Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Một số kinh nghiệm tích hợp kiến thức lịch sử vào giảng dạy các tác phẩm văn học trung đại trong chương trình ngữ văn 8 ở trường THCS đông hải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.93 MB, 19 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Chủ trương đổi mới đồng bộ phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá
ở các trường phổ thông theo định hướng phát triển năng lực của học sinh trên
tinh thần Nghị quyết 29 - NQ/TƯ về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo đang đặt ra thách thức lớn đối với đội ngũ giáo viên. Trong đó dạy học theo
hướng tích hợp liên môn đáp ứng yêu cầu của mục tiêu dạy học phát triển năng
lực học sinh và yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức vào giải quyết những vấn
đề thực tiễn đang được Bộ GD - ĐT đánh giá cao. Có thể khẳng định, tích hợp
liên môn trong dạy học nói chung và dạy học Ngữ văn là tất yếu và rất cần thiết.
Trong chương trình Ngữ văn THCS, bộ phận văn học trung đại chiếm
dung lượng tương đối lớn và trải dài cả bốn khối lớp. Tuy nhiên do cách biệt về
thời đại, tư tưởng, giá trị thẩm mỹ hoàn toàn khác thời đương đại ngoài ra một
phần do các em không hiểu hoặc hiểu chưa sâu mục đích của văn chương thời
bấy giờ: Văn dĩ tải đạo, thơ dĩ ngôn chí nên việc tiếp nhận văn học trung đại với
học sinh THCS tương đối khó khăn đặc biệt là đối với các tác phẩm văn học
chính luận mà học sinh học trong chương trình Ngữ văn 8. Bên cạnh đó, đặc
trưng văn - sử - triết bất phân trong văn học trung đại càng khiến việc tiếp nhận
của các em trở nên mơ hồ. Chính vì vậy việc tích hợp môn Lịch sử trong dạy
học các tác phẩm văn học trung đại là cần thiết vì sẽ giúp học sinh hiểu thêm về
thời đại, hoàn cảnh ra đời cũng như có thêm hiểu biết sâu rộng về kiến thức lịch
sử thông qua các tác phẩm của môn Ngữ văn.
Trên thực tế, việc giảng dạy các tác phẩm văn học trung đại Việt Nam ở
trường THCS lại gặp không ít khó khăn, phần lớn giáo viên rất ngại giảng dạy
giai đoạn văn học này bởi đa số giáo viên ngữ văn hiện nay thuộc thế hệ 7X, 8X,
9X, vốn kiến thức, hiểu biết về văn hóa, văn học thời trung đại có phần hạn chế.
Do đó, dẫn đến tình trạng không ít giáo viên đã hiện đại hóa tác phẩm, giảng dạy
văn học trung đại cũng như giảng dạy văn học hiện đại, lí giải tác phẩm một
cách chung chung rồi qui vào các giá trị yêu nước, nhân đạo mà không giúp học
sinh thấy được cái hay, cái đẹp của tác phẩm, không hiểu được cái độc đáo của
nhà văn. Một số giáo viên lại nặng về giảng giải nội dung, phân tích các sự kiện


lịch sử, giảng dạy văn học trung đại như các hiện tượng lịch sử, nên không khai
thác hết các giá trị thẩm mỹ của văn chương cổ. Là một giáo viên dạy văn, tôi
luôn mong muốn học sinh mình có khả năng cảm thụ, say mê các tác phẩm văn
học trung đại nói riêng, với bộ môn văn học nói chung để có thái độ trân trọng
đối với di sản văn hóa dân tộc. Chính vì vậy tôi quyết định chọn đề tài sáng kiến
kinh nghiệm: Kinh nghiệm tích hợp kiến thức lịch sử vào giảng dạy các tác

1


phẩm văn học trung đại trong chương trình Ngữ văn 8 ở Trường THCS
Đông Hải, thành phố Thanh Hóa.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài này, bản thân tôi mong muốn:
- Giải quyết những khó khăn trong việc dạy học văn học trung đại Việt Nam.
- Đề xuất những biện pháp nhằm tích hợp kiến thức lịch sử vào giảng dạy tác
phẩm văn học trung đại lớp 8
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Các tác phẩm văn học thời trung đại lớp 8 – học kỳ II.
+ Tiết 89: Chiếu dời đô – Lí Công Uẩn.
+ Tiết: 91, 92: Hịch tướng sĩ – Trần Quốc Tuấn.
+ Tiết 95: Nước Đại Việt ta – Nguyễn Trãi.
+ Tiết 97: Bàn luận về phép học – Nguyễn Thiếp.
- Kiến thức lịch sử thời: Lí, Trần, Lê, Tây Sơn.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để tiến hành làm đề tài này, tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu bổ trợ.
- Phương pháp quan sát và so sánh, đối chiếu.
- Thao giảng, trao đổi ý kiến với các đồng nghiệp trong quá trình dạy.

