Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Tư tưởng chính trị xã hội của nho sĩ duy tân cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 102 trang )

ĐẠ
Ƣ

ĐẠ






ĐẶNG THỊ THẢO

Ƣ ƢỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ H I CỦ

SĨ D Y

TÂN CU I THẾ KỶ XIX – ĐẦU THẾ KỶ XX

LUẬ

Ạ SĨTRIẾT HỌC

– 2019


ĐẠ
Ƣ

ĐẠ








ĐẶNG THỊ THẢO

Ƣ ƢỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ H I CỦ

SĨ D Y

TÂN CU I THẾ KỶ XIX – ĐẦU THẾ KỶ XX

Ạ SĨ

LUẬ
Y

TRIẾT HỌC
60.22.03.01

Ƣ

Ƣ

D

TS. NGUYỄN THỊ LAN

– 2019





L

Đ

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được
thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Thị Lan. Những
nghiên cứu và kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này hoàn
toàn trung thực. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn

Đặng Thị Thảo


L I CẢ

Ơ

Luận văn thạc sĩ với đề tài “Tư tưởng chính trị - xã hội của nho sĩ duy
tân cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX” là kết quả của quá trình học tập và nghiên
cứu một cách nghiêm túc của tác giả trong chương trình đào tạo cao học Triết
học tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà
Nội.
Với tình cảm chân thành, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến:
Hội đồng khoa học, Hội đồng đào tạo thạc sĩ chuyên ngành Triết học Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã
tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu cũng như tạo mọi điều kiện thuận
lợi nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập nghiên cứu và cho đến khi thực

hiện đề tài luận văn. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS.
guyễn hị Lan - người đã hết lòng giúp đỡ, định hướng, trực tiếp dẫn dắt
cho tôi trong suốt thời gian thực hiện luận văn.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn đến gia đình, các anh chị và các
bạn đồng nghiệp đã hỗ trợ cho tôi rất nhiều trong suốt quá trình học tập, nghiên
cứu và thực hiện đề tài luận văn thạc sĩ một cách hoàn chỉnh.
Mặc dù đã cố gắng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu,
song luận văn không tránh khỏi những sai sót, kính mong nhận được sự góp
ý của của thầy cô để luận văn hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Tác giả
Đặng Thị Thảo


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3
N I DUNG..................................................................................................... 14
ƢƠ

1. NHỮ

Đ ỀU KIỆN VÀ TIỀ

ĐỀ CHO SỰ HÌNH

Ƣ ƢỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ H I CỦ

SĨ D Y

CU I THẾ KỶ XIX – ĐẦU THẾ KỶ XX ................................................. 14

1.1. B i cảnh thế giới và Việt Nam cu i thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX ... 14
1.1.1. Tình hình thế giới cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX ........................ 14
1.1.2. Bối cảnh Việt Nam cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX ...................... 19
1.2. Tiền đề tƣ tƣởng cho sự hình thành tƣ tƣởng chính trị - xã hội của
nho sỹ duy Tân cu i thế kỷ XIX– đầu thế kỷ XX ...................................... 28
1.2.1. Sự khủng hoảng của nho giáo Việt Nam trong giai đoạn cuối thế kỷ
XIX – đầu thế kỷ XX ...................................................................................... 29
1.2.2. Tư tưởng cải cách, duy tân ở Nhật Bản, Trung Quốc cuối thế kỷ XIX
– đầu thế kỷ XX .............................................................................................. 32
ƢƠ

2. Ƣ

ƢỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ H I CỦ

SĨ D Y

TÂN CU I THẾ KỶ XIX – ĐẦU THẾ KỶ XX – NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ
HẠN CHẾ ...................................................................................................... 40
2.1. Những nội dung cơ bản trong tƣ tƣởng chính trị - xã hội của Nguyễn
rƣờng Tộ, Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh ..................................... 40
2.1.1.Tư tưởng chính trị - xã hội của Nguyễn Trường Tộ........................... 41
2.1.2. Tư tưởng chính trị - xã hội của Phan Bội Châu ................................ 52
2.2. Những giá trị và hạn chế trong tƣ tƣởng chính trị - xã hội của nho ĩ
duy tân cu i thế kỷ XIX – đầu thế kỷXX .................................................... 75
2.2.1. Những giá trị trong tư tưởng chính trị - xã hội của nho sĩ duy tân
cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX ................................................................... 75

1



2.2.2. Những hạn chế trong tư tưởng chính trị - xã hội của nho sĩ duy tân
cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX ................................................................... 82
KẾT LUẬN .................................................................................................... 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 92

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tư tưởng chính trị - xã hội là hệ thống những quan điểm, tư tưởng mối
quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội cũng như vấn đề giành, giữ và
xây dựng chính quyền cũng như thực thi quyền lực nhà nước. Tư tưởng chính
trị - xã hội được nảy sinh từ những điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa – tư
tưởng, được chính bối cảnh lịch sử, văn hóa đó quy định. Ngược lại, tư tưởng
chính trị - xã hội sẽ phản ánh trực tiếp, rõ ràng và chính xác thực trạng của xã
hội thông qua mối quan hệ giữa các giai cấp và tầng lớp trong xã hội.
Mỗi quốc gia, trong từng giai đoạn lịch sử sẽ có những hệ tư tưởng đóng
vai trò dẫn đường gắn liền với sự thay đổi, phát triển xã hội, đặc biệt là trước
những sự kiện ảnh hưởng đến tình hình chính trị – xã hội lớn của dân tộc.
Trong bối cảnh đó, tư tưởng chính trị giữ vai trò rất quan trọng, chi phối, định
hướng con đường phát triển của dân tộc.
Cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, tình hình chính trị, kinh tế - văn hóa
thế giới có nhiều biến động. Các nước châu Á, Phi và Mỹ La tinh trở thành
miếng mồi ngon cho các nước tư bản đang trong giai đoạn chuyển sang chủ
nghĩa đế quốc xâu xé. Nhiều nước bị biến thành thuộc địa, nửa thuộc địa, nửa
phong kiến. Việt Nam cũng không nằm ngoài luồng mở rộng thuộc địa của
các nước đế quốc phương Tây. Từ năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu xâm lược
nước ta, năm 1883 Việt Nam trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến.

