Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Tội tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực tiễn tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (343.84 KB, 94 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM TRƯỜNG TRUNG

TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TỪ THỰC TIỄN TỈNH
BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội - 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM TRƯỜNG TRUNG

TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TỪ THỰC TIỄN TỈNH
BẮC NINH

Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8380104

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. PHÙNG THẾ VẮC

Hà Nội - 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu khoa học, độc lập
của riêng tôi; các số liệu, ví dụ, kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là
trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Các luận điểm kế thừa được trích dẫn rõ
ràng. Kết quả nghiên cứu của Luận văn chưa từng được công bố trong công
trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1

Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI
TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
7
1.1.
Những vấn đề lý luận về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
7
1.1.1.

Khái niệm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

7

1.1.2.

Khái quát lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam về tội Tàng trữ trái phép


chất ma túy
1.1.3.
Cấu thành tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo BLHS 2015.

11
18

1.2.

Pháp luật về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy

21

1.3.

Phân biệt Tội tàng trữ trái phép chất ma túy với những tội phạm về ma

túy khác
Kết luận chương 1

30
34

Chương 2 THỰC TIỄN XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP
CHẤT MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH.
35
2.1.
Định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội Tàng trữ trái phép chất
ma túy
2.2.


35
Thực tiễn xét xử sơ thẩm các vụ án Tàng trữ trái phép chất ma túy trên

địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
42
2.3.
Đánh giá ưu, nhược điểm và nguyên nhân của hoạt động Định tội danh
và quyết định hình phạt
Kết luận chương 2

48
66

Chương 3 CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA
TÚY TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH
68
3.1.
Một số phương hướng cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp
luật hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh.
68
3.2.
Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
hình sự về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh.
Kết luận chương 3

68
81


KẾT LUẬN

82

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

84


DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
BLHS:

Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

BLHS năm 2015

Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung
năm 2017

CQĐT:

Cơ quan điều tra

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân


TAND:

Tòa án nhân dân

HĐXX

Hội đồng xét xử

TTLT số 17:

Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCAVKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007
của Bộ công an, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ tư pháp quy
định về việc hướng dẫn áp dụng một số quy
định Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy”
của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung
bởi TTLT số 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTCTANDTC-BTP


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bắc Ninh là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, có ranh
giới giáp các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Hưng Yên và thủ đô Hà Nội. Với vị
trí của mình, tỉnh Bắc Ninh rất thuận lợi trong giao lưu buôn bán thông
thường và có nhiều hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy
chạy qua nói liền với thủ đô Hà Nội và các tỉnh lân cận khác. Đặc biệt những
năm gần đây tỉnh Bắc Ninh có sự phát triển mạnh ở các khu công nghiệp, cụm
công nghiệp, làng nghề với tốc độ đô thị hóa nhanh, đây là điều kiện thuận lợi
để Bắc Ninh phát triển mạnh về kinh tế xã hội. Tuy nhiên, cùng với sự tăng

trưởng và phát triển kinh tế - xã hội thì mặt trái của nó là các tệ nạn xã hội đặc
biệt tệ nạn ma túy có diễn biến phức tạp. Qua số liệu thống kê của ngành Tòa
án trong 05 năm giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019, toàn tỉnh Bắc Ninh thụ
lý giải quyết 7.149 vụ án hình sự trong đó có 2.977 vụ án về các tội phạm ma
túy chiếm 41,64% trong tổng số tội phạm hình sự toàn tỉnh. Riêng tội phạm
Tàng trữ trái phép chất ma túy chiếm 1.766 vụ chiếm 59,32% tổng số tội
phạm về ma túy, chiếm 24,70% trong tổng số tội phạm hình sự toàn tỉnh.
Thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm tại địa bàn tỉnh Bắc Ninh cũng cho
thấy tình hình tội phạm về ma túy nói chung và tội Tàng trữ trái phép chất ma
túy nói riêng ngày càng phức tạp gia tăng về cả số lượng lẫn độ tinh vi trong
hành vi phạm tội. Công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm còn có những
hạn chế, vướng mắc cần phải được hoàn thiện về nhiều mặt gồm cả mặt pháp
luật, cũng như hướng áp dụng về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy bằng pháp
luật hình sự.
Vì vậy, Tác giả lựa chọn đề tài “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy từ
thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” để nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ tốt nghiệp của
mình nhằm nghiên cứu các các quy định của pháp luật, tìm ra những vướng
mắc, khó khăn trong hoạt động định tội danh, quyết định hình phạt về tội
Tàng trữ trái phép chất ma túy. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra một số kiến nghị
1


phương hướng, giải pháp cơ bản góp phần nâng cao chất lượng áp dụng pháp
luật hình sự về loại tội phạm này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, đã có nhiều tác giả nghiên cứu về các tội phạm ma túy và tội
“Tàng trữ trái phép chất ma túy” như:
-

“Giáo trình luật hình sự Việt Nam – Phần các tội phạm”, Trường


Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội (2009);
-

“Giáo trình luật hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm”, Khoa luật,

Đại học quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội (1997);
-

“Giáo trình luật hình sự Việt Nam - Phần chung” (2014), Võ Khánh

Vinh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội;
-

“Giáo trình luật hình sự Việt nam - phần các tội phạm” (2008), Võ

Khánh Vinh, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;
-

“Lý luận chung về định tội danh” (2013), Võ Khánh Vinh, Nxb Khoa

học xã hội”, Hà Nội;
-

“Tội phạm học, Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Nxb

Chính trị quốc gia, 1994;
-

Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 – phần các tội phạm”