- Đánh giá kết quả ban đầu và điều chỉnh bổ sung.
- Kiểm tra đánh giá cuối cùng và hoàn chỉnh công việc.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Dạy học theo phương pháp tích hợp, liên môn thực chất là dạy một vấn
đề mà học sinh kết hợp biết được và hiểu được nhiều vấn đề khác. Tích hợp, liên
môn còn giúp học sinh có thể vận dụng tốt trong việc tạo lập văn bản, một yêu
cầu cơ bản của việc dạy - học văn. Trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy, để
vận dụng tốt phương pháp dạy học tích hợp thì cần phải sử dụng kiến thức liên
môn một cách hợp lý. Dạy học các tác phẩm văn học đặc biệt là văn học trung
đại tích hợp với kiến thức lịch sử sẽ giúp học sinh có kiến thức sâu rộng về văn
học và lịch sử bởi lẽ văn học và lịch sử đều thuộc bộ môn khoa học xã hội và có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Văn học và lịch sử có mối quan hệ hai chiều với nhau. Mỗi tác phẩm văn
học – đứa con đẻ tinh thần của nhà văn đều được thai nghén, ra đời trong một
2


hoàn cảnh lịch sử, xã hội nhất định. Nếu không đặt trong môi trường sinh thành
thì không thể có cơ sở để khẳng định hay ngợi ca về những giá trị hiện thực,
nhân đạo mà nó thể hiện. Văn học là lăng kính chiếu lịch sử và lịch sử là đối
tượng, là bối cảnh sản sinh ra văn học. Nhà thơ, nhà văn là ”người thư kí trung
thành của thời đại” (Banzac). Bên cạnh đó văn học và lịch sử có điểm đồng quy
với nhau đó là giá trị giáo dục con người. Cả hai môn học đều hướng đến giáo
dục đạo đức, tinh thần yêu đất nước, lòng tự hào dân tộc và ý thức bảo vệ tổ
quốc. Có điều mỗi môn học lại có con đường riêng để đi đến nhận thức và trái
tim người đọc. Nếu như lịch sử phản ánh đời sống, quá trình hình thành, tồn tại
và phát triển của đất nước, dân tộc bằng những cứ liệu lịch sử, những chuyện
xưa, tích cũ trong quá khứ thì văn học lại phản ánh những điều đó thông qua
những hình tượng nghệ thuật độc đáo và dấy lên trong lòng người đọc những

cảm xúc thẩm mỹ cao đẹp.
Trong toàn bộ chương trình Ngữ văn THCS, văn học trung đại có một vị
trí rất quan trọng trong quá trình phát triển của văn học Việt Nam. Gần một ngàn
năm Bắc thuộc, dù chịu nhiều ảnh hưởng về chữ viết,văn học, triết lý, phong tục
tập quán của phương Bắc, nhưng dân tộc Việt nam, với ý thức quốc gia và tinh
thần tự chủ cao độ đã không mệt mỏi đấu tranh để giữ gìn bản sắc dân tộc và
truyền thống cha ông. Các tác phẩm nghị luận trung đại được đưa vào giảng dạy
trong Ngữ văn 8 phần nào đã phản ánh được điều đó. Tuy nhiên, việc giảng dạy
các văn bản này sao cho học sinh dễ hiểu và có thể cảm nhận được lại rất khó
khăn đối với giáo viên. Và, làm sao để việc học tập của các em được vận dụng
thiết thực vào đời sống của chính các em cũng không dễ dàng.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Trên thực tế, việc giảng dạy các tác phẩm văn học trung đại Việt Nam ở
trường THCS gặp không ít khó khăn, phần lớn giáo viên rất ngại giảng dạy giai
đoạn văn học này. Không ít giáo viên đã hiện đại hóa tác phẩm, giảng dạy văn
học trung đại cũng như giảng dạy văn học hiện đại, lí giải tác phẩm một cách
chung chung rồi qui vào các giá trị yêu nước, nhân đạo mà không giúp học sinh
thấy được cái hay, cái đẹp của tác phẩm, không hiểu được cái độc đáo của nhà
văn. Một số giáo viên lại nặng về giảng giải nội dung, phân tích các sự kiện lịch
sử, giảng dạy văn học trung đại như các hiện tượng lịch sử, nên không khai thác
hết các giá trị thẩm mỹ của văn chương cổ.
Về phía học sinh, có một hiện tượng phổ biến là học sinh không có hứng
thú khi học văn học trung đại Việt Nam. Cái hay mỗi thời mỗi khác, có những
cái mà quan niệm xưa cho là hay là đẹp thì nay đã trở nên xa lạ, nếu không có
vốn tri thức nhất định về văn hóa, lịch sử, văn học thì không thể hiểu được. Bên