Sự biến chuyển về tình hình chính trị - xã hội trong và ngoài nước tất
yếu sẽ dẫn đến sự chuyển biến về nhận thức tư tưởng nhằm giải quyết các vấn
đề bức thiết của dân tộc, của thời đại. Lịch sửViệt Nam giai đoạn cuối thế kỷ
XIX – đầu thế kỷ XX là minh chứng rõ nhất cho điều đó.
Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX từ một quốc gia
độc lập trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Lúc này, hệ tư tưởng
3


nắm vai trò thống trị là Nho giáo đã bất lực trước sự thay đổi của thời đại.
Nho giáo dần mất đi vai trò thống trị trong hệ hệ thống chính trị bởi những
hạn chế về mặt thời đại của mình. Những biến đổi về mặt lịch sử cùng với sự
xuất hiện của phương thức sản xuất mới đã dẫn đến sự biến đổi trong tư tưởng
chính trị - xã hội giai đoạn này. Đó là sự xuất hiện của tư tưởng canh tân vào
cuối thế kỷ XIX với những đề xuất canh tân của các trí thức Nho học như
Nguyễn Trường Tộ, Đặng Huy Trứ, Nguyễn Lộ Trạch... Các nho sĩ đề xuất
những chủ trương canh tân trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là những tư tưởng
chính trị: cải cách bộ máy chính quyền, phát triển kinh tế - xã hội... Nhưng
những đề xuất canh tân này vẫn chịu ảnh hưởng của hệ tư tưởng phong kiến,
chưa có sự chuyển biến triệt để theo hệ tư tưởng mới.
Sang đầu thế kỷ XX, tiếp thu tư tưởng Tân thư và trên cơ sở tư tưởng
canh tân các nhà tư tưởng Việt Nam tiêu biểu như Phan Bội Châu, Phan Châu
Trinh, Nguyễn An Ninh, Huỳnh Thúc Kháng đã đưa ra, đề xuất những tư
tưởng chính trị - xã hội mới, đánh dấu sự chuyển biến quan trọng về mặt ý
thức hệ tư tưởng dân tộc giai đoạn này, từ hệ tư tưởng phong kiến sang tư
tưởng dân chủ tư sản và tiến gần đến chủ nghĩa Mác – Lênin. Tư tưởng chính
trị theo khuynh hướng dân chủ tư sản những năm đầu thế kỷ XX đã tác động
không nhỏ đời sống xã hội nói chung và tiến trình cách mạng dân tộc giai
đoạn này nói riêng.
Nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam giai đoạn này vẫn còn nhiều khía

cạnh mới mẻ, cần được nghiên cứu. Tư tưởng Việt Nam giai đoạn này là sự
phản ánh của tồn tại xã hội Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ
XX. Những chuyển biến về mặt lịch sử tạo nên những chuyển biết về mặt tư
tưởng để phù hợp với sự thay đổi của thời đại, phù hợp với yêu cầu của tiến
trình lịch sử dân tộc. Đây là kết quả tất yếu của sự phát triển của lịch sử nói
chung và lịch sử tư tưởng nói riêng. Đồng thời, là kết quả của logic phát triển
4


lịch sử tư tưởng giai đoạn trước đó cũng như là động lực phát triển cho lịch sử
tư tưởng giai đoạn tiếp theo.
Bên cạnh đó, những tư tưởng chính trị - xã hội của các nhà tư tưởng giai
đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX vừa thể hiện sự phát triển của tư tưởng
dân tộc vừa phản ánh sự nhạy cảm chính trị của các nhà tư tưởng. Những ảnh
hưởng mạnh mẽ của những cải cách ở Nhật Bản cũng như những ảnh hưởng
của Tân thư Tân văn ở Trung Quốc đối với các nhà tư tưởng Việt Nam giai
đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX đã cho thấy sự chuyển biến trong hệ tư
tưởng dân tộc nhằm tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, nhận
thấy được những hạn chế mà hệ tư tưởng Nho giáo không giải quyết được,
mở ra hướng đi mới trong con đường cách mạng dân tộc.
Chính vì vậy, việc lựa chọn và tiếp thu những tư tưởng cách mạng
đương thời của Trung Hoa, Nhật Bản cũng như những tư tưởng dân chủ tư
sản phương Tây giai đoạn này đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng,
giải quyết nhu cầu về việc tìm ra một hệ tư tưởng mới dẫn đường cho cách
mạng. Mặc dù những tư tưởng chính trị - xã hội của các nho sĩ giai đoạn này
thất bại, song những tư tưởng chính trị đó của đã tạo nên sự thay đổi mạnh
mẽ, mang tính căn bản cho lối tư duy bảo thủ, lạc hậu trong tư tưởng chính trị
phong kiến.
Trong tư tưởng chính trị - xã hội giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ
XX, thì tư tưởng chính trị của Nguyễn Trường Tộ, Phan Bội Châu và Phan

Châu Trinh đã thể hiện được rõ nhất những sự chuyển biến, chuyển mình của
các ông trong việc xác định đường lối lý luận cho cách mạng Việt Nam nói
riêng và lĩnh vực tư tưởng nói chung. Chính vì vậy, trong phạm vi nghiên cứu
của luận văn, tác giả sẽ lựa chọn Nguyễn Trường Tộ, Phan Bội Châu và Phan
Châu trinh để phân tích.