Tập thể tác giả TS. Phùng Thế Vắc, TS. Trần Văn Luyện, LS,Th.S. Phạm
Thanh Bình, Th.S Nguyễn Đức Mai, Th.S Nguyễn Sĩ Đại, Th.S Nguyễn Mai
Bộ - Nxb Công an nhân dân, Hà Nội 2001.
-

“Bình luận khoa học BLHS 2015 – phần các tội phạm” Tập thể tác

giả PGS.TS Trần Văn Luyện, PGS.TS Phùng Thế Vắc, TS. Lê Văn Thư, TS.
Nguyễn Mai Bộ, LS.ThS Phạm Thanh Bình, TS. Nguyễn Ngọc Hà, LS Phạm
Thị Thu – Nxb Công an nhân dân.
-

“Bình luận khoa học chuyên sâu Bộ Luật Hình sự - Phần các tội

phạm”, Th.s Đinh Văn Quế, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2005;
-

“Bình luận khoa học BLHS năm 1999 của Thạc sĩ Đinh Văn Quế”,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000;
2


-

“Định tội danh và quyết định hình phạt” - Dương Tuyết Miên - Nxb

-


“Các tội phạm về ma túy ở Việt Nam cơ sở lý luận và thực tiễn xét xử

(tài liệu tham khảo dùng cho các Thẩm phán, thư kí Tòa án)”, Phạm Minh
Tuyên, nxb Hồng Đức, 2013.
Ở cấp độ luận văn thạc sĩ cũng có nhiều đề tài về tội phạm ma túy,
những luận văn thạc sĩ sau đây về tội phạm ma túy đã được học viên tham
khảo:
- Luận văn Thạc sĩ Luật học: “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái

phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực
tiễn tỉnh Sơn La”, của tác giả Mai Ngọc Chính, Học viện khoa học xã hội,
năm 2017.
- Luật văn Thạc sỹ Luật Học: “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy từ

thực tiễn huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu”, của tác giả Nguyễn Sỹ Quản, Học
viện khoa học xã hội, năm 2019.
- Luận văn Thạc sĩ Luật học: “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái

phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực
tiễn tỉnh Lai Châu” của tác giả Nguyễn Huy Hoàng, Học viên Khoa học xã
hội- Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, năm 2013;
- Luận văn Thạc sĩ Luật học: “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái

phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực
tiễn Thành phố Đà Nẵng” của tác giả Phạm Trung Hiếu, Học viên Khoa học
xã hội - Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, năm 2013;
- Luận văn Thạc sĩ Luật Học: “Tội mua bán trái phép chất ma túy theo

pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” của tác giả Nguyễn
Thành Tất, Học viện Khoa học xã hội, năm 2018

- Luận văn Thạc sĩ Luật học: “Định tội danh đối với tội tàng trữ, vận

chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy từ thực tiễn tỉnh Đắk

3


Lắk” của tác giả Phan Thị Hồng Thắng, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà
Nội, năm 2013;
Những bài viết tạp chí được học viên tham khảo:
- TS. Phạm Minh Tuyên: Một số vấn đề lý luận về các tội phạm ma túy

theo Bộ luật hình sự năm 2015 và hướng dẫn áp dụng – Tạp chí Tòa án nhân
dân số 15, 16 năm 2016; Một số vấn đề về giám định hàm lượng chất ma túy
theo công văn số 234/TANDTC-HS ngày 17/9/2014 của TAND tối cao – tạp
chí Tòa án nhân dân số 21/2014; Những điểm mới cơ bản đối với các tội
phạm về ma túy theo Bộ luật hình sự 2015 – một số vướng mắc, kiến nghị tạp chí Tòa án nhân dân số 12 năm 2017.
- Nguyễn Tuyết Mai: Bộ luật hình sự năm 2015 hoàn thiện quy định về

các tội phạm về ma túy – Tạp chí Tòa án nhân dân số 18 năm 2017.
- Quách Quỳnh Dung: Áp dụng pháp luật trong việc giải quyết những vụ

án ma túy có từ hai chất ma túy trở lên theo quy định của Bộ luật hình sự năm
2015 – Tạp chí Kiểm sát số 12 năm 2019
- Dương Văn Thịnh: Bàn về việc áp dụng tình tiết phạm tội 02 lần trở lên

và đối với 02 người trở lên trong các tội phạm về ma túy – Tạp chí Kiểm sát
số 22 năm 2019.
- Trần Thanh Duẩn: Bất cập trong việc xử lý đồng phạm về tội Tàng trữ


trái phép chất ma túy – Tạp chí kiểm sát số 18 năm 2019
Trong những công trình nghiên cứu nêu trên, chưa có công trình nghiên
cứu nào nghiên cứu về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo BLHS 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017) trên cơ sở thực tiễn tỉnh Bắc Ninh. Trong luận
văn học viên dựa trên quy định của pháp luật hình sự Việt Nam, những số liệu
về thực tế xét xử tội phạm ma túy tại địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Qua đó, nghiên
cứu và chỉ ra những điểm hạn chế, bất cập, đồng thời kiến nghị hoàn thiện các
quy định về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu của việc nghiên cứu đề tài là:
4


- Tìm hiểu các vấn đề lý luận về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
- Phân tích các dấu hiệu cấu thành tội phạm, hình phạt đối với tội Tàng

trữ trái phép chất ma túy theo quy định của BLHS 2015 sửa đổi bổ sung năm
2017
- Trình bày thực tiễn xét xử tội tàng trữ trái phép chất ma túy thông qua