3


cạnh đó hiện nay một số học sinh không quan tâm và yêu thích tìm hiểu, khám

phá các kiến thức lịch sử dân tộc dẫn đến khi viết về các tác phẩm văn học trung
đại có những câu văn suy diễn, xa rời thực tế như:
+ Sau khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Trãi lên ngôi vua và tuyên bố cho
toàn dân biết trong Bình Ngô đại cáo.
+ Bình Ngô đại cáo là một bài thơ trữ tình bất hủ của Nguyễn Trãi.
+ Trần Quốc Tuấn là người hết lòng trung quân lại rất giỏi binh thư nên
đã nhường ngôi cho vua Trần rồi tự cầm quân đi đánh giặc ( khi viết về “Hịch
tướng sĩ”).
+ Vì giận quân thù nên Trần Quốc Tuấn đêm nào cũng nằm trên đống củi
gai và nhấm nháp một miếng mật gấu (khi viết về “Hịch tướng sĩ”).
+ Vì thấy nhà Đinh và nhà Lê quá bảo thủ nên Lý Thường Kiệt đã hạ
lệnh dời đô từ Hoa Lư về Đại La (khi viết về “Chiếu dời đô”).
+ La Sơn Phu Tử là người Trung Quốc sang Việt Nam dâng sớ bàn về
việc học của sĩ tử thời vua Nguyễn Huệ (khi viết về “Luận học pháp”) ...
Là một giáo viên dạy văn, tôi luôn mong muốn học sinh mình có khả
năng cảm thụ, say mê các tác phẩm văn học trung đại nói riêng, với bộ môn văn
học nói chung để có thái độ trân trọng đối với lịch sử và di sản văn hóa dân tộc.
Từ những lí do trên đây, tôi mạnh dạn nghiên cứu để tìm ra cách hướng dẫn học
sinh tiếp nhận tác phẩm văn học trung đại tích hợp với kiến thức lịch sử qua đề
tài khoa học: Kinh nghiệm tích hợp kiến thức lịch sử vào giảng dạy các tác
phẩm văn học trung đại trong chương trình Ngữ văn 8 ở Trường THCS
Đông Hải, thành phố Thanh Hóa.
2.3. Các biện pháp đã sử dụng để tích hợp kiến thức lịch sử vào giảng dạy
tác phẩm văn học trung đại lớp 8
2.3.1. Xây dựng hệ thống câu hỏi tích hợp kiến thức lịch sử vào phần hướng
dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà.
Chuẩn bị bài ở nhà là một khâu quan trọng trong tiến trình bài dạy các
tác phẩm văn học nói chung và tác phẩm văn học trung đại nói riêng. Sở dĩ nó
quan trọng là bởi nếu không chuẩn bị bài ở nhà dưới sự hướng dẫn của giáo viên
thì sẽ làm cản trở việc học sinh cảm thụ tác phẩm ở trên lớp.

Với việc học các tác phẩm văn học trung đại việc chuẩn bị bài ở nhà của
học sinh có thể có nhiều cách như: tìm hiểu điển cố, từ ngữ khó, suy nghĩ về một
chi tiết nghệ thuật, một kiến thức cụ thể có liên quan đến tìm hiểu văn bản... Hầu
hết những phần học sinh chuẩn bị ở nhà thường tập trung xoay quanh kiến thức
văn học, kiến thức trong sách giáo khoa mà ít vận dụng những kiến thức ngoài
sách giáo khoa, ngoài môn học như lịch sử để khám phá và hiểu sâu hơn về tác

4


phẩm – điều rất cần đối với việc học các tác phẩm văn học trung đại. Tuy nhiên
không phải bất kì tác phẩm văn học trung đại nào cung có thể được liên hệ kiến
thức lịch sử ở mức độ như nhau. Do đó giáo viên phải tìm hiểu kĩ tác phẩm sau
đó đặt những câu hỏi thật sát với nội dung bài học, tận dụng tối đa những hiểu
biết ngoài tác phẩm của học sinh để các em có cái nhìn tin cậy hơn, đúng hơn về
tác phẩm vừa tránh tình trạng lan man trong kiến thức của mình.
Các văn bản chính luận trong chương trình Ngữ văn 8 là những thể loại
học sinh mới được tìm hiểu như thể chiếu, hịch, cáo, tấu do vậy để học sinh đọc
hiểu tốt phần văn bản này giáo viên có thể đưa ra những câu hỏi cho học sinh
chuẩn bị bài ở nhà có tích hợp kiến thức lịch sử. Dưới đây là gợi ý xây dựng hệ
thống câu hỏi tích hợp kiến thức lịch sử trong một số tác phẩm văn học trung đại
lớp 8:
* Văn bản Chiếu dời đô (trích Thiên đô chiếu) – Lí Công Uẩn.
- Văn bản Chiếu dời đô được sáng tác trong hoàn cảnh nào?
- Từ nội dung của văn bản Chiếu dời đô em thấy Lí Công Uẩn là vị vua như thế
nào?
- Đất nước ta đã bao nhiêu lần dời đô? Em biết những cố đô nào ở nước ta?
- Tìm hiểu lý do vì sao nhà Đinh và Tiền Lê lại chọn đóng đô ở Hoa Lư. Tại sao
đến thời Lý thì Lý Công Uẩn lại muốn di chuyển.
- Giá trị lịch sử, kinh tế và văn hóa ngày nay của quần thể di tích Tràng An (Hoa