5


Giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX là giai đoạn quan trọng
trong tiến trình lịch sử Việt Nam nói chung và cả trong tiến trình lịch sử tư
tưởng dân tộc. Đánh dấu sự chuyển biến của xã hội Việt Nam cũng như sự
chuyển biến về mặt tư tưởng, thể hiện logic tất yếu của lịch sử tư tưởng Việt
Nam, đáp ứng yêu cầu của thời đại. Đây là minh chứng quan trọng nhất cho
tính biện chứng của tư tưởng Việt Nam.
Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đang bước vào thời kỳ mới với bối
cảnh thời đại có nhiều sự kiện lịch sử quan trọng. Xu thế toàn cầu hóa kinh tế
và vấn đề hội nhập quốc tế trở thành xu thế tất yếu mà các quốc gia đều phải
đối mặt. Trong bối cảnh đó, vấn đề quan trọng nhất, mang tính xuyên suốt
cho con đường xây dựng và phát triển đất nước được đặt ra đó chính là việc
lựa chọn con đường để vừa hội nhập vừa giữ vững được độc lập chủ quyền;
vừa tiếp thu được sự tiến bộ của nhân loại nhưng vừa phát huy được những
giá trị truyền thống của dân tộc để theo kịp thời đại? Bối cảnh lịch sử cũng
như vị thế xã hội Việt Nam giai đoạn này mặc dù khác giai đoạn cuối thế kỷ
XIX – đầu thế kỷ XX nhưng cả hai giai đoạn đều có điểm chung nằm trong sự
giao thời của lịch sử nên có những yêu cầu, đặc điểm giống nhau, đó là: cần
có trí tuệ, bản lĩnh vững vàng và sự nhạy cảm chính trị để đổi mới, lựa chọn
con đường hội nhập, độc lập tự chủ trước những thách thức lớn của thời đại,
v.v..
Cho nên chúng ta cần nghiên cứu những bài học lịch sử của giai đoạn

trước để tránh bớt những sai lầm cũng như biết phát huy những giá trị truyền
thống đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
Vì những lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài Tư tưởng chính trị - xã hội của nho
sĩ duy tân cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu

6


Nghiên cứu về tư tưởng chính trị - xã hội Việt Nam giai đoạn nửa cuối
XIX đầu thế kỷ XX đã có khá nhiều công trình không chỉ của triết học mà còn
của các khoa học khác như văn học, lịch sử. Trong đó, liên quan đến đề tài, có
một số công trình đã được nghiên cứu:
Hướng công trình nghiên cứu thứ nhất: Những công trình nghiên cứu
về lịch sử tư tưởng Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX.
Công trình Đại cương lịch sử Việt Nam (3 tập, Nxb. Giáo dục, Hà Nội,
2006) của Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn (Chủ biên).
Trong tác phẩm này, các tác giả đã nghiên cứu và trình bày toàn diện đời sống
xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng,… của các giai đoạn lịch sử dân
tộc, trong đó có giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Về lịch sử tư tưởng Việt Nam nói chung không thể không nói đến hai
cuốn sách Lịch sử tư tưởng Việt Nam(1993) của Viện Triết học và Viện Khoa
học xã hội. Tập thể tác giả đã đi sâu nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam
trong các giai đoạn lịch sử cụ thể, từ thời nguyên thủy đến thế kỷ XIX với
những đặc điểm, đặc trưng cho từng giai đoạn.
Các tác giả cũng đưa ra nhận định rằng, dù mỗi giai đoạn, lịch sử tư
tưởng sẽ có những đặc điểm, đặc trưng riêng nhưng khuynh hướng chung của
tư duy triết học Việt Nam là chú trọng đến các vấn đề xã hội và nhân sinh,
vềchính trị - xã hội và luân lý, những vấn đề liên quan đến giáo dục đạo làm
người.Liên quan đến đề tài, các tác giả cho rằng, tư tưởng Việt Nam nói

chung, tư tưởng triết học Việt Nam nói riêng có quá trình tiếp biến mạnh mẽ
để tạo nên nhiềunét mới trong đặc điểm, phương pháp tư duy và hành động.
Tuy nhiên, kết quả của sự tiếp biến ấy đã làm xuất hiện các trào lưu tư
tưởng, những vấn đề mới cần được tiếp tục giải quyết như thế nào lại chưa rõ.
Tác giả Trần Văn Giàu với công trình Sự phát triển của tư tưởng Việt
Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng Tháng Tám(1993) gồm 3 tập. Trong tập 2
7


của bộ sách này, tác giả đã đi vào nghiên cứu hệ ý thức của giai cấp tư sản
Việt Nam với tư cách là vấn đề triết học, chính trị và sự bất lực của nó trước
thực tiễn xã hội nửa đầu thế kỷ XX. Liên quan đến lịch sử tư tưởng, tác giả
cũng bàn đến những vấn đề về đường lối tư tưởng và chính trị được các nhà
tư tưởng lựa chọn nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX: cầu viện, bạo động,
cải lương… Tác giả cho rằng, con đường canh tân, đổi mới hay những hình
thức đấu tranh trên thực chất là tiếp thu tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây,
mà lực lượng tiếp thu và truyền bá tư tưởng dân chủ tư sản là những nho sĩ
nên tư tưởng mang nhiều sắc thái và khía cạnh đặc biệt biểu hiện đặc trưng
của xã hội Việt Nam.
Tác phẩm Lịch sử tư tưởng Việt Nam (Nxb. Khoa học xã hội, tập 2, Hà
Nội, 1997) của Lê Sỹ Thắng cũng đã trình bày tư tưởng của một số nhà tư
tưởng canh tân nửa cuối thế kỷ XIX như Phạm Phú Thứ, Đặng Huy Trứ,
Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch. Bên cạnh đó, còn có công trình nghiên
cứu Bước chuyển tư tưởng Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX (Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005) của tập thể tác giả, do Trương Văn Chung,
Doãn Chính đồng chủ biên. Các tác giả đã nghiên cứu những tiền đề của bước
chuyển, nội dung quan điểm, tư tưởng chính trị - xã hội của các nho sĩ duy tân
cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX.
Hội thảo khoa họcTư tưởng triết học Việt Nam trong bối cảnh du nhập
các tư tưởng Đông – Tây nửa đầu thế kỷ XX (2005) đã tập hợp những báo cáo