02 hoạt động là định tội danh và quyết định hình phạt tại hệ thống TAND hai
cấp tỉnh Bắc Ninh.
- Trình bày sự cần thiết và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng áp dụng

pháp luật hình sự về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lí luận và thực tiễn áp dụng
pháp luật về định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội Tàng trữ trái
phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh từ năm 2015 – 2019.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về lí luận: Làm rõ lí luận về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy trong
quy định tại Điều 194 BLHS 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009), so sánh với
những quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 (được sửa đổi bổ sung năm
2017); làm rõ lí luận về định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội Tàng
trữ trái phép chất ma túy.
- Về mặt thực tiễn: Đề tài giới hạn nghiên cứu thực tiễn định tội danh và
quyết định hình phạt trong giai đoạn xét xử sơ thẩm đối với tội Tàng trữ trái
phép chất ma túy trong phạm vi không gian là tỉnh Bắc Ninh, thời gian là giai
đoạn từ năm 2015 - 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được học viên triển khai dựa trên cơ sở phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, văn bản quy phạm pháp luật
của Nhà nước về các vấn đề tội phạm và hình phạt, về đấu tranh phòng, chống
tội phạm; lý luận về tội phạm học, Luật hình sự và tố tụng hình sự.
5


Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng các phương pháp cụ thể
và đặc thù của khoa học xã hội như : phương pháp lịch sử, phương pháp phân
tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, nghiên cứu, đánh giá, logic... để làm sáng tỏ
các vấn đề của luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về lý luận: Trên cơ sở kế thừa các công trình khoa học đã được công bố,
Tác giả tiếp tục nghiên cứu một cách hệ thống; góp phần làm sáng tỏ các vấn
đề lý luận về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Về thực tiễn: Những kết quả nghiên cứu của đề tài là nguồn tài liệu tham
khảo cho hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt về tội Tàng trữ trái
phép chất ma túy của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Một số đề xuất, kiến nghị của luận văn sẽ cung cấp những giải pháp khoa học

phục vụ cho hoạt động thực tiễn áp dụng Bộ luật hình sự Việt Nam liên quan
đến tội tàng trữ ma túy, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh
phòng, chống tội này không chỉ đối với địa bàn tỉnh Bắc Ninh mà còn có giá
trị áp dụng trong phạm vi cả nước trong giai đoạn hiện nay và thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn gồm 03 chương và các phần: mở đầu, kết luận và
danh mục tài liệu tham khảo.
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung và pháp luật về tội Tàng trữ trái
phép chất ma túy
Chương 2: Thực tiễn xét xử các vụ án Tàng trữ trái phép chất ma túy trên
địa bàn tỉnh Bắc Ninh
Chương 3: Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật
hình sự về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI TÀNG
TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
1.1. Những vấn đề lý luận về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
1.1.1. Khái niệm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Trong Bộ luật hình sự Việt Nam không đưa ra khái niệm về “Tội tàng trữ
trái phép chất ma túy”. Tuy nhiên, ta có thể tìm hiểu khái niệm “Tội tàng trữ
trái phép chất ma túy” qua các khái niệm “chất ma túy” khái niệm “tội phạm”,
khái niệm “tàng trữ trái phép chất ma túy” và các quy định của pháp luật hình
sự Việt Nam về tội danh này.
1.1.1.1. Khái niệm “Chất ma túy”,
Hiện nay, các nhà khoa học, các tổ chức trên thế giới đã đưa ra nhiều
định nghĩa về ma túy.

Tổ chức y tế thế giới (WHO) định nghĩa “Ma túy là các chất độc, khi
xâm nhập vào cơ thể sẽ phá hủy các cơ quan nội tạng”.
Liên hợp quốc định nghĩa về Ma túy như sau: “Ma túy là các chất có
nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp, khi xâm nhập vào cơ thể làm thay đổi
trạng thái tâm sinh lý của người sử dụng”
Luật phòng, chống ma túy của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam định nghĩa về Ma túy: “Chất ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng
thần được quy định trong các danh mục do chính phủ ban hành”; Trong luật
này cũng nêu cụ thể “Chất gây nghiện là chất kích thích hoặc ức chế thần
kinh, dễ gây tình trạng nghiện đối với người sử dụng”; “Chất hướng thần là
chất kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác nếu sử dụng nhiều lần có
thể dẫn tới tình trạng nghiện đối với người sử dụng.” [6]
Tuy nhiên, không phải tất cả những chất mang đặc tính trên đều được coi
là ma túy. Ví dụ như chất Nicotine trong thuốc lá. Theo các nghiên cứu khoa
học, Nicontine được ghi nhận như là một chất gây nghiện mạnh tương tự như
Heroin và Cocain (hai loại ma túy thường gặp), Nicotine cũng là một chất gây

7


hại đối với sức khỏe con người nếu sử dụng thường xuyên. Như vậy, Nicotine
thỏa mãn khái niệm tổng quát về ma túy như có đặc tính gây nghiện, hướng
thần, khi sử dụng sẽ gây hại cho sức khỏe. Nhưng chất này không được coi là
chất ma túy thậm chí trên thị trường các sản phẩm chứa Nicotine (cụ thể là
thuốc lá) vẫn được kinh doanh và sử dụng. Vậy những chất, hợp chất nào
được coi là ma túy? Trong khái niệm về “Chất ma túy” tại Luật phòng, chống
ma túy có chỉ rõ “… được quy định trong các danh mục do chính phủ ban
hành”. Để thực hiện chế độ độc quyền về quản lý các chất ma túy, Nhà nước
ban hành danh mục các chất, hợp chất là ma túy cũng như là tiền chất ma túy.
Mới nhất, tại nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính Phủ quy

định các danh mục chất ma túy và tiền chất đã liệt kê 515 loại chất, hợp chất
là ma túy, 44 loại chất, hợp chất được coi là tiền chất ma túy.
Từ các phân tích trên có thể rút ra khái niệm: Ma túy là tên gọi của
những chất có nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp có đặc tính gây nghiện,
hướng thần mà khi sử dụng sẽ gây hại cho sức khỏe, thay đổi trạng thái tâm
lý của con người, được quy định trong các danh mục do chính phủ ban hành.
1.1.1.2. Khái niệm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy

Cũng như mọi nghiên cứu khoa học xã hội khác, việc xác định khái niệm
“Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong các
nghiên cứu của bài viết. Vậy “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” là gì? Trong
hệ thống pháp luật hình sự Việt nam không đưa ra khái niệm cụ thể của tội
này. Tuy nhiên, do là một loại tội phạm, khái niệm “Tội tàng trữ trái phép chất
ma túy” mặc dù là khái niệm độc lập nhưng phải có tính chất cụ thể hóa khái
niệm “Tội phạm” và hoàn toàn phụ thuộc vào nội dung của khái niệm “Tội
phạm”.
Điều 8 BLHS năm 2015 quy định:“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho
xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách
nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý,
xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm

8


phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật
tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con
người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác
của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải
bị xử lý hình sự.”[3. Đ8]
Khoản 1, Điều 249, BLHS 2015 quy định “1. Người nào tàng trữ trái

phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất
trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù
từ 01 năm đến 05 năm”[3. K1Đ249]
Tại tiết 3.1 mục 3 phần II TTLT số 17 hướng dẫn “Tàng trữ trái phép
chất ma túy là cất giữ, cất giấu bất hợp pháp chất ma túy ở bất cứ nơi nào
(như trong nhà, ngoài vườn, chôn dưới đất, để trong vali, cho vào thùng xăng
xe, cất dấu trong quần áo, tư trang mặc trên người hoặc theo người…) mà
không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma
túy…”[8]
Trên cơ sở khái niệm “tội phạm” và các quy định về tội Tàng trữ trái
phép chất ma túy trong hệ thống pháp luật hình sự, ta có thể đưa ra định nghĩa
về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy như sau:
“Tội tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi cất giữ, cất giấu bất hợp
pháp chất ma túy ở bất cứ nơi nào mà không nhằm mục đích mua bán, vận
chuyển hay sản xuất trái phép chất ma túy do người có năng lực trách nhiệm
hình sự thực hiện một cách cố ý nhằm xâm phạm chế độ độc quyền về quản lý
chất ma túy của Nhà nước được quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự”
1.1.1.3. Đặc điểm của Tội tàng trữ trái phép chất ma túy

-

Tính nguy hiểm cho xã hội: Tính nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu

cơ bản, quan trọng nhất, quyết định những dấu hiệu khác của tội phạm. Nguy
hiểm cho xã hội có nghĩa là gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho
các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Trong tội tàng trữ trái phép chất
ma túy, tính nguy hiểm cho xã hội được thể hiện ở việc hành vi tàng trữ trái

9



chất ma túy đã xâm phạm chế độ độc quyền trong việc cất giữ, lưu giữ chất
ma túy của Nhà nước. Hành vi này sẽ tạo điều kiện để tệ nạn ma túy lan rộng.
Ma túy là tệ nạn đặc biệt nguy hiểm, gây ảnh hưởng đến sức khỏe của người
sử dụng, gây suy thoái nòi giống, là nguyên nhân dẫn đến nhiều loại tội phạm
khác như trộm cắp, cướp giật, giết người … gây bất ổn, mất an ninh trật tự và
nguy hiểm cho người dân ngoài xã hội.
-

Tội Tàng trữ trái phép chất ma túy do người có năng lực trách nhiệm

hình sự thực hiện. Trong tội Tàng trữ trái phép chất ma túy không đặt ra vấn
đề pháp nhân phạm tội, được thể hiện bởi Điều 249 chỉ quy định chủ thể
phạm tội là “người nào…”
-

Tính có lỗi: Lỗi là thái độ chủ quan của con người đối với hành vi

nguy hiểm cho xã hội và đối với hậu quả của hành vi đó. Trong tội Tàng trữ
trái phép chất ma túy người phạm tội luôn được xác định có lỗi cố ý trực tiếp.
-

Tính trái pháp luật hình sự: Hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ được

coi là tội phạm nếu hành vi đó được quy định trong Bộ luật hình sự. Đối với
“Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, tính trái pháp luật hình sự được thể hiện
ở việc nhà nước quy định loại tội phạm này tại Điều 249 BLHS 2015. Mọi
hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy thỏa mãn cấu thành tội phạm được quy
định tại Điều 249 Bộ luật hình sự được coi là tội phạm và phải chịu trách
nhiệm hình sự đối với nhà nước. Ngược lại, các hành vi tàng trữ trái phép chất

ma túy nhưng không thỏa mãn những quy định của Điều luật trên thì không
coi là tội phạm. Người thực hiện hành vi đó không bị xử lý hình sự mà chỉ bị
xử lý bằng quy phạm pháp luật khác. Ví dụ: một cá nhân có hành vi tàng trữ
Quả thuốc phiện khô có khối dưới 05 kilogam mà người đó chưa bị xử phạt vi
phạm hành chính về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy hoặc đã bị kết án
về tội tàng trữ trái phép chất ma túy hoặc một trong các tội quy định tại các
điều 248, 250, 251 và 252 của BLHS, hoặc đã bị xử phạt hành chính, bị kết án
nhưng đã được xóa án tích thì không bị xử lý hình sự mà chỉ bị xử phạt vi
phạm hành chính.