Lư) và Hà Nội (thành Đại La xưa).
- Hình ảnh trong sách giáo khoa cho em biết được gì về sự phát triển văn hóa,
kiến trúc thời Lí?
* Văn bản Hịch tướng sĩ (trích Dụ chư tì tướng hịch văn) – Trần Quốc Tuấn
- Em hãy nêu hoàn cảnh sáng tác bài Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn?
- Những hiểu biết của em về đức độ cao cả của Hưng Đạo Đại Vương Trần
Quốc Tuấn?
- Quân Mông-Nguyên sang xâm lược nước ta mấy lần? Vào những năm nào?
- Hiểu biết của em về hào khí Đông A? Hào khí Đông A đã trở thành truyền
thống của dân tộc ta suốt hàng nghìn năm lịch sử em hãy lấy dẫn chứng để
chứng minh điều đó?
* Văn bản Nước Đại Việt ta (trích Bình Ngô đại cáo) – Nguyễn Trãi
- Em hãy trình bày hoàn cảnh ra đời tác phẩm Bình Ngô đại cáo?
- Nguyên nhân nước ta rơi vào tay giặc Minh?
- Nêu hiểu biết của em về Nguyễn Trãi và vụ án Lệ Chi Viên?
- Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở đâu? Hãy nêu hiểu biết của em về vùng đất này?
* Văn bản Bàn luận về phép học (trích Luận học pháp) – Nguyễn Thiếp

5


- Văn bản Bàn luận về phép học được ra đời dưới thời vua Quang Trung khi đó
tình hình đất nước ta như thế nào?
- Nguyễn Thiếp là con người như thế nào? Quang Trung là người thế nào? Tại
sao Quang Trung có thể mời được Nguyễn Thiếp ra giúp mình trong việc triều
chính?
- Em hãy so sánh đạo học xưa và nay?
2.3.2.Giới thiệu bài mới bằng cách tích hợp kiến thức lịch sử để tạo hứng
thú cho học sinh.
Ngoài việc yêu cầu học sinh chuẩn bị bài ở nhà tích hợp với môn lịch sử

giáo viên có thể liên hệ kiến thức lịch sử trong phần giới thiệu bài mới để gây ấn
tượng ban đầu cho học sinh về tác phẩm. Tại sao phải giới thiệu bài mới? Bởi lẽ
lời dẫn vào bài có vai trò quan trọng đặc biệt là những tiết học văn học trung đại
vốn được cho là khô khan. Lời dẫn vào bài giúp học sinh tạo tâm thế hứng thú
cho việc tiếp nhận tác phẩm. Ví dụ cụ thể như sau:
* Văn bản Chiếu dời đô (trích Thiên đô chiếu) – Lí Công Uẩn. Giáo viên bắt
đầu tiết học bằng lời dẫn:
- Năm 968 Đinh Tiên Hoàng sau khi dẹp loạn 12 sứ quân đã xây dựng
kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình). Trong bối cảnh xã hội thế kỉ X, đó là một quyết
định đúng đắn và cần thiết của vua Đinh khi chính quyền trung ương đang phải
đối phó với các thế lực thù địch nước ngoài. Trong 42 năm kinh đô Hoa Lư đã
làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình, tạo điều kiện cho nhà Đinh và nhà Tiền Lê
củng cố chính quyền trung ương, bảo vệ nền độc lập dân tộc, đánh bại cuộc xâm
lược lần thứ nhất của quân Tống (980 - 981). Cuối năm 1009, triều Tiền Lê suy
yếu, các triều thần được quân đội và giới phật giáo ủng hộ đã tôn Điện tiền chỉ
huy sứ Lí Công Uẩn lên ngôi vua lập ra vương triều nhà Lí (1009 – 1225).
Trước yêu cầu xây dựng đất nước trên quy mô lớn, đẩy mạnh sự nghiệp phát
triển kinh tế, văn hóa, rõ ràng Hoa Lư với địa thế núi non hiểm trở đã trở nên
không còn phù hợp. Mùa xuân năm 1010 Lí Thaí Tổ đã quyết định dời đô từ
Hoa Lư ra thành Đại La nhằm “mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con
cháu; trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân”. Đây chính là nguyên nhân ra đời
của văn bản Chiếu dời đô (Thiên đô chiếu).
* Văn bản Hịch tướng sĩ (trích Dụ chư tì tướng hịch văn) – Trần Quốc Tuấn.
Giáo viên bắt đầu tiết học bằng lời dẫn:
Trần Quốc Tuấn là một trong những danh tướng kiệt xuất của nhân dân
Việt Nam và của thế giới trong thời kì trung đại. Ông đã góp công rất lớn trong
hai cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên (1285, 1288). Là nhà lí luận