từ rất nhiều công trình nghiên cứu về triết học Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ
XX của nhiều nhà nghiên cứu khác nhau do trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức. Trong phần thứ hai và thứ ba
của cuốn kỷ yếu với nội dung Sự du nhập của các trào lưu tư tưởng phương
Đông và phương Tây vào Việt Nam và ảnh hưởng của nó đến tư tưởng triết
học Việt Nam đã đi sâu vào nội dung và ảnh hưởng của các trào lưu triết học
8


phương Đông, phương Tây khi du nhập vào nước ta. Đặc biệt, trong những
báo cáo đó đã đưa ra quan điểm về vận mệnh của Nho giáo trong xã hội Việt
Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX và những sự chuyển biến về
mặt tư tưởng của các Nho sĩ – những người xuất thân từ Nho giáo. Họ đã tiếp
biến những tư tưởng bên ngoài đó nhưng đồng thời cũng không lãng quên
những giá trị tiến bộ của Nho gia.
Đề tài khoa học đặc biệt của GS.TS Nguyễn Hữu Vui và Lương Gia
Tĩnh về Tư tưởng triết học Việt Nam từ thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX (2003)đi
sâu vào tư tưởng triết học Việt Nam trong bối cảnh thực dân Pháp xâm lược
với nội dung chính là quá trình chuyển biến tư tưởng của các nhà tư tưởng
giai đoạn này và những hệ tư tưởng chủ yếu của họ đề ra trong quá trình tìm
ra con đường chống lại ách đô hộ của thực dân Pháp.
Tóm lại, tổng quan lại những công trình nghiên cứu về lịch sử tư tưởng
Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, chúng tôi thấy được
rằng việc nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam giai đoạn này khá toàn diện.
Tuy nhiên, ở phương diện nội dung, hệ thống nội dung tư tưởng của các nhà
tư tưởng vẫn chưa được đề cập sâu trong các công trình này.
Hướng nghiên cứu thứ hai, các công trình nghiên cứu về Nho giáo và
nho sĩViệt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Chúng tôi nhận thấy cần
phải khảo cứu những công trình này bởi những công trình này liên quan trực
tiếp đến nhiều nội dung trong đề tài. Đồng thời, chủ thể của những tư tưởng

chính trị - xã hội giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX là tầng lớp nho sĩ
duy tân.
Tác giả Phan Đại Doãn có tác phẩm Một số vấn đề Nho giáo Việt
Nam(1998),trong tác phẩmnày tác giả tập trung vào những vấn đề của Nho
giáo thời Lê – Nguyễn; Tư tưởng dân chủ của các nhà nho duy tân đầu thế kỷ
XX; Nho giáo với phong trào Đông kinh Nghĩa thục… Trong đó, nho sĩ duy
9


tân giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX là những người tiên phong, đi
đầu trong việc truyền bé tư tưởng dân chủ. Điều này chứng tỏ các nho sĩ duy
tân đã có những bước chuyển về mặt tư tưởng để phù hợp với sự phát triển
của tiến trình lịch sử xã hội cũng như lịch sử tư tưởng.
Công trình Góp phần tìm hiểu Nho giáo, nho sĩ, trí thức Việt Nam trước
1945 (1998) của Chương Thâu cũng đã đưa ra những nhận xét, đánh giá của
những tư tưởng chính trị - xã hội của các nho sĩ duy tân cuối thế kỷ XIX –
đầu thế kỷ XX cũng như vị trí, vai trò của họ trong tiến trình cách mạng Việt
Nam. Những tư tưởng chính trị của họ, cụ thể là khuynh hướng dân chủ tư sản
được đánh giá là tiến bộ nhưng chưa đủ sức giành thắng lợi trước thực dân
Pháp. Nhưng điều quan trọng là các nho sĩ duy tân đã dần thoát khỏi ý thức hệ
tư tưởng phong kiến bảo thủ để đi đến với ý thức hệ mới tiến bộ hơn.
Khi nghiên cứu về nho sĩ duy tân Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX không thể không nhắc đến những công trình tiêu biểu như: Nguyễn
Trường Tộ con người và di thảo (1988) của Trương Bá Cần; Tìm hiểu tư
tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh (1996) của tác giả Đỗ Thị Hòa Hới; Tư
tưởng triết học và chính trị của Phan Bội Châu (2005) của tác giả Nguyễn
Văn Hòa.
Về tác phẩm Nguyễn Trường Tộ - Con người và di thảo của tác giả Trương
Bá Cần, tác phẩm trình bày những di thảo của Nguyễn Trường Tộ, đặc biệt là
những bản điều trần của ông gửi cho triều đình nhà Nguyễn và vua Tự Đức.

Trong số những di thảo đó, ông đã đưa ra rất nhiều những tư tưởng, đề nghị
canh tân đất nước, đặc biệt những đề nghị liên quan đến lĩnh vực chính trị - xã
hội,
Công trình Tìm hiểu tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh (1996), tác
giả Đỗ Thị Hòa Hới đã chỉ ra được những bối cảnh của sự ra đời tư tưởng dân
chủ của Phan Châu Trinh và giai đoạn phát triển trong tư tưởng dân chủ của
10


Phan Châu Trinh. Theo đó, tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh được chia
ra làm hai thời kì: thời kì tiếp nhận và truyền bá tư tưởng dân chủ ở Việt Nam
những năm 1902 – 1911 và thời kỳ Phan Châu Trinh hoạt động ở Pháp và
những năm cuối đời ở Việt Nam 1911-1925.
Trong mỗi giai đoạn, tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh được phát
triển theo sự biến động của lịch sử để phù hợp với hoàn cảnh lịch sử. Nếu như
giai đoạn trước 1911 là thời kỳ vận động trong tư tưởng Duy tân của ông với
những tư tưởng nổi bật như đề cao con người, vai trò của người dân, của quần
chúng nhân dân trong xã hội hay việc giải quyết mâu thuẫn cơ bản nhất của
xã hội Việt Nam lúc bấy giờ… Sang giai đoạn sau 1911, ông đã phát triển
hơn nữa những tư tưởng dân chủ đó của mình. Cụ thể thông qua việc ông
công khai đấu tranh đòi quyền dân chủ cho nhân dân Việt Nam, yêu cầu chính
quyền thực dân thực thi dan chủ như như ở “chính quốc”; ông cũng đưa ra mô
hình nhà nước phù hợp với xã hội Việt Nam… Như vậy, trong mỗi giai đoạn,
Phan Châu Trinh đề xuất những tư tưởng cải cách phù họp với hoàn cảnh xã
hội. Nhưng mục đích cao nhất trong tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh
đó chính là việc thực thi dân chủ mà theo ông thực dân Pháp đã đi ngược lại
với tinh thần “Tự do – Bình đẳng – Bác ai” như cách mạng tư sản Pháp đã
làm được.
Trong số những nho sĩ duy tân tiêu biểu giai đoạn cuối thế kỷ XIX –
đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu được coi là đại diện xuất sắc nhất trong trào