10


-

Tính phải chịu hình phạt: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội

bị nhà nước nghiêm cấm. Do vậy, những người có hành vi phạm tội đều phải
chịu các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước là hình phạt. Nhà nước căn cứ
vào tính nguy hiểm cho xã hội để quy định mức hình phạt đối với từng tội
phạm cụ thể. Điều 249 Bộ luật hình sự quy định hình phạt đối với người phạm
tội tàng trữ trái phép chất ma túy là tù có thời hạn và tù chung thân (tùy tính
nguy hiểm của hành vi). Ngoài ra, theo quy định tại Điều 249, người phạm tội
có thể bị áp dụng thêm các hình phạt bổ sung như phạt tiền, phạt cấm đảm
nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 đến 05
năm hoặc bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
1.1.2. Khái quát lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam về tội Tàng trữ
trái phép chất ma túy
1.1.2.1. Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban
hành Bộ luật hình sự năm 1985.

Nhận thức được tác hại to lớn do ma túy gây ra, ngay sau khi Nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:
"Chế độ thực dân đã đầu độc dân ta với rượu và thuốc phiện. Nó đã dùng mọi
thủ đoạn nhằm hủ hóa dân tộc chúng ta bằng những thói xấu, lười biếng gian
giảo, tham ô và những thói xấu khác. Cuối cùng tôi đề nghị tuyệt đối cấm
thuốc phiện". Để thực hiện điều này, ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã ký sắc lệnh số 47/SL tạm thời giữ lại một số luật lệ cũ quy định về các tội
phạm ma túy không trái với nội dung chính thể Cộng hòa. Tuy nhiên, do lúc
đó cả dân tộc ta đang dồn hết sức lực cho cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược nên việc xóa bỏ trồng cây thuốc phiện và quản lý thuốc phiện
chưa thể thực hiện được.
Vào khoảng những năm 1952, 1955, chính phủ ta tiếp tục nhận thức về
việc phải quản lý, ngăn cấm các hành vi vi phạm về quản lý chất ma túy và
ban hành một loạt các văn bản như: Nghị định số 150/TTg ngày 05/3/1952;
Nghị định số 225/TTg ngày 22/12/1952, Nghị định số 580/TTg ngày

11


15/9/1995 bổ sung nghị định số 150/TTg của thủ tướng chính phủ. Theo thẩm
quyền, Bộ tư pháp cũng đã ban hành Thông tư số 635/VHH-HS ngày
29/3/1958 và Thông tư số 33/VHH-HS ngày 05/7/1958 để thống nhất đường
lối xét xử đối với những vụ án buôn lậu thuốc phiện. Các văn bản pháp luật
trên (đặc biệt là Nghị định 150/TTg và 225/TTg) đã đề cập xử lý hành vi Tàng
trữ trái phép thuốc phiện và có thể coi là một những quy định đầu tiên về tội
Tàng trữ trái phép chất ma túy của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Tuy nhiên, tại thời kỳ này, Nhà nước chỉ nhận thức ma túy (cụ thể là
thuốc phiện) chỉ là một chất độc, là một loại dược liệu được Nhà nước độc
quyền quản lý và thu mua sản phẩm thậm chí việc trồng ma túy còn được coi
là nguồn đóng góp tài chính cho quốc gia qua kế hoạch xuất khẩu sang các

nước Đông Âu. Chính phủ còn quy định các vùng được trồng cây thuốc phiện
đồng thời xác định nghĩa vụ nộp thuế bằng hiện vật và quy định chỉ được bán
toàn bộ cho mậu dịch quốc doanh. Do vậy, mặc dù hành vi tàng trữ trái phép
chất ma túy được xác định là phạm tội nhưng chưa quy định rõ mức độ tàng
trữ như thế nào thì bị xử lý hình sự và mức phạt cụ thể. Tại Điều 5 Nghị định
150/TTg quy định “…nghiêm cấm không ai được tàng trữ và vận chuyển
nhựa thuốc phiện hay thuốc phiện đã nấu …”, người vi phạm sẽ bị phạt tiền,
tịch thu thuốc phiện và có thể bị truy tố trước Tòa án. Nghị định 225/TTg
cũng chỉ quy định: “Với những người có hành vi vi phạm thể lệ quản lý thuốc
phiện sẽ bị tịch thu thuốc phiện tàng trữ hoặc vận chuyển trái phép, phạt tiền
từ một đến năm lần trị giá số thuốc phiện lậu, đồng thời còn có thể bị truy tố
trước Tòa án nhân dân…”
Sau khi thống nhất đất nước, do các điều kiện về kinh tế, xã hội, đặc biệt
do chính sách của Pháp, Mỹ và chính quyền phản động ở miền Nam Việt Nam
trước đó, tệ nạn ma túy ở nước ta diễn ra hết sức phức tạp. Trước tình hình
này, ngày 25/3/1977, Hội đồng chính phủ ban hành Nghị định số 76/CP về
chống buôn lậu thuốc phiện. Nghị định 580/TTg cũng được áp dụng thống
nhất trong cả nước. Tuy nhiên, qua thời gian, Nghị định 580/TTg dần không

