Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

tiểu luận tài chính quốc tế khủng hoảng nợ công mỹ latinh 1980 và bài học kinh nghiệm cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (535.95 KB, 39 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế, vay nợ là việc thu hút nguồn vốn nhành rỗi từ các chủ thể
thặng dư (cá nhân và tổ chức) để đáp ứng nhu cầu về vốn của các chủ thể thiếu hụt,
giúp duy trì quá trình sản xuất được liên tục và góp phần thúc đẩy đầu tư. Xuất phát từ
quy luật đó, khái niệm “nợ công” ra đời để mô tả những khoản nợ do khu vực công vay
của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước nhằm trang trải các khoản chi tiêu, góp
phần thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
Ở bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, nguồn vốn vay (nợ công) luôn có ý nghĩa hết
sức quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội, tuy nhiên, cùng với đó công tác quản lý,
đảm bảo an toàn, bền vững nợ công là bài toán đặt ra với tất cả các nước. Nhìn vào The
Global Debt Clock - đồng hồ đếm nợ của thế giới, bất cứ người nào cũng có thể
choáng váng với dãy số nhiều hơn 12 con số chỉ số nợ quốc dân của các cường quốc
trên thế giới. Số liệu được Quỹ tiền tệ thế giới (IMF) công bố hồi tháng Tư cho thấy,
tổng số nợ trên tất cả mọi lĩnh vực của Mỹ hiện nay đang cao gấp 350% tổng GDP của
chính họ. Tại nền kinh tế đáng chú ý nhất thế giới hiện nay - Trung Quốc, tổng số nợ
quốc gia được tính theo Đồng hồ chỉ số nợ thế giới đến ngày 15/6/2017 là hơn 10
nghìn tỷ USD, tương đương 93% GDP quốc gia. Quốc gia láng giềng của họ là Nhật
Bản có tổng số nợ lên tới 220% GDP của đất nước. Nếu như nền kinh tế không tăng
trưởng, ắt sẽ dẫn tới một cuộc khủng hoảng kinh tế hay khủng hoảng nợ công trên
phạm vi toàn cầu, giống như rất nhiều các cuộc khủng hoảng đã xảy ra trong lịch sử,
ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe nền kinh tế thế giới. Là cuộc khủng hoảng nợ
công đầu tiên của lịch sử kinh tế thế giới hiện đại, khủng hoảng nợ ở châu Mỹ Latinh
những năm 1970 - 1980 được xem là thảm họa lớn nhất ở khu vực này. Hậu quả để lại
kéo dài đến tận đầu thập niên 90, kinh tế tăng trưởng trì trệ, thu nhập bình quân đầu
người giảm và chênh lệch giàu nghèo ngày càng tăng.
Nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây trải qua những bất ổn vĩ mô kéo
dài bởi những khiếm khuyết cơ bản của nền kinh tế khi duy trì quá lâu mô hình tăng
5



trưởng theo chiều rộng. Mặc dù nền kinh tế đã có giai đoạn tăng trưởng cao vào những
năm đầu của thế kỷ XXI và hiện tại là nước có thu nhập trung bình trên thế giới, nhưng
những diễn biến tiêu cực gần đây của tăng trưởng, lạm phát, tỉ giá, thâm hụt thương
mại, thâm hụt ngân sách cao và nợ công tăng nhanh đang làm xấu thêm các chỉ số kinh
tế vĩ mô. Những thách thức về nợ công hiện nay cho thấy đã đến lúc cần có một cuộc
cải cách tài khóa triệt để và toàn diện nhằm đưa ngân sách dần trở về trạng thái cân
bằng nhằm bảo đảm tính bền vững của nợ công và duy trì sự ổn định lâu dài cho nền
kinh tế. Những bài học được rút ra từ những gì đã diễn ra trong khủng hoảng nợ công,
những nguyên nhân cũng như cách các nước đối mặt, giải quyết là kinh nghiệm quý giá
cho Việt Nam trong quá trình nhìn nhận thực trạng nợ công nước mình, đưa ra các giải
pháp để giảm thiểu và quản lí chặt chẽ nợ công, từ đó giảm thiểu những rủi ro có thể
dẫn tới một cuộc khủng hoảng nợ. Vì vậy, nhóm chúng em chọn nghiên cứu đề tài
“Khủng hoảng nợ công ở Mỹ Latinh những năm 1980 và bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam” nhằm góp phần giải quyết những vấn đề cấp thiết như trên.
2. Đối tượng nghiên cứu
-