lưu canh tân, đổi mới đất nước những năm đầu thế kỷ XX. Đã có rất nhiều
công trình nghiên cứu về Phan Bội Châu cũng như cuộc đời, sự nghiệp
cách mạng của ông. Nhưng nghiên cứu về tư tưởng của Phan Bội Châu
phải kể đến tác phẩm Tư tưởng triết học và chính trị của Phan Bội Châu
(2005) của tác giả Nguyễn Văn Hòa.

11


Tác phẩm đã trình bày những tư tưởng triết học cũng như chính trị của
Phan Bội Châu. Đặc biệt những tư tưởng về chính trị của ông có ý nghĩa vô
cùng quan trọng trong tiến trình cách mạng Việt Nam giai đoạn này. Trong tư
tưởng chính trị của Phan Bội Châu giai đoạn này, giải phóng dân tộc được coi
là mục đích tối cao, xuyên suốt trong quá trình hoạt động cách mạng của ông.
Như vậy, ởcác trình nghiên cứu về nho giáo và nho sĩ duy tân, các tác
giả đã khái quát nên bức tranh về lịch sử nho giáo nói chung và tư tưởng của
nho sĩ duy tân Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX. Các
công trình đã trình bày được những đặc điểm nổi bật nhất về những tư tưởng
của các nho sĩ giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX. Nhưng bên cạnh
đó, các công trình cũng chưa đề cập được một cách sâu sắctư tưởng chính trị xã hội của nho sĩ duy tân giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX.
Tóm lại, việc nghiên cứu tư tưởng nho sĩ duy tân giai đoạn cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX được nhiều tác giả, nhiều nhà nghiên cứu quan tâm với
các phương diện khác nhau. Đặc biệt trên phương diện tư tưởng chính trị - xã
hội. Đây là nội dung có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong tiến trình lịch sử tư
tưởng của các nho sĩ duy tân nói riêng và toàn bộ tiến trình lịch sử tư tưởng
Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX. Với ý nghĩa đó, tác giả
đã lựa chọn đề tài làm luận văn thạc sĩ.
3.

ục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích: Luận văn phân tích làm rõ tư tưởng chính trị - xã hội của các

nho sĩ duy tân, cụ thể là Nguyễn Trường Tộ, Phan Bội Châu và Phan Châu
Trinh. Từ đó, chỉ ra những giá trị, hạn chế của những tư tưởng này trong giai
đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX và trong thời đại ngày nay.
Nhiệm vụ:

12


- Phân tích những điều kiện và tiền đề dẫn đến sự hình thành tư tưởng
chính trị - xã hội của Nguyễn Trường Tộ, Phan Bội Châu và Phan Châu
Trinh.
- Phân tích một số nội dung tư tưởng chính trị - xã hội của ba nhà tư
tưởng Nguyễn Trường Tộ, Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh.
- Phân tích giá trị, hạn chế trong tư tưởng chính – trị xã hội của Nguyễn
Trường Tộ, Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh trong bối cảnh giai
đoạn cuối thể kỷ XIX – đầu thế kỷ XX.
4. Đ i tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tư tưởng chính trị - xã hội của các nho sĩ duy tân
giai đoạn cuối thế kỷ XIX (từ năm 1868) đến đầu thế kỷ XX (1925) qua
tư tưởng của các nho sĩ tiêu biểu: Nguyễn Trường Tộ, Phan Bội Châu và
Phan Châu Trinh
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khác như: thống nhất logic và
lịch sử, phân tích và tổng hợp…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần vào việc nghiên cứu tư
tưởng chính trị - xã hội giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX nói riêng

và lịch sử tư tưởng Việt Nam nói chung.
Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu học
tập, nghiên cứu về lịch sử tư tưởng Việt Nam giai đoạn thế kỷ XIX – XX.
7.

ết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn

bao gồm 2 chương, 4 tiết.

13


N I DUNG
ƢƠ
NHỮ

1

Đ ỀU KIỆN VÀ TIỀ ĐỀ CHO SỰ

ƢỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ H I CỦ

Ì

SĨ D Y

Ƣ
CU I THẾ


KỶ XIX – ĐẦU THẾ KỶ XX
1.1.

B i cảnh thế giới và Việt Nam cu i thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX

1.1.1. Tình hình thế giới cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, tình hình thế giới có nhiều chuyển
biến to lớn. Chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai
đoạn độc quyền. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của của nền kinh tế các
nước TBCNngày càng làm gia tăng nhu cầu tìm kiếm thuộc địa để cung cấp
nguồn tài nguyên và thị trường tiêu thụ hàng hóa. Để mở rộng thị trường, chủ
nghĩa tư bản tiến hành xâm lược các nước Á, Phi, Mỹ La tinh – nơi có đẩy đủ
điều kiện đáp ứng nhu cầu phát triển của chủ nghĩa tư bản.
Trong quá trình xâm lược thuộc địa, Đông Á và Đông Nam Á được xem
là mục tiêuxâm lược mà của các nước đế quốc. Cũng giống như quá trình xâm
lược thuộc địa ở các châu lục khác, thủ đoạn nham hiểm nhất mà các nước đế
quốc sử dụng chính là trực tiếp đe dọa đến chủ quyền và sự tồn vong của các
quốc gia, dân tộc. Lúc này, những người đứng đầu nhà nước của các quốc gia
này tỏ ra lúng túng, bị động bởi họ không thể đánh giá đúng bản chất sức mạnh
và dã tâm xâm lược của chủ nghĩa thực dân. Mặt khác, những bất ổn trong chính
bộ máy nhà nước và đời sống xã hội càng tạo cơ hội cho các nước đế quốc thành
công trong công cuộc biến các nước Á Đông thành thuộc địa.
Đến đầu thế kỷ XX, miếng bánh thuộc địa phương Đông về cơ bản
đã phân chia xong. Sự xâm lược của các nước đế quốc phương Tây một
mặt đã làm phá vỡ xã hội cổ truyền đã tồn tại hàng nghìn năm ở các nước
phương Đông. Nhưng mặt khác, với công cuộc khai thác thuộc địa, một
14


mầm mống của một cơ cấu xã hội mới cũng dần được hình thành - mầm

mống sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Nhìn lại lịch sử xâm lược của chủ nghĩa thực dân phương Tây và quá
trình đấu tranh chống xâm lược của các dân tộc Á Đông trong những năm
cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, có thể thấy rằng, mỗi quốc gia, dân tộc đã
có những sự thay đổi, chuyển biến để thích nghi với hoàn cảnh lịch sử lúc bấy
giờ. Theo đó, các quốc gia, dân tộc sẽ lựa chọn những phương thức ứng phó
khác nhau, trong đó nổi lên ba phương thức tiêu biểu:
Phương thức thứ nhất: đầu hàng, chấp nhận ách chiếm đóng của thực
dân Phương Tây [32, tr.42].
Đây là phương thức ứng phó đã được các quốc gia Campuchia,
Philippin, Inđônêxia lựa chọn. Trong đó, trường hợp của Campuchia là một ví
dụ điển hình nhất. Vốn nằm trong địa bàn tranh chấp quyền lực giữa Xiêm và
Việt Nam, nhưng khi thực dân Pháp xâm lược thì quốc vương Nôrôđôm đã tự
nguyện thần phục nhằm thoát khỏi sức ép của hai nước láng giềng.
Phương thức ứng phó thứ hai: kiên quyết đứng lên đấu tranh chống lại
cuộc xâm lược của thực dân phương Tây bằng biện pháp kháng chiến [32,
tr.42]. Đây là phương thức ứng phó được nhiều dân tộc Đông Á lựa chọn
nhất. Các quốc gia lựa chọn phương thức đối đầu này đều được sự ủng hộ
mạnh mẽ của đông đảo dân chúng.
Chính nhờ sự ủng hộ mạnh mẽ của quần chúngnhân dân càng làm cho
các phong trào phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, những phong trào đấu tranh
của các quốc gia, dân tộc ở khu vực Đông Á giai đoạn này đều gặp thất bại.
Nguyên nhân dẫn đến thất bại của các phong trào này chứa đựng cả yếu tố
khách quan và chủ quan. Điều đó chứng tỏ trong bối cảnh thế kỷ XIX,
phương thức kháng chiến theo kiểu truyền thống không phải là sự lựachọn
phù hợp để đối phó với chủ nghĩa thực dân Phương Tây.
15


Phương thức ứng phó thứ ba: tiến hành cải cách, duy tân theo mô hình

phát triển của các nước phương Tây.
Phương thức ứng phó này được lựa chọn một mặt đối phó với nguy cơ
xâm lược của chủ nghĩa tư bản, nhưng đồng thời góp phần thúc đẩy quá trình
các quốc gia Đông Á tự thay đổi mô hình phát triển, tự lực giải thoát khỏi sự
trì trệ và bế tắc của lịch sử.
Mặc dù công cuộc duy tân, cải cách được thực hiện và thể hiện dưới
nhiều hình thức và sắc thái khác nhau, song đã thể hiện ý chí, nỗ lực tự thân
vận động của các dân tộc Đông Á trong việc mô phỏng mô hình phát triển tư
bản chủ nghĩa của phương Tây nhằm chỉnh sửa mô hình phát triển truyền
thống của mình, mở ra con đường phát triển mới của dân tộc mình thoát khỏi
tình trạng lạc hậu, thoát khỏi họa xâm lăng của chủ nghĩa thực dân phương
Tây.Tiêu biểu cho phương thức ứng phó này là Nhật Bản và Trung Quốc.
Nhật Bản trước năm 1868 là một nước phong kiến. Từ giữa thế kỷ
XIX, Nhật Bản cũng như các quốc gia phương Đông khác, đều trở thành
miếng mồi cho các nước thực dân phương Tây xâu xé. Trước áp lực của các
nước phương Tây đòi mở cửa, Nhật Bản đứng trước hai lựa chọn: tăng cường
hệ thống phòng thủ để chống lại sự xâm lược và yêu sách đòi mở cửa của
thực dân phương Tây. Thứ hai, chấp nhận mở cửa giao thương với các nước
phương Tây, tránh được họa xâm lăng.
Trong bối cảnh đó, chính quyền Nhật đã lựa chọn mở cửa giao thương
với phương Tây. Quyết định này của chính phủ Nhật Bản cho thấy nỗ lực của
chính quyền trong việc giữ thế chủ động ngoại giao và hy vọng vào khả năng
duy trì độc lập. Sau cuộc đấu tranh quyết liệt và thắng lợi chống lại các thế
lực thủ cựu, Nhật Bản đã bắt đầu công cuộc duy tân trên tất cả mọi mặt của
đời sống xã hội. Và thực chất của công cuộc cải cách của Nhật bản chính là
tuân theo những yêu cầu phát triển theo phương thức sản xuất tư bản chủ
16


nghĩa tuyvẫn còn giữ nhiều tàn tích phong kiến trọng yếu trong chính trị.