12


còn phù hợp, không đủ tác dụng đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy.
Đến năm 1982, Hội đồng Nhà nước (nay là Ủy ban thường vụ Quốc hội) đã
ban hành Pháp lệnh trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh
doanh trái phép. Theo đó, những hành vi buôn bán, tàng trữ thuốc phiện được
xử lý theo quy định về hành vi buôn bán, tàng trữ trái phép hàng cấm (thuốc
phiện, những chế phẩm từ thuốc phiện được coi là hàng cấm)
Như vậy, trong giai đoạn này, Đảng và Nhà nước đã nhận thấy tính nguy
hiểm của ma túy và đưa ra các biện pháp bằng việc ban hành các văn bản quy

phạm pháp luật xử lí đối với hành vi vi phạm trong quản lí thuốc phiện. Tuy
nhiên, do hạn chế về nhận thức, về kỹ thuật lập pháp, do còn nhiều khó khăn
về kinh tế - xã hội, cùng với việc tập trung toàn bộ nguồn lực quốc gia vào các
cuộc kháng chiến giành độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, nên chủ
trương phòng chống ma túy chưa được thực hiện triệt để. Các quy định trực
tiếp về tội phạm và hình phạt chưa rõ ràng và chưa tách hẳn với các lĩnh vực
pháp luật khác. Các chế tài áp dụng chủ yếu là biện pháp hành chính – kinh tế,
chỉ những trường hợp đặc biệt mới áp dụng chế tài hình sự. Pháp lệnh này có
hiệu lực cho tới khi Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành.
1.1.2.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985 đến
trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999.
Ngày 27 tháng 6 năm 1985, Bộ luật hình sự đầu tiên của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời. Trong đó, hành vi Tàng trữ trái phép chất
ma túy được xử lý theo quy định tại Điều 166: “Tội buôn bán hoặc tàng trữ
hàng cấm”.
Ngày 28/12/1989, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự
năm 1985 lần đầu tiên quy định hành vi sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận
chuyển các chất ma túy trong một điều luật cụ thể (Điều 96a) với khung hình
phạt rất nghiêm khắc, mức hình phạt cao nhất đến tử hình đối với các trường
hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.

13


Đến năm 1997, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự đã
quy định các tội phạm về ma túy thành một chương riêng là “Chương VII A
Các tội phạm về ma túy”. Chương này gồm các Điều 185a, 185b, 185c, 185d,
185đ, 185e, 185g, 185h, 185i, 185k, 185l, 185m, 185n, 185o. Theo đó “Tội
tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại Điều 185c. Bộ luật này cũng
quy định điều 96a và Điều 203 của BLHS năm 1985 được thay thế bởi những

quy định trong chương các tội phạm về ma túy.
So sánh với quy định tại Điều 96a (BLHS 1985, sửa đổi bổ sung 1989),
Điều 185c (BLHS sửa đổi 1997) vẫn giữ nguyên mức hình phạt. Nhưng tại
Điều 185c có những quy định cụ thể hơn về định lượng chất ma túy (tính bằng
các đơn vị đo lường như gam, kilogam, mililit…) trong từng khung hình phạt
cụ thể thay bằng các mô tả chung chung của Điều 96 như “có số lượng lớn
hoặc giá trị lớn…” hay “trường hợp đặc biệt nghiêm trọng…” Điều này tạo
điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tố tụng áp dụng pháp luật và cũng giảm
thiểu sự tùy tiện trong việc xử phạt các hành vi phạm tội Tàng trữ trái phép
chất ma túy.
Tóm lại, giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985 đến
trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999 cho thấy nhận thức của Nhà
nước ta về tác hại của ma túy dần dần cải biến và ngày càng chính xác. Từ đó,
quan điểm, thái độ và chính sách hình sự của Nhà nước đối với ma túy và các
tội phạm về ma túy đã thể hiện rõ ràng, cụ thể và nghiêm khắc hơn.
1.1.2.3. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999 đến
trước khi BLHS 2015 có hiệu lực.
Mặc dù đã nhiều lần được sửa đổi, bổ sung, trong quá trình áp dụng
BLHS năm 1985 dần bộc lộ nhiều hạn chế bất cập. Để đáp ứng yêu cầu khách
quan của xã hội, Bộ luật hình sự năm 1999 đã được Quốc hội thông qua vào
ngày 21/12/1999. Tại bộ luật này, các tội phạm về ma túy được quy định tại
chương XVIII với 10 Điều luật. Trong đó tội tàng trữ trái phép chất ma túy

14


được quy định tại Điều 194: “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt chất ma túy”.
Điều 194 BLHS 1999 được hình thành trên cơ sở ghép 04 điều luật của
BLHS năm 1985, sửa đổi, bổ sung năm 1997 là Điều 185c: “Tội tàng trữ trái

phép chất ma túy” ; Điều 185d: “Tội vận chuyển trái phép chất ma túy”, Điều
185đ: “Tội mua bán trái phép chất ma túy” ; Điều 185e: “Tội chiếm đoạt chất
ma túy”. Cơ sở để nhập bốn tội thành một tội quy định trong Bộ luật hình sự
năm 1999 là do thực tiễn tội phạm về ma túy là một hệ thống bắt đầu từ khâu
trồng trọt, sản xuất, vận chuyển, buôn bán cuối cùng là tới người sử dụng.
Một hành vi phạm tội về ma túy thường là tổ hợp của nhiều hành vi được thực
hiện liên tiếp nhau, các hành vi này đan xem, kế tiếp, lồng vào nhau. Ngoài ra
cả bốn tội trên cùng có cấu trúc điều luật và hình phạt tương tự nhau. Do vậy,
Việc nhập bốn tội làm cho bộ luật hình sự chặt chẽ hơn về mặt khoa học, dễ
hiểu và dễ áp dụng trong thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy
trong giai đoạn này.
Để hướng dẫn áp dụng thống nhất Điều 194 BLHS 1999, Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã kịp thời ban hành Nghị quyết số
01/2001/NQ-HĐTP ngày 15/3/2001 hướng dẫn áp dụng một số quy định của
Điều 194 BLHS 1999; Liên ngành Bộ công an, Viện kiểm sát nhân dân tối
cáo, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ tư pháp cũng ban hành Thông tư liên tịch số
17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 Hướng
dẫn áp dụng một số quy định tại chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của
Bộ luật hình sự năm 1999 sau này được sửa đổi bổ sung tại Thông tư liên tịch
số 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 14/11/2015 Các quy
định này đã tạo cơ sở pháp lý rõ ràng, chặt chẽ, hướng dẫn chi tiết rõ ràng là
căn cứ để xác định khung hình phạt áp dụng và mức hình phạt tương ứng với
trọng lượng do hành vi phạm tội gây ra giúp cơ quan tố tụng và người tiến
hành tố tụng dễ dàng áp dụng, tránh được sự tùy tiện.