6



quân sự với các tác phẩm nổi tiếng như: Vạn Kiếp tông bí truyền thư, Binh thư
yếu lược, Dụ chư tì tướng hịch văn...
Tháng 9 năm 1284, trong một cuộc duyệt binh lớn ở Đông Thăng Long,
Quốc công tiết chế - Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn công bố bài hịch
Dụ chư tì tướng hịch văn (Hịch tướng sĩ) để khích lệ, động viên tinh thần yêu
nước, trung nghĩa, quyết chiến quyết thắng của tướng sĩ dưới quyền, kêu gọi họ
ra sức học tập Binh thư yếu lược chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống quân
Mông – Nguyên lần thứ 2 (1285). Hôm nay chúng ta sẽ học một phần bài hịch
ấy.
Khi liên hệ kiến thức lịch sử giáo viên nên đặt các thông tin lịch sử lên
trước sau đó kết nối với nội dung bài học có liên quan. Cũng cần lưu ý là không
nên gượng ép trong việc liên hệ vì nếu việc liên hệ mang tính chất khiên cưỡng
không những không giúp học sinh hiểu thêm về lịch sử mà còn làm mất hứng
thú của học sinh.
2.3.3. Sử dụng các hình ảnh minh họa có tích hợp kiến thức lịch sử khi dạy
phần đọc hiểu để giúp học sinh có nhũng cảm nhận sâu sắc hơn về tác
phẩm.
Trong phần đọc – hiểu tác phẩm văn học trung đại, ngoài những nội
dung thông tin trong và ngoài văn bản thì việc giới thiệu và cung cấp cho học
sinh những hình ảnh minh họa cũng không kém phần quan trọng vì “trăm nghe
không bằng một thấy”, phải “tận mục sở thị” mới củng cố thêm niềm tin, giúp
các em hình dung và có những cảm nhận sâu sắc hơn về tác phẩm. Khi dạy học
giáo viên nên bổ sung những tư liệu lịch sử vào bài giảng để học sinh có vốn tri
thức rộng khi tiếp nhận tác phẩm. Hơn nữa, học sinh tiếp nhận kiến thức thông
qua tranh ảnh trực quan kết hợp với các tài liệu tham khảo sẽ nhớ lâu và hứng
thú hơn. Để việc khai thác nguồn tư liệu này có hiệu quả, phát huy tính tích cực
của học sinh, giáo viên cần nghiên cứu kĩ mục tiêu và nội dung của từng tư liệu
trong bài học, tư liệu thuyết minh hình ảnh. Giáo viên cũng có thể vận dụng
công nghệ thông tin, trình chiếu kênh hình sẽ có hiệu quả hơn vì học sinh được

quan sát hình ảnh rõ ràng, kích thước lớn, màu sắc sinh động và ấn tượng hơn.
Trong sáng kiến kinh nghiệm này tôi chỉ xin đưa ra một số hình ảnh minh họa
cho một số tác phẩm văn học trung đại lớp 8. Cụ thể như sau:
* Văn bản Chiếu dời đô (trích Thiên đô chiếu) – Lí Công Uẩn: Ở bài
này giáo viên có thể cho học sinh tham khảo hình ảnh địa thế của cố đô Hoa Lư,
địa thế của thành Đại La và đưa ra câu hỏi: vì sao nhà Đinh, nhà Tiền Lê lại
chọn Hoa Lư làm kinh đô, vì sao Lí Công Uẩn phải dời đô từ Hoa Lư ra thành
Đại La? Từ hình ảnh trực quan học sinh có thể trả lời dễ dàng câu hỏi này.

7


Giáo viên cũng có thể cho học sinh quan sát hình ảnh một số kiến trúc
đời Lí và yêu cầu học sinh nhận xét về sự phát triển văn hóa, kiến trúc thời đại
này qua đó mà đưa ra được nhận xét đúng đắn về vai trò của Lí Thái Tổ cũng
như triêu đình nhà Lí trong việc xây dựng đất nước hưng thịnh như ý nguyện mà
Lí Công Uẩn đã đưa ra trong bài chiếu.
* Ví dụ: Tranh ảnh khi dạy bài Chiếu dời đô

Mặt bằng tổng thể khu trung tâm cố
đô Hoa Lư

Thành Thăng Long thời Lí – Trần

8


Hình ảnh về cố đô Hoa Lư – Tràng An

Thăng Long xưa


Hà Nội ngày nay
9


Thăng Long – Hà Nội 1000 năm tuổi

Thiên đô chiếu – Lí Công Uẩn
* Văn bản Hịch tướng sĩ (trích Dụ chư tì tướng hịch văn) – Trần Quốc
Tuấn: Khi dạy văn bản này giáo viên có thể cho học sinh quan sát tranh về Tín
ngưỡng thờ đức thánh Trần trên mọi miền quê từ đó mà học sinh có thể nhận
10


thấy công lao to lớn mà Trần Quốc Tuấn đã dành cho non sông đất nước, cũng
từ đó giáo dục lòng biết ơn với những anh hùng đã có công dựng nước.

Tín ngưỡng thờ đức thánh Trần trên mọi miền quê.
* Văn bản Nước Đại Việt ta (trích Bình Ngô đại cáo) – Nguyễn Trãi: Ở
bài này giáo viên có thể cho học sinh quan sát những hình ảnh về các tác phẩm
được coi là bản tuyên ngôn của dân tộc, yêu cầu học sinh nêu tên, thời gian xuất
hiện của các bản tuyên ngôn độc lập đó.
Ngoài ra giáo viên cũng có thể cho học sinh quan sát hình ảnh các sự kiện
liên quan đến lãnh thổ và chủ quyền của dân tộc từ đó mà khơi dậy lòng yêu
nước, cố gắng học tập để xây dựng đất nước trong thời kì mới.
Ví dụ:

11



Chủ quyền dân tộc qua các thời kỳ (Thế kỷ X – XV – XX)

Sự kiện giàn khoan HD 981 (tháng 5 – 2015)