Nhờphát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa mà Nhật Bản giữ được độc
lập tự do cho dân tộc, sớm trở thành quốc gia cường thịnh trong khu vực và đi
theo con đường mà chủ nghĩa thực dân phương Tây đã đi: bành trướng chính
sách thực dân, tiến hành xâm lược thuộc địa.
Trung Quốc là quốc gia phong kiến điển hình nhất ở phương Đông.
Các nước như Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam… đều chịu ảnh hưởng mạnh
mẽ của văn minh Trung Hoa. Cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, cũng giống
như Việt Nam, Trung Quốc từ một quốc gia quân chủ phong kiến tập quyền
trở thành quốc gia nửa thuộc địa nửa phong kiến sau các cuộc xâm lược thực
dân phương Tây. Sau khi trở thành thuộc địa, mầm mống kinh tế tư bản chủ
nghĩa cũng dần xuất hiện. Chính sách bế quan tỏa cảng dần bị phá bỏ, mầm
mống kinh tế tư bản chủ nghĩa dần được hình thành. Bên cạnh đó, việc mở
cửa giao thương với bên ngoài cùng với những ảnh hưởng từ duy tân Nhật
Bản cũng tạo điều kiện cho sự thay đổi trong thế giới quan của giới trí thức
Trung Quốc, đồng thời là nguồn gốc của những trào lưu tư tưởng, cải cách kỷ
cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX.
Những năm đầu thế kỷ XX, cuộc đấu tranh của nhân dân Trung Quốc
không ngừng phát triển; các sĩ phu tiến bộ và trí thức tư sản đã mạnh dạn đòi
cải cách, sáng lập ra nhiềuhọc hội, học đường, nhà xuất bản. Tiêu biểu là chủ
trương “Biến pháp duy tân” do Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu đứng đầu,
tồn tại dưới tổ chức mang tên “Cường học hội”, với chủ trương chính duy trì
và cải tiến chế độ phong kiến nhà Thanh. Họ tiến hành công cuộc duy tân vào
năm 1898 học tập theo mô hình Nhật Bản. Nhưng sau đó phong trào thất bại,
biến pháp không thể thi hành do sự đàn áp của phe thủ cựu trong triều đình.
Bên cạnh đó, phong trào chưa có sự tham gia của quần chúng nhân dân, đây
có thể coi là lực lượng cơ bản nhưng biến pháp duy tân lại thiếu hụt điều này.
17


Biến pháp duy tân thất bại nhưng để lại những ý nghĩa to lớn trong việc

thức tỉnh ý thức của quần chúng nhân dân lao động trong việc chống ngoại xâm.
Bên cạnh tổ chức “Cường học hội” còn có “Đồng minh hội” (1905)
được thành lập dựa trên lực lượng chính là những trí thức Tây học do Tôn
Trung Sơn đứng đầu, lực lượng chính là giai cấp tư sản, hoạt động với chủ
trương đánh đổ Mãn Thanh, khôi phục Trung Hoa, thành lập chính phủ liên
hiệp. Đồng minh hội là đại diện tiêu biểu nhất của phong trào cách mạng tư
sản Trung Quốc đầu thế kỷ XX, lãnh đạo cách mạng Tân Hợi (1911) thành
công, lập ra Trung Hoa dân quốc. Từ đây, chế độ quân chủ chuyên chế bị lật
đổ, chế độ cộng hòa ra đời. Nhưng trên thực tế, cách mạng Tân Hợi vẫn chưa
giải quyết được vấn đề cơ bản nhất trong xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ là
đánh đuổi đế quốc, cũng chưa giải quyết được vấn đề ruộng đất cho nhân dân.
Từ nửa sau thế kỷ XIX, hầu hết các quốc gia Đông Nam Á đều trở
thành đối tượng xâm lược của các nước tư bản phương Tây. Đến những năm
90 của thế kỷ XIX, về cơ bản, miếng bánh thuộc địa Đông Nam Á đã được
phân chia xong. Thực dân Anh chiếm Malaixia, Mianma; Pháp chiếm Việt
Nam, Lào, Campuchia; Tây Ban Nha sau đó là Mỹ chiếm Philippin; Hà Lan
chiếm Indonesia. Ở Đông Nam Á chỉ có duy nhất Thái Lan thoát khỏi tình
trạng thuộc địa nhưng về cơ bản vẫn là nước phụ thuộc. Sau khi quá trình
xâm lược hoàn thành, các quốc gia phương Tây bắt đầu vào quá trình khai
thác thuộc địa. Cùng với đó là phong trào yêu nước, phong trào đấu tranh tại
các nước thuộc địa bùng lên mạnh mẽ. Nhưng hầu hết các phong trào này đều
thất bại. Phải đến khi cách mạng tháng Mười Nga (1917) thắng lợi, phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước Đông Nam Á mới có những
chuyển biến, dấu hiệu tích cực.
Vào những thập niên cuối thế kỷ XIX, đầu của thế kỷ XX, chủ nghĩa tư
bản ngày càng phát triển và có sự chuyển hóa, từ giai đoạn tự do cạnh tranh
18


sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc và bắt đầu bộc lộ những mặt hạn chế của