15


Về hình phạt đối với tội Tàng trữ trái phép chất ma túy trong Bộ luật
hình sự năm 1999: Điều 194 BLHS 1999 quy định hình phạt chính gồm có 4

khung, trong đó mức hình phạt thấp nhất là 02 năm tù, mức cao nhất là tù
chung thân hoặc tử hình. Ngoài ra, còn có các hình phạt bổ sung là phạt tiền,
tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
nghề hoặc làm công việc nhất định.
Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999 với quy định
pháp luật cụ thể cùng nhiều văn bản hướng dẫn thi hành có thể nói là giai
đoạn đóng góp quan trọng nhất về cả lý luận lẫn thực tiễn trong công cuộc
phòng, chống tệ nạn ma túy của nước ta. Tuy nhiên, với sự chuyển biến từng
ngày của kinh tế, xã hội, đặc biệt sau sự bùng nổ của cách mạng công nghiệp
4.0, Bộ luật hình sự năm 1999 (mặc dù đã được sửa đổi, bổ sung 01 lần vào
năm 2009) dần không đáp ứng được nhu cầu phòng chống tội phạm của xã
hội. Vì vậy, như một tất yếu, BLHS năm 2015 ra đời và có hiệu lực kể từ ngày
01/01/2018.
1.1.2.4. Giai đoạn từ khi Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015, sửa đổi bổ
sung năm 2017 có hiệu lực thi hành đến nay.
Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 về tội
Tàng trữ trái phép chất ma túy có nhiều điểm mới quan trọng so với tội Tàng
trữ trái phép chất ma túy so với Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999. Các điểm
mới đó là:
- Tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo Điều 249 BLHS 2015, sửa đổi
bổ sung 2017 là một tội danh riêng biệt được tách từ tội ghép (Điều 194
BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung 2009). Cùng với sự phát triển của kinh tế,
xã hội, khoa học kỹ thuật thì tội phạm cũng có sự thay đổi theo hướng ngày
càng tinh vi xảo quyệt. Tội phạm ma túy cũng không ngoại lệ. Trong thời gian
qua, loại tội phạm này đã tổ chức hoạt động theo các ổ nhóm, có tổ chức,
được phân công chặt chẽ. Theo đó chúng thường phân chia quá trình thực
hiện tội phạm thành từng công đoạn cụ thể như sản xuất, tàng trữ, vận

16



chuyển, mua bán… rồi theo đó, chúng tìm những đối tượng khác nhau để thực
hiện từng loại công đoạn riêng biệt. Ví dụ có đối tượng được phân công cất
giấu, có đối tượng được phân công vận chuyển… Những đối tượng này có thể
là thành viên của tổ chức tội phạm nhưng cũng có thể chỉ là những người có
hoàn cảnh khó khăn về kinh tế, do hám lợi mà chấp nhận thực hiện theo sự
phân công của nhóm tội phạm để nhận được một số tiền thỏa thuận. Với tình
hình như vậy, dần xuất hiện các hành vi chỉ đơn thuần là tàng trữ, chỉ đơn
thuần là vận chuyển... và dẫn đến tính nguy hiểm cho xã hội của từng hành vi
dần phân hóa và khác biệt. Thực tế, so sánh tính nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm thì hành vi tàng trữ, vận chuyển… có tính nguy hiểm cho xã hội thấp
hơn hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Song khi bị phát hiện và xử lý
theo quy định tại Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999, thì hành vi của họ có
mức hình phạt tương đương với những kẻ cầm đầu mua bán chất ma túy và có
thể phải chịu hình phạt cao nhất là tử hình. Do vậy, việc tách biệt về tội danh
và xác định lại tính nguy hiểm của từng tội là tất yếu để đảm bảo nguyên tắc
công bằng, nhân đạo, phù hợp với chính sách hình sự của Nhà nước, đặc biệt
là nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự mà Bộ luật hình sự đã quy định.
- Điều 249 BLHS 2015 quy định mức hình phạt của tội Tàng trữ trái
phép chất ma túy nhẹ hơn so với các khung hình phạt tương ứng của Điều 194
BLHS năm 1999, đặc biệt đã bỏ việc áp dụng hình phạt Tử hình với tội danh
này.
- Bội luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đã quy định cụ
thể, rõ ràng mức tối thiểu về định lượng các chất ma túy để truy cứu trong tội
Tàng trữ trái phép chất ma túy (Điều 249).
- BLHS 2015 đã đánh giá lại tính nguy hiểm cho xã hội của từng loại
chất ma túy, qua đó bổ sung một số loại ma túy và điều chỉnh về khối lượng
của một số chất ma túy trong điều luật và các khung hình phạt. Ví dụ: Các
chất ma túy cụ thể gồm Methamphetamine, Amphetamine, MDMA, XLR-11
được điều chỉnh với khối lượng trong các khung hình phạt tương tự khối


17


lượng của Heroin và Cocain; bổ sung rễ, thân, cành của cây cần sa là đối
tượng của hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Ngoài ra, Bộ luật hình sự
năm 2015 cũng thay đổi về đơn vị tính từ “trọng lượng” thành “khối lượng”
để đảm bảo tính chính xác của đơn vị tính.
Mặc dù có sai sót trong khâu lập pháp dẫn đến phải sửa đổi vào năm
2017, nhưng BLHS 2015 đã thể hiện được bước phát triển quan trọng trong
chính sách hình sự của Nhà nước, đánh dấu nhiều điểm tiến bộ thể hiện trong
tư duy lập pháp hình sự, tiếp tục thể hiện tinh thần chủ động phòng ngừa và
kiên quyết đấu tranh phòng chống tội phạm, góp phần bảo vệ an ninh, trật tự,
an toàn xã hội.
1.1.3.