12


* Văn bản Bàn luận về phép học (trích Luận học pháp) – Nguyễn
Thiếp: Khi dạy văn bản này giáo viên có thể cho học sinh quan sát tranh bức
chiếu thư vua Quang Trung gửi La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp và giải thích về
việc Quang Trung ba lần gửi thư mời Nguyễn Thiếp ra giúp qua đó học sinh có
thể thấy được Nguyễn Thiếp là con người không màng danh lợi quyền quý. Ví
dụ:

Chiếu vua Quang Trung trách cụ Nguyễn Thiếp từ chối bổng lộc.
2.3.4.Vận dụng kiến thức lịch sử trong chương trình SGK lịch sử đã học để
tạo sự liên kết kiến thức với nội dung bài học đang tìm hiểu
Việc liên hệ kiến thức lịch sử trong chương trình sách giáo khoa lịch sử
là một biện pháp hiệu quả trong việc đọc hiểu tác phẩm văn học trung đại đồng
thời khắc sâu thêm kiến thức lịch sử cho học sinh. Trong phạm vi đề tài này tôi
sẽ nêu địa chỉ tích hợp môn lịch sử và nội dung tích hợp vào trong bài dạy. Tuy
nhiên tùy thuộc vào mỗi bài học giáo viên cần lựa chọn lượng kiến thức liên hệ
ít hoặc nhiều, cũng cần tiết chế và chọn lọc những kiến thức tiêu biểu để tránh
biến giờ học văn thành giờ học lịch sử hoặc phô diến kiến thức uyên bác của
giáo viên.
* Văn bản Chiếu dời đô (trích Thiên đô chiếu) – Lí Công Uẩn: Khi học
bài này học sinh có thể vận dụng kiến thức lịch sử bài 10: Nhà Lý đẩy mạnh
công cuộc xây dựng đất nước trong SGK lịch sử lớp 7 để thấy được những thành
tựu trong phát triển kinh tế, văn hóa xã hội và hiểu được nguyên nhân vì sao Lí
Công Uẩn dời đô về Thăng Long.


13


* Văn bản Hịch tướng sĩ (trích Dụ chư tì tướng hịch văn) – Trần Quốc
Tuấn: Khi học văn bản này học sinh có thể vận dụng kiến thức lịch sử bài 14: Ba
lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên (thế kỉ XIII) trong SGK
lịch sử lớp 7 để hiểu thêm về hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ và hoàn cảnh sáng
tác bài hịch. Bên cạnh đó giúp học sinh thấy được tài năng quân sự lỗi lạc của
Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn.
* Văn bản Nước Đại Việt ta (trích Bình Ngô đại cáo) – Nguyễn Trãi:
Khi học văn bản này học sinh có thể vận dụng kiến thức lịch sử bài 19: Cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn (1418 – 1427) trong SGK lịch sử lớp 7 để hiểu thêm về
hoàn cảnh ra đời tác phẩm và vai trò của Nguyễn Trãi trong tiến trình lịch sử dân
tộc.
* Văn bản Bàn luận về phép học (trích Luận học pháp) – Nguyễn
Thiếp: Khi học văn bản này học sinh có thể vận dụng kiến thức lịch sử bài 26:
Quang Trung xây dựng đất nước trong SGK lịch sử lớp 7 để hiểu thêm về những
thành tựu của đất nước dưới triều đại Tây Sơn trong đó có phần đóng góp không
nhỏ của Nguyễn Thiếp với những bản tấu thể hiện tầm nhìn xa trông rộng và nỗi
lòng ưu tư vì nước vì dân của ông.
* Ứng dụng các biện pháp đã nêu vào một bài dạy cụ thể:
Những kinh nghiệm trên được tôi vận dụng vào dạy tiết 89 - “ Chiếu dời
đô”, (Trích “Thiên đô chiếu”– Lí Công Uẩn). Tôi vận dụng vào dạy các
phần cụ thể như sau:
Phần I. Kiểm tra bài cũ ( kiểm tra sự chuẩn bị bài của HS) có tích hợp
kiến thức lịch sử.
Thu phiếu học tập đã phát cho HS từ tiết học trước (Các câu hỏi yêu cầu chuẩn
bị:
Câu 1: Văn bản Chiếu dời đô được sáng tác trong hoàn cảnh nào?

Câu 2: Từ nội dung của văn bản Chiếu dời đô em thấy Lí Công Uẩn là vị vua
như thế nào?
Câu 3: Trước khi dời đô về Thăng Long năm 1010 nước ta đã định đô ở những
đâu? Em biết những cố đô nào ở nước ta?
Câu 4: Tìm hiểu lý do vì sao nhà Đinh và Tiền Lê lại chọn đóng đô ở Hoa Lư?
Tại sao đến thời Lý thì Lý Công Uẩn lại muốn di chuyển?
Câu 5: Giá trị lịch sử, kinh tế và văn hóa ngày nay của quần thể di tích Tràng
An (Hoa Lư) và Hà Nội (thành Đại La xưa).
Câu 6: Hình ảnh trong sách giáo khoa cho em biết được gì về sự phát triển văn
hóa, kiến trúc thời Lí?)
Phần II. Bài mới:
14