nó. Chính trong bối cảnh đó, cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 nổ ra và
giành thắng lợi, nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới ra đời.
Thắng lợi này đã mở ra một đường lối cứu nước mới cho các dân tộc bị
áp bức: con đường giải phóng dân tộc, xây dựng xã hội mới dưới ánh sáng
của chủ nghĩa Mác -Lênin.
Những chuyển biến về tình hình thế giới những năm cuối thế kỷ XIX –
đầu thế kỷ XX đã có những ảnh hưởng, tác động đến tình hình chính trị, kinh
tế xã hội nước ta giai đoạn này. Từ sự biến đổi về mặt xã hội, tạo nên sự hình
thành, phát triển tất yếu của kiến trúc thượng tầng tương ứng trong xã hội.
Hay nói cách khác, đây là điều kiện cần cho quá trình hình thành, chuyển biến
tư tưởng của các nho sĩ yêu nước ở Việt Nam giai đoạn này.
1.1.2. Bối cảnh Việt Nam cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX
Nửa cuối thế kỷ XIX, Pháp tiến hành xâm lược Đông Dương, trong đó
có Việt Nam. Từ khi thực dân Pháp nổ sung xâm lược nước ta vào năm 1858
đến năm 1883 sau Hiệp ước Harman, chỉ 24 năm thực dân Pháp đã biến nước
ta từ một nước phong kiến độc lập trở thành một nước thuộc địa nửa phong
kiến và cuốn vào vòng xoáy của chủ nghĩa tư bản.
Sau khi biến nước ta thành thuộc địa, thực dân Pháp bắt tay thiết lập bộ
máy thống trị thực dân và tiến hành các cuộc khai thác thuộc địa nhằm cướp đoạt
tài nguyên, bóc lột nhân công rẻ mạt và mở rộng thị trường tiêu thụ. Từ năm 1897,
thực dân Pháp bắt đầu tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất.
Dưới tác động của khai thác thuộc địa, tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội như chính trị, kinh tế, văn hóa – giáo dục đều có sự chuyển biến mạnh mẽ.
* Về kinh tế:
Khi tiến hành xâm lược Việt Nam, mục đích của thực dân Pháp muốn
biến Việt Nam thành thị trường độc chiếm để bóc lột sức lao động với nguồn
19


nhân công rẻ mạt cùng với nguồn nguyên liệu phong phú giá rẻ, nhằm thu lợi

nhuận tối đa, phục vụ lợi lích của “mẫu quốc”. Để làm được điều đó, thực dân
Pháp tiến hành chương trình khai thác thuộc địa với việc du nhập các phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa vào nước ta. Nhưng đồng thời thực dân Pháp
vẫn duy trì các phương thức sản xuất phong kiến để thu lợi nhuận siêu ngạch.
Điều này dẫn đến nền tảng và cơ cấu kinh tế - xã hội của nước ta có sự
chuyển biến.
Dưới sự tác động của hai phương thức sản xuất này, nền tảngcơ cấu
kinh tế - xã hội của nước ta dần chuyển theo tư bản chủ nghĩa nhưng là thứ tư
bản chủ nghĩa phụ thuộc vào chính quốc.
Đầu tiên, những đô thị mới mọc lên với những trung tâm kinh tế và
tụđiểm cư dân mới. Cùng với đó, quan hệ kinh tế nông thôn bị phá vỡ để
nhường chỗ cho sự hình thành của những đô thị mới.
Cơ cấu kinh tế truyền thống bị thay đổi, nền sản xuất nông nghiệp
không còn giữ vai trò độc tôn như trước. Các công trường, xí nghiệp, thương
điếm, nhà máy, hầm mỏ lần lượt ra đời.
Nhưng với việc vẫn duy trì phương thức sản xuất phong kiến kinh tế
nước ta không thể phát triển lên chủ nghĩa tư bản một cách bình thường được,
nền kinh tế Việt Nam bị kìm hãm trong vòng lạc hậu và phụ thuộc nặng nề
vào kinh tế Pháp. Nhưng sự chuyển biến trong cơ cấu kinh tế, đã tạo điều kiện
thuận lợi để các luồng tư tưởng bên ngoài có thể du nhập vào nước ta.
Mặt khác, những chuyển biến trong lĩnh vực kinh tế đã làm phá sản
chính sách bế quan tỏa cảnh của nhà Nguyễn, tạo điều kiện để Việt Nam tiếp
xúc với thế giới. Mặc dù trước đó, việc trở thành thuộc địa của thực dân Pháp
phần nào mở ra cơ hội cho việc tiếp xúc với thế giới nhưng lại trong tâm thế
của một nước thuộc địa, phụ thuộc và “chỉ có quan hệ với riêng một nước Pháp
mà thôi”.
20


Tóm lại, nền kinh tế Việt Nam cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX về cơ

bản vẫn là nền kinh tế tự cung tự cấp. “Trên thực tế, các lực lượng sản xuất xã
hội cũ vẫn giữ một vai trò quan trọng” [29, tr.11].
Dưới những điều kiện kinh tế này, đã làm thay đổi tính chất của xã hội
Việt Nam. Cái cũ, cái truyền thống bị phá vỡ, cùng với đó là sự xuất hiện của
phương thức sản xuất mới. Đây là nguyên nhân quyết định đến sự thay đổi
của toàn bộ nội dung trong đời sống tinh thần của xã hội Việt Nam giai đoạn
này nói chung và các nhà tư tưởng giai đoạn này nói riêng.
* Về chính trị:
Nhằm mục đích phục vụ cho công cuộc khai thác thuộc địa, ngay sau
khi hoàn thành xâm lược nước ta, thực dân Pháp đã thiết lập bộ máy cai trị từ
trung ương đến địa phương. Song song với sự tồn tại với chính quyền thực
dân đóng vai trò thống trị, thực dân Pháp đồng thời duy trì bộ máy chính
quyền phong kiến bù nhìn, biến thành công cụ tay sai đắc lực cho chính quyền
thực dân trong công cuộc thống trị và khai thác thuộc địa.
Những năm cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, những phong trào đấu
tranh của nhân dân ta chống lại sự đô hộ của chính quyền thực dân bùng lên
mạnh mẽ nhưng thực dân Pháp đã dùng vũ lực để đàn áp những phong trào
đó. Chúng thẳng tay đàn áp, khủng bố, các cuộc đấu tranh của dân Việt Nam
trong biển máu.
Cùng với việc đàn áp các phong trào đấu tranh của nhân dân ta, chính
quyền thực dân còn thực hiện những chính sách cai trị hết sức thâm độc, như
chia để trị, áp đặt những chế độ cai trị khác nhau tại Bắc kì, Trung kì và Nam kì..
Chưa dừng lại ở đó, thực dân Pháp còn nhập ba kì của nước ta với Lào và
Campuchia để lập ra liên bang Đông Dương thuộc Pháp, xóa tên nước ta khỏi
bản đồ thế giới.

21



×