Cuộc khủng hoảng nợ công ở Mỹ Latinh những năm 1980

-

Thực trạng nợ công ở Việt Nam hiện nay và nguyên nhân

3. Phạm vi nghiên cứu
-

Nghiên cứu trên mức độ quốc gia tại Mỹ Latinh những năm 1980

-


Nghiên cứu trên mức độ quốc gia tại Việt Nam

-

Nghiên cứu các vấn đề liên quan đến thực trạng nợ công tại Việt Nam

4. Phương pháp nghiên cứu
-

Thu thập số liệu và thông tin công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng

-

Thu thập số liệu từ các báo cáo chuyên môn giai đoạn 2010 – 2017

-

Nghiên cứu định tính thông qua bước thu thập số liệu từ World Bank, IMF, Bộ
Tài chính để từ đó xử lý và phân tích nhằm đưa ra những kết luận cụ thể

6


về thực trạng nợ công tại Việt Nam và những nguyên nhân dẫn đến tình trạng
này.
5. Nội dung nghiên cứu
Bài nghiên cứu này sẽ tập trung nghiên cứu những nội dung sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về nợ công và khủng hoảng nợ công: Cung cấp những khái
niệm và lý luận về nợ công và khủng hoảng nợ công
Chương 2: Khủng hoảng nợ công Mỹ Latinh những năm 1980: Xem xét cuộc khủng

hoảng nợ công ở Mỹ Latinh những năm 1980, tìm hiểu nguyên nhân, giải pháp và từ
đó đưa ra những bài học về khủng hoảng nợ công
Chương 3: Khắc phục nợ công ở Việt Nam: Xem xét thực trạng nợ công ở Việt Nam và
đề ra những giải pháp để khắc phục tình hình nợ công ở Việt Nam.

7


Chương 1: Cơ sở lí luận
1.1.

Lý luận chung về nợ công

1.1.1.

Khái niệm nợ công

Nợ công là một khái niệm được đề cập khá đa dạng trong hoạt động quản lí nợ
của các quốc gia. Tùy thuộc vào mục đích, phạm vi, thực tiễn của hoạt động quản lí nợ
của mỗi nước, nợ công có nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau. Cụ thể:


Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF):
Theo nghĩa rộng, nợ công là nghĩa vụ nợ khu vực công, bao gồm toàn bộ nghĩa

vụ của chính phủ, các cấp chính quyền địa phương, ngân hàng trung ương và các tổ
chức độc lập (50% nguồn vốn hoạt động thuộc về nhà nước hoặc thuộc về ngân sách
nhà nước quyết định và trong trường hợp vỡ nợ thì nhà nước phải trả nợ thay). Nợ
công theo nghĩa hẹp là các khoản nợ của chính quyền trung ương, các cấp địa phương
và các khoản nợ của tổ chức độc lập được chính phủ bảo lãnh.

Qua khái niệm của IMF, khu vự nợ công được chia làm hai khu vực:khu vực công
tài chính và khu vực công phi tài chính. Tuy nhiên, trên thực tế, số liệu nợ của hai khu
vực trên được chính phủ bảo lãnh thì mới được tính vào nợ công. Điều này có nghĩa là
nợ công theo IMF đã loại trừ nợ ngân hàng trung ương và các khoản nợ không được
chính phủ bảo lãnhcủa các định chế tiền gửi và phi tiền gửi thuộc khu vực công, dẫn
đến tổng nợ khu vực công không chính xác.


Theo Ngân hàng thế giới (WB):

(1) nợ của Chính phủ trung ương và các Bộ, ban, ngành trung ương
(2) nợ của các cấp chính quyền địa phương
(3) nợ của Ngân hàng trung ương
(4) nợ của các tổ chức độc lập mà Chính phủ sở hữu trên 50% vốn nước hoặc thuộc về
ngân sách nhà nước quyết định và trong trường hợp vỡ nợ thì nhà nước phải trả nợ
thay.
8


Như vậy, có thể thấy khái niệm nợ công của WB là khái niệm về nợ công đầy đủ nhất.


Theo Luật quản lí nợ công do chính phủ Việt Nam ban hành vào năm 2017:

“Nợ công quy định tại Luật này bao gồm nợ chính phủ, nợ chính phủ được bảo lãnh và
nợ chính quyền địa phương”. Trong đó Luật quy định:
- Nợ Chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài, được
ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ.
- Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ do doanh nghiệp, ngân hàng chính sách của
Nhà nước vay được Chính phủ bảo lãnh.

- Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ phát sinh do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh vay.
Ta có thế thấy, Luật quản lí nợ công của Việt Nam 2017 quy định phạm vi nợ
công của nước ta hẹp hơn so với định nghĩa của IMF và WB vì phạm vi của chúng ta
không bao gồm nợ của ngân hàng trung ương và nợ của các doanh nghiệp nhà nước.
Vậy nên khi nghiên cứu báo cáo nợ công của Việt nam sẽ có sự khác biệt với báo cáo
của quốc tế.
1.1.2.


Bản chất kinh tế và ảnh hưởng của nợ công

Bản chất của nợ công
Xét về bản chất nợ công xuất phát từ tham hụt ngân sách hay nói cách khác tổng

nguồn thu của chính phủ không đủ khả năng bao quát được tổng chi của mình. Để giải
quyết vấn đề này chính phủ phải cắt giảm chi tiêu hoặc tăng nguồn thu ngân sách. Cắt
giảm chi tiêu không phải là lựa chọn dễ dàng trong ngắn hạn vậy nên chính phủ thường
lựa chọn tăng nguồn thu ngân sách.
Chính phủ tăng nguồn thu ngân sách bằng hai cách .Thứ nhất, chính phủ lựa chọn
tăng thuế- nguồn thu trực tiếp và lớn nhất của chỉnh phủ. Tuy nhiên việc tăng thuế có
thể dẫn tới hậu quả là giảm tiêu dùng, giảm động lực lao động dẫn tới suy thoái kinh
tế.Thứ hai, chính phủ sẽ vay nợ trong nước và vay nợ nước ngoài băng cách thông qua

9


ngân hàng trung ương phát hành cổ phhiếu hoặc trái phiếu cho các nhà đầu tư từ đó
làm gia tăng nợ công dẫn tới thâm hụt ngân sách.



Ảnh hưởng của nợ công
Từ bản chất kinh tế của nợ công, ta xét tác động của nợ công lên nền kinh tế theo

hai hướng: tích cực và tiêu cực.
Về tích cực, thứ nhất, nợ công đáp ưng nhu cầu vốn trong nước để đảm bảo an
sinh xã hội. Trong giai đoạn đầu phát triển, để không làm thoái lui vốn đầu tư tư nhân,
khoản vay nước ngoài là nguồn vốn bổ sung để phát triển kinh tế xã hội. Thứ hai, nợ
công giúp chính phủ giải quyết vấn đề bội chi ngân sách nhà nươc. Trong khi tăng
thuế, thắt chặt chi tiêu cần thời gian dài thay đổi, in tiền dẫn dễ dẫn tới lạm phát thì các
khoản vay nước ngoài giúp cho chính phủ bù đắp kịp thời các khoản bội chi ngân sách
nhà nước. Thứ ba, việc vay nợ bằng các phát hành hành trái phiếu hoặc cổ phiếu của
chính phủ cũng là một công cụ để thông qua đó chính phủ điều hành chính sách tiền
tệ.Thứ tư, vay nợ nước ngoài là một cách thu hút vốn đầu tư làm đẩy nhanh quá trình
hội nhập của một nước với quốc tế tiếp cận nguồn vốn mà không cần phải giảm đầu tư
hay chi tiêu trong nước.
Về mặt tiêu cực, nợ công làm suy thoái kinh tế bất ổn môi trương vĩ mô. Vay nợ
nước ngoài nhiều có thể làm giảm vị thế quốc gia trên trường quốc tế ,làm cho tỷ giá
trong nước biến động. vay trong nước làm tăng lãi suất, tăng chi phí đầu tư, làm giảm
động lực đầu tư dẫn tới kinh tế suy thoái. Từ các ảnh hưởng trên đó tác động đến sự ổn
định của môi trường vĩ mô dẫn đến lãi suất cao đi kèm với lạm phat và biến động tỷ giá
làm tăng thâm hụt thương mại. Và khi nợ công quá lớn nó sẽ dẫn tới khủng hoảng nợ
công. Khủng hoảng nợ công xảy ra dẫn tới khủng hoản tiền tệ và khủng hoảng kinh tế
không chỉ ảnh hưởng tới một quốc ra mà nó kéo theo liên minh kinh tế toàn khu vực
nặng hơn thì lan ra toàn thế giới.
1.1.3.