- GV dẫn dắt vào bài có tích hợp kiến thức lịch sử:
Năm 968 Đinh Tiên Hoàng sau khi dẹp loạn 12 sứ quân đã xây dựng
kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình). Trong bối cảnh xã hội thế kỉ X, đó là một quyết
định đúng đắn và cần thiết của vua Đinh khi chính quyền trung ương đang phải
đối phó với các thế lực thù địch nước ngoài. Trong 42 năm kinh đô Hoa Lư đã
làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình, tạo điều kiện cho nhà Đinh và nhà Tiền Lê
củng cố chính quyền trung ương, bảo vệ nền độc lập dân tộc, đánh bại cuộc xâm
lược lần thứ nhất của quân Tống (980 - 981). Cuối năm 1009, triều Tiền Lê suy
yếu, các triều thần được quân đội và giới phật giáo ủng hộ đã tôn Điện tiền chỉ
huy sứ Lí Công Uẩn lên ngôi vua lập ra vương triều nhà Lí (1009 – 1225).
Trước yêu cầu xây dựng đất nước trên quy mô lớn, đẩy mạnh sự nghiệp phát
triển kinh tế, văn hóa, rõ ràng Hoa Lư với địa thế núi non hiểm trở đã trở nên
không còn phù hợp. Mùa xuân năm 1010 Lí Thái Tổ đã quyết định dời đô từ
Hoa Lư ra thành Đại La nhằm “mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con
cháu; trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân”. Đây chính là hoàn cảnh ra đời của
văn bản Chiếu dời đô (Thiên đô chiếu).

- Tìm hiểu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm có tích hợp kiến thức lịch sử
( giáo viên cho học sinh trả lời các câu hỏi đã giao chuẩn bị ở nhà)
Câu hỏi: Văn bản này được viết trong hoàn cảnh lịch sử nào?
Trả lời: Bài chiếu được viết năm Canh Tuất (1010 ).Đất nước Đại Việt đang
trên đà phát triển, kinh đô Hoa Lư chật hẹp, không đáp ứng được nhu cầu phát
triển lớn mạnh của đất nước.
Câu hỏi: Quyết định dời đô cho em thấy Lí Công Uẩn là con người như thế
nào?
Trả lời:Việc dời đô đánh dấu một tầm nhìn chiến lược xa rộng, một tư tưởng
chính trị lớn lao của Lí Thái Tổ.
Câu hỏi : Em biết những cố đô nào ở nước ta?
Trả lời: Cố đô Hoa Lư, cố đô Huế...
- Phân tích nội dung của tác phẩm có tích hợp kiến thức lịch sử
Gv cho HS quan sát tranh về Hoa Lư và thành Đại La ( trong phần tranh ảnh
đã chuẩn bị trước).
+ Câu hỏi tìm hiểu lí do dời đô: Theo Lí Công Uẩn kinh đô cũ Hoa Lư có còn
thích thích hợp để đóng đô nữa không? Vì sao?
Trả lời: Kinh đô cũ Hoa Lư không còn thích hợp để đóng đô do địa thế
hiểm trở.
+ Câu hỏi tìm hiểu những lợi thế của thành Đại La:

15


Thành Đại La có những lợi thế gì để chọn làm kinh đô của đất nước? (về lịch sử,
địa lí; về chính trị văn hoá...)
Trả lời
- Lịch sử: Từng được chọn làm nơi đóng đô.
- Địa lí: Trung tâm trời đất, mở ra bốn phương, vừa có sông vừa có núi, đất đai
cao rộng, bằng phẳng tránh được lụt lội, chật chội...

- Phong thủy: thế rồng cuộn, hổ ngồi
- Chính trị, văn hóa: Là chốn hội tụ trọng yếu của đất nước.
→ Như vậy, thành Đại La có đầy đủ mọi ưu thế để trở thành “ nơi kinh đô bậc
nhất của đế vương muôn đời”.
Câu hỏi : Từ thực tế lịch sử đã được học, theo các em, quyết định dời đô từ Hoa
Lư về Đại La của Lí Công Uẩn có chính xác không? Vì sao?
Trả lời:
Học sinh có thể vận dụng kiến thức lịch sử bài 10: Nhà Lý đẩy mạnh công
cuộc xây dựng đất nước trong SGK lịch sử lớp 7 để thấy được những thành tựu
trong phát triển kinh tế, văn hóa xã hội và hiểu được nguyên nhân vì sao Lí
Công Uẩn dời đô về Thăng Long.
Sau khi HS trả lời, GV cho học sinh quan sát ảnh chùa Một Cột, Liên hệ
với phần lịch sử thời Lí đã học, cho HS nói về những thành tựu to lớn của
Thăng Long; giáo dục cho học sinh lòng tự hào, tinh thần dân tộc; lòng biết ơn
tiền nhân...
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Sau một thời gian vận dụng những kinh nghiệm đã trình bày trong sáng
kiến kinh nghiêm này, đến giữa học kì II năm học 2019 – 2020, với 2 lớp dạy,
một lớp thử nghiệm, tôi đã thu được những kết quả khác nhau. Điều tích cực là
lớp dạy theo hướng tích hợp môn Lịch sử (lớp thực nghiệm 8B) kết quả đã có sự
khác biệt rõ ràng so với lớp không dạy tích hợp (8C).
- Học sinh ( trong đó có cả những học sinh cá biệt, học sinh có học lực yếu)
hứng thú hơn với môn học, tích cực trong học tập, tìm hiểu.
- Khả năng phối hợp kiến thức linh hoạt, các em đã có thói quen tìm hiểu, vận
dụng, tích hợp kiến thức.
- Kết quả khảo sát độ tin cậy, nắm chắc bài, hiểu biết kiến thức cũng được nâng
lên.
Sau đây là bảng tiêu chí đánh giá kết quả:

16



- Đánh giá về việc nắm vững kiến thức:
Lớp

Sĩ số

8B
8C

39
39

Giỏi
8
1

Tỉ lệ
%
20
2.6

Khá
12
7

Xếp loại
Tỉ lệ
TB
%

31
17
18
24

Tỉ lệ
%
44
61.4

Yếu
2
7

Tỉ lệ
%
5
18

- Đánh giá theo tiêu chí hứng thú tích cực:
Lớp

Sĩ số

8B
8C

39
39


Hứng thú
29
17

Đánh giá
Chưa hứng
Tỉ lệ %
thú
74
10
44
22

Tỉ lệ %
26
56

- Đánh giá theo sự hiểu biết – Lí giải:
Đánh giá
Lí giải
Lí giải
Còn
Lớp
Sĩ số
tốt vấn Tỉ lệ %
được
Tỉ lệ %
khúc
Tỉ lệ %
đề

vấn đề
mắc
8B
39
12
31
24
61.3
3
7.7
8C
39
3
7.7
25
64
11
28.3
Vậy, với kết quả như trên, tôi đã mạnh dạn, tích cực sử dụng Kinh nghiệm
tích hợp kiến thức lịch sử vào giảng dạy các tác phẩm văn học trung đại
trong chương trình Ngữ văn 8 ở Trường THCS Đông Hải, thành phố
Thanh Hóa. Qua một thời gian, chất lượng giảng dạy của phần văn học trung
đại nói riêng và môn Ngữ văn 8 nói chung đã được nâng lên rõ rệt. Các em học
sinh học tập tích cực, chủ động, hiểu sâu, nhớ lâu kiến thức cả về văn học và
lịch sử. Hầu hết các em học sinh đều phấn khởi mỗi khi đến tiết học Ngữ văn và
tỏ ra rất yêu thích môn học này. Như vậy, so với trước khi áp dụng một số kinh
nghiệm giảng dạy nêu trên, chất lượng học tập của học sinh đã được nâng lên
đáng kể. Từ đó có thể thấy năng lực học sinh đã được phát huy.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận

Nhìn chung SKKN đã được tiến hành, thử nghiệm đúng quy trình, có sự
quan tâm góp ý của đồng nghiệp. Bước đầu đã có sự thành công. Một là, tạo ra
được phong trào thi đua vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết một vấn đề,
tích hợp được nội dung kiến thức. Hai là, tạo ra môi trường học tập lẫn nhau
giữa các giáo viên trong tổ đặc biệt là giáo viên Ngữ văn và Lịch sử, góp phần
tự bồi dưỡng cho mỗi giáo viên bộ môn. Ba là, học sinh tích cực, chủ động bước
17


đầu sáng tạo và có thói quen học tập chủ động. Bốn là, SKKN đã góp phần nâng
cao chất lượng giảng dạy bộ môn Ngữ văn nói chung và phần văn học trung đại
nói riêng, giúp học sinh yêu thích và hứng thú với không chỉ môn Ngữ văn mà
còn có hứng thú tìm hiểu về lịch sử nước nhà. Và quan trọng nhất là làm cho các
tác phẩm văn học trung đại vốn triết lí, khó hiểu trở nên gần gũi, hấp dẫn hơn
với cả người dạy và người học.
3.2. Kiến nghị.
3.2.1. Đối với giáo viên
- Giáo viên cần nhiệt tình, tận tụy với học sinh.
- Nghiêm túc trong việc học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn và nghiệp
vụ sư phạm không những trong môn Ngữ văn mà còn phải tìm hiểu các kiến
thức ở các bộ môn khác như Lịch sử, Địa lí, GDCD... để vận dụng vào trong các
tiết dạy có liên quan.
- Nghiên cứu kĩ bài dạy để có sự tích hợp kiến thức phù hợp.
3.2.2. Đối với người quản lý
- Chuẩn bị tốt mọi điều kiện về cơ sở vật chất phục vụ việc dạy và học.
- Có sự động viên khuyến khích và khen thưởng kịp thời với những giáo
viên có tinh thần sáng tạo trong chuyên môn.
- Các nhà trường cần phối hợp chặt chẽ với địa phương, với hội phụ
huynh học sinh nhằm quan tâm hơn tới việc đầu tư thêm kinh phí để mỗi phòng
học có những đồ dùng cố định như may tính, máy chiếu, tranh, ảnh, đồ dùng dạy

học... Có như thế, hiệu quả dạy - học mới ngày càng được nâng cao.
- Tổ chuyên môn thường xuyên sinh hoạt đổi mới, tập trung vào việc tháo
gỡ những vướng mắc trong dạy và học.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

TP Thanh Hóa, ngày 25 tháng 04
năm 2020
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết

Lưu Thị Mai

18


19



×