Cấu thành tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo BLHS

2015.
1.1.3.1. Khách thể của tội Tàng trữ trái phép chất ma túy:
Cũng như các tội phạm về ma túy được quy định tại chương XX BLHS
2015, Tội tàng trữ trái phép chất ma túy có khách thể xâm phạm là chế độ độc
quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Trực tiếp, là xâm phạm đến
các quy định về hoạt động tàng trữ, cất trữ các chất ma túy của Nhà nước.
Trong chế độ độc quyền của mình, Nhà nước đưa ra những quy định chặt chẽ
về hoạt động tàng trữ, cất trữ các chất ma túy. Theo đó, chỉ có một số cơ quan,
tổ chức nhất định mới được quyền tàng trữ, cất trữ chất ma túy để sử dụng với
mục đích y tế, khoa học… theo quy định của pháp luật. Người thực hiện hành
vi tàng trữ trái phép chất ma túy đã xâm phạm đến những quy định về hoạt
động tàng trữ, cất trữ của Nhà nước từ đó xâm phạm đến chế độ độc quyền

quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, xâm phạm trật tự, an toàn xã
hội.
1.1.3.2. Mặt khách quan của tội tàng trữ trái phép chất ma tuý:
Trong mặt khách quan của tội phạm thì hành vi nguy hiểm cho xã hội
được quy định trong Bộ luật hình sự là dấu hiệu bắt buộc phải có của cấu
thành tội phạm; các vấn đề khác như hậu quả, mối quan hệ nhân quả, cũng

18


như các điều kiện bên ngoài có thể bắt buộc hoặc không bắt buộc. Tại khoản 1
Điều 249 BLHS 2015 quy định về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy như sau:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích
mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các
trường hợp sau đây…..”[3]
Theo quy định trên, hành vi nguy hiểm cho xã hội tội phạm này là hành
vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Vậy như thế nào là “tàng trữ trái phép
chất ma túy”? Hiện nay, BLHS 2015 chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể cho
Điều 249 nhưng có thể tham khảo hướng dẫn tại tiết 3.1 mục 3 phần II TTLT
số 17: “Tàng trữ trái phép chất ma túy là cất giữ, cất giấu bất hợp pháp chất
ma túy ở bất cứ nơi nào (như trong nhà, ngoài vườn, chôn dưới đất, để trong
vali, cho vào thùng xăng xe, cất dấu trong quần áo, tư trang mặc trên người
hoặc theo người …) mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản
xuất trái phép chất ma túy. Thời gian tàng trữ dài hay ngắn không ảnh hưởng
đến việc xác định tội này”. [8]
Thực tiễn xét xử cho thấy, có nhiều trường hợp người phạm tội cất giấu
ma tuý trong người như túi áo, túi quần sau đó người này di chuyển đến các
địa điểm khác nhau nhưng không nhằm mục đích vận chuyển chất ma túy từ
nơi này đến nơi khác thì người phạm tội vẫn chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình
sự về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không bị truy cứu trách nhiệm hình

sự về tội vận chuyển trái phép chất ma tuý. Ngược lại, việc cất giữ chất ma
túy phải không nhằm để mua bán, vận chuyển hoặc để sản xuất tái phép chất
ma túy mới cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Nếu một người cất
giữ chất ma túy tại nhà nhưng nhằm mục đích bán khi có người đến mua thì
không phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy mà phạm vào tội mua bán trái
phép chất ma túy.
Về hậu quả của hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy: Bộ luật hình sự
Việt Nam quy định tội Tàng trữ trái phép chất ma túy có cấu thành hình thức

19


và được coi là hoàn thành khi người thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất
ma tuý. Tội Tàng trữ trái phép chất ma túy không sử dụng hậu quả làm yếu tố
bắt buộc để định tội. Tuy nhiên, có thể xác định hậu quả do hành vi tàng trữ
trái phép chất ma túy gây ra cho xã hội chính là những thiệt hại phi vật chất,
là việc chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước bị xâm phạm.
Việc xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước
đi ngược lại và tạo cản trở cho chủ trương phòng, chống tệ nạn ma túy của đất
nước, làm ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe con người, làm thoái hóa nòi
giống, tạo điều kiện lan truyền đại dịch HIV/AIDS. Tệ nạn ma túy cũng là
nguyên nhân dẫn đến nhiều tội phạm khác, gây mất trật tự trị an, mất an toàn
xã hội...
Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và hậu quả chế độ độc quyền quản
lý các chất ma túy của Nhà nước bị xâm phạm xảy ra có mối quan hệ nhân
quả với nhau. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là nguyên nhân của việc
chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy bị xâm phạm. Ngược lại, chế độ
độc quyền quản lý các chất ma túy bị xâm phạm là hậu quả của hành vi tàng
trữ trái phép chất ma túy.
1.1.3.3. Chủ thể của tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Điều 249 Bộ luật hình sự đã quy định chủ thể thực hiện hành vi “Tàng
trữ trái phép chất ma túy” là “Người nào…”. Điều luật đã loại trừ chủ thể
phạm tội là pháp nhân thương mại mà chỉ có thể là cá nhân có năng lực trách
nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Điều 12 BLHS 2015 quy định:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về
tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một
trong các điều …, 249,…của Bộ luật này.”[3]

20


×