Phân loại

 Phân loại theo nguồn vay nợ:
10



Theo phương thức này nợ công được chia làm hai loại vay trong nước và vay
nước ngoài, các phân chia này không chỉ cho thấy yếu tố địa lí mà nó còn cho thấy các
yếu tố về dịch chuyển dòng tiền.Tuy nhiên trên thực tế, khi tiến hành thống kê và tính
toán giá trị nợ công ở một số nước, trong đó có Việt Nam, người ta thường không quan
tâm đến khoản nợ trong nước mà chỉ quan tâm đến nợ nước ngoài dẫn đến sai sót khi
đưa ra kết quả thông kê tính toán về nợ công của một quốc gia, gây khó khăn cho các
nhà quản lí trong việc kiểm soát, đưa ra biện pháp kịp thời để giải quyếtcác vấn đề phát
sinh.


Phân loại theo chủ thể nợ
Theo Luật quản lí nợ công của Việt Nam (2017), đã chia nợ công thành ba loại:
-

Nợ chính phủ: Bao gồm Nợ do Chính phủ phát hành công cụ nợ;Nợ do Chính
phủ ký kết thỏa thuận vay trong nước, nước ngoài; Nợ của ngân sách trung ương
vay từ quỹ dự trữ tài chính của Nhà nước, ngân quỹ nhà nước, quỹ tài chính nhà
nước ngoài ngân sách.

-

Nợ được Chính phủ bảo lãnh bao gồm: Nợ của doanh nghiệp được Chính phủ
bảo lãnh; Nợ của ngân hàng chính sách của Nhà nước được Chính phủ bảo lãnh.

-

Nợ chính quyền địa phương bao gồm: Nợ do phát hành trái phiếu chính quyền
địa phương; Nợ của ngân sách địa phương vay từ ngân hàng chính sách của Nhà

nước, quỹ dự trữ tài chính cấp tỉnh, ngân quỹ nhà nước và vay khác theo quy
định của pháp luật về ngân sách nhà nước; Nợ do vay lại vốn vay ODA và vay
ưu đãi.

1.1.4.

Các nhân tố ảnh hưởng đến nợ công

Muốn đảm bảo một nền kinh tế ổn định thì một chính phủ phải đảm bảo được tỉ lệ
nợ công trong mức kiểm soát và để làm được điều này thì các nhà quản lí nợ, quản lí
ngân sách cần làm tốt công tác dự báo, lập kế hoạch,góp phần ổn định kinh tế vĩ mô.
Để làm tốt được điều đó, ta cần phải nắm rõ các nhận tố tác động đến nợ công từ đó,
phòng ngừa,ngăn chặn và giải quyết kịp thời các vấn đề bất ổn gây ra từ các yếu tố đó.
11




Thứ nhất, nợ công có mối quan hệ phụ thuộc chặt chẽ vào cân bằng ngân sách.

Từ bản chất ta phân tích ở trên ta có thể thấy rằng thâm hụt ngân sách phản ánh rõ tình
trạng giá trị nợ công của một quốc gia. Đồng nghĩa, khi khoảng cách thâm hụt được thu
hẹp, những khoản vay giảm đi, làm cho nợ công cũng được giảm.


Thứ hai, lãi suất thị trường có tác động đến các khoản nợ của chính phủ,khi lãi

suất tăng lên hoặc giảm đi sẽ quyết định đến giá trị khoản vay tăng lên hoặc giảm đi.
Đồng nghĩa, việc lãi suất tăng sẽ làm các khoản vay của chính phủ khó khăn hơn,
không đảm bảo được khả năng trả nợ đúng hạn của chính phủ.



Thứ ba, tốc độ tăng trưởng thực tế của nên kinh tế ảnh hưởng đến nợ công theo

hai hướng. Một là, nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhanh thì chính phủ dễ dàng đi
vay tiền hơn, hậu quả là nợ công tăng lên. Hai là, tăng trưởng kinh tế nhanh thường đi
kèm với lạm phát, dẫn đến khi đến hạn thanh toán, chính phủ phải bù lạm phát cho các
khoản nợ .


Thứ tư, tỷ giá là yếu tố có tác động lớn tới việc vay nước ngoài. Sự biến động

của tỉ giá gây ra chi phí của khoản vay: có thể tăng lên hoặc giảm đi khi tỷ giá tăng
hoặc giảm.
1.1.5.

Các hình thức vay nợ và công cụ vay nợ công

Theo đặc điểm của các khản vay nợ,hình thức vay nợ được phân chia vào hai
nhóm chính là: vay nợ gián tiếp và vay nợ trực tiếp từ trong và ngoài nước. Mỗi cách
vay nợ có ưu, nhược điểm riêng, thích hợp sử dụng cho những hoàn cảnh riêng, phụ
thuộc vào xếp hạng tín dụng và vị thế của mỗi quốc gia trên thị trường.


Vay trực tiếp
Chính phủ các nước có một lựa chọn để cung cấp vốn cho các khoản thâm hụt

đáng kể thông qua vay tiền trực tiếp từ các ngân hàng thương mại, các thể chế siêu
quốc gia (ví dụ: Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát triển châu
Á,…). Các nguồn vay này theo luật quản lí nợ công (2017) có hình thức như sau:


12


 Vay hỗ trợ phát triển chính thức (vay ODA) là khoản vay nước ngoài có thành tố
ưu đãi đạt ít nhất 35% đối với khoản vay có điều kiện ràng buộc liên quan đến mua
sắm hàng hóa và dịch vụ theo quy định của nhà tài trợ nước ngoài hoặc ít nhất 25% đối
với khoản vay không có điều kiện ràng buộc.
 Vay ưu đãi nước ngoài là khoản vay nước ngoài có điều kiện ưu đãi hơn so với
vay thương mại nhưng thành tố ưu đãi chưa đạt tiêu chuẩn của vay ODA.
 Vay thương mại là khoản vay theo điều kiện thị trường.
Trong số các khoản vay trực tiếp đã liệt kê, nguồn vay ODA là nguồn vốn có tầm
quan trọng lớn đối với các nước đang phát triển điển hình là Việt Nam. Nguồn vay này
có thể nhận được dưới các thể thức: viện trợ song phương, viện trợ đa phương, viện trợ
không hoàn lại hay viện trợ của tổ chức phi chính phủ.


Vay nợ gián tiếp
Chính phủ có thể tiến hành vay nợ gián tiếp qua các tổ chức, cá nhân để bù đắp

thâm hụt ngân sách bằng cách phát hành các công cụ nợ ngắn hạn như: tín phiếu, trái
phiếu, hình thức chứng chỉ... Trái phiếu là hình thức được các chính phủ ưa chuộng
trong đó có Việt Nam. Theo Luật quản lí nợ công Việt Nam(2017),Trái phiếu gồm có:
 Trái phiếu Chính phủ là công cụ nợ do Chính phủ phát hành để huy động vốn
cho ngân sách nhà nước hoặc cơ cấu lại nợ.
 Trái phiếu chính quyền địa phương là công cụ nợ do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
phát hành để huy động vốn cho ngân sách địa phương.
 Trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh là công cụ nợ do doanh nghiệp, ngân hàng
chính sách của Nhà nước phát hành và được Chính phủ bảo lãnh.
 Tín phiếu Kho bạc là công cụ nợ do Kho bạc Nhà nước phát hành, có kỳ hạn

không vượt quá 52 tuần.
 Công trái xây dựng Tổ quốc là trái phiếu do Chính phủ phát hành nhằm huy
động nguồn vốn trong Nhân dân để đầu tư xây dựng công trình quan trọng quốc gia và
13


các công trình thiết yếu khác phục vụ sản xuất, đời sống, tạo cơ sở vật chất, kỹ thuật
cho đất nước.
1.2.

Khủng hoảng nợ công

1.2.1.

Khái niệm khủng hoảng nợ công

Khủng hoảng nợ công là tình trạng nợ tăng quá cao ngoài tầm kiểm soát, điều tiết
và trả nợ của chính phủ. Nợ không trả sớm làm “ lãi mẹ đẻ lãi con” khiến nợ càng
chông chất, thâm hụt ngân sách càng kéo dài dẫn đén nền kinh tế chao đảo suy thoái
trầm trọng.
1.2.2.

Nguyên nhân dẫn tới nợ công

 Nợ chồng nợ và quản lí yếu kém
Nguyên nhân lớn nhất dẫn tới khủng hoảng nợ công là các khoản nợ không thể
hoàn trả. Các khoản nợ này liên tục cộng dồn vào nhau lãi chồng lên lãi, cộng với gốc
rồi lại tính lãi trên gốc mới.Khoản nợ đó càng ngày càng tăng mà ta không có một biện
pháp nào làm giảm lãi hoặc gia hạn lâu hơn giúp các con nợ có thể thành công trả nợ.
Thêm vào đó là sự quản lí yếu kém của chính phủ, chính quyền các cấp địa

phương được thể hiển rõ trong giai đoạn 1960-1970 ở các nước phương Tây khi họ
không kiểm soát được các khoản vay và chi tiêu cho cộng đồng. