm nay nhưng có thể ngày mai các em sẽ quên. Vì thế phải bám sát
vào mục tiêu, nội dung chương trình môn Toán, theo dõi sát sao các em để kịp
thời củng cố kiến thức, đôn đốc nhắc nhắc nhở các em.
Phải kiên trì, nhẫn nại, chịu khó trước bất kỳ khó khăn thách thức nào.
Thường xuyên liên lạc, trao đổi với phụ huynh học sinh để nắm bắt kịp
thời về học sinh, qua đó có được sự hỗ trợ đắc lực nhất từ phía gia đình học sinh
để giúp giáo viên làm tốt công tác chủ nhiệm lớp. Từ đó công tác chủ nhiệm,
công tác giảng dạy đạt hiệu quả cao.
Phải phối kết hợp chặt chẽ với giáo viên bộ môn, giáo viên đồng chủ
nhiệm, Ban giám hiệu nhà trường, với Tổng phụ trách Đội, với các ban ngành
đoàn xã, tận dụng sự ủng hộ của lãnh đạo xã để làm tốt công tác phối kết hợp
giữa các bên để giáo dục học sinh.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận:
Trong bức thư gửi các học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Bác Hồ đã căn dặn thế hệ con cháu chúng ta:
“Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước
tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không,
chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em…”. Như vậy nhiệm vụ
giáo dục thế hệ trẻ là nhiệm vụ vô cùng cấp thiết, là nhiệm vụ của toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân ta.
Để góp phần thực hiện di chúc của Người thì thầy cô giáo nói chung, thầy
cô giáo ở Tiểu học nói riêng; đặc biệt là thầy cô đang công tác ở miền núi, ở
vùng sâu, vùng xa ở những vùng kinh tế khó khăn phải luôn luôn cố gắng vươn
lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Trong những nhiệm vụ giáo dục Tiểu học, nhiệm vụ nào cũng quan trọng,
nhiệm vụ nào cũng cấp bách. Nhiệm vụ chỉ đạo quản lý, tổ chức dạy học theo
chuẩn kiến thức, kỹ năng môn học là rất cần thiết. Đặc biệt là chuẩn kiến thức

môn Toán Tiểu học ở vùng cao, vùng kinh tế khó khăn. Để khắc phục có hiệu
quả tình trạng học sinh lớp 5 cộng, trừ, nhân, chia số thập phân còn chậm ngoài
sự cố gắng của học trò, sự nỗ lực của bản thân giáo viên chủ nhiệm thì cần có sự
chung tay góp sức của nhà trường, quan tâm giáo dục của gia đình, của các cấp
ban ngành trong toàn xã “giáo dục là trách nhiệm của toàn xã hội”.
Tạo sân chơi bổ ích và lành mạnh cho các em, tạo điều kiện cho các em
phát triển năng khiếu, nuôi dưỡng niềm đam mê học tập, nghiên cứu khoa học,
thực hiện các quyền trẻ em…Tạo cơ hội cho các em được thực hành, vận dụng
kiến thức kĩ năng vào thực tiễn, được giúp đỡ bạn bè cùng tiến bộ, được tham
gia các hoạt động ngoài giờ lên lớp, các hoạt động cộng đồng phù hợp. Được
hoạt động trong môi trường sở trường của mình các em sẽ thích đến trường và
ham học tập hơn từ đó kết quả học tập của các em sẽ ngày càng tiến bộ hơn.
Với những ưu điểm và thực tế kết quả mà bản thân đã thực nghiệm, tôi
14


nhận thấy việc vận dụng: “Một số giải pháp rèn kĩ năng thực hiện các phép
tính về số thập phân cho học sinh lớp 5A trường Tiểu học Xuân Lẹ, huyện
Thường Xuân” là rất cần thiết, phù hợp với đối tượng học sinh lớp 5A trường
Tiểu học Xuân Lẹ nói riêng và học sinh khối 5 miền núi nói chung đã mang lại
nhiều thành quả tốt đẹp.
Tôi rất mong Hội đồng khoa học, quý thầy cô và các bạn đồng nghiệp
đóng góp ý kiến để sáng kiến kinh nghiệm của tôi được hoàn thiện hơn.
3.2. Kiến nghị:
Đề nghị Hội đồng khoa học Nhà trường, Hội đồng khoa học huyện:
những sáng kiến kinh nghiệm được xếp loại cao cần đưa vào ứng dụng trong
thực tế. Những sáng kiến kinh nghiệm được đánh giá cao liên quan đến công tác
chuyên môn các nhà trường cần hội thảo phân tích phổ biến rộng rãi để giáo
viên trong tổ khối cùng áp dụng.
Đề nghị Phòng GD&ĐT qua các kỳ thi, giao lưu giáo viên giỏi cần giao

lưu trao đổi công tác sáng kiến kinh nghiệm, đưa một số sáng kiến kinh nghiệm
được Hội đồng khoa học đánh giá, xếp loại cao ra thảo luận, đóng góp ý kiến
xây dựng và triển khai ứng dụng.
XÁC NHẬN
Thường Xuân, ngày 20 tháng 03 năm 2020
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
NGƯỜI THỰC HIỆN

HOÀNG VIẾT HƯNG

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm- NXB Đại học Sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh;
2. Giáo trình Sự hình thành và phát triển nhân cách học sinh- Thạc sĩ Đặng Thị
Chúc (chủ biên);
3. Giáo trình Tâm lý học đại cương- Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên);
4. Giáo trình Phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học- Vũ Quốc Chung (chủ
biên);
5. Báo cáo sơ kết học kỳ, Báo cáo tổng kết các năm học của nhà trường;
6. Tạp chí Giáo dục Tiểu học;
7. Qua mạng internet.

16


DANH MỤC

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: HOÀNG VIẾT HƯNG
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường Tiểu học Xuân Lẹ, Thường Xuân

TT

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh giá
xếp loại

Kết quả
đánh giá
xếp loại

(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh; Tỉnh...)

(A, B, hoặc C)

Năm học
đánh giá
xếp loại

1.

Bồi dưỡng cán bộ lớp để xây
dựng lớp Tiên tiến


Cấp huyện

C

2008- 2009

2.

Khắc phục lỗi chính tả cho
học sinh Tiểu học thông qua
luyện viết

Cấp huyện

B

2010- 2011

3.

Hướng dẫn học sinh lớp 5
giải toán bằng sơ đồ tư duy

Cấp huyện

A

Cấp tỉnh


C

Cấp huyện

A

4.

Một số giải pháp khắc phục
tình trạng học sinh miền núi
vắng học vô lý do.

Cấp tỉnh

C

2012- 2013

2015- 2016

----------------------------------------------------

17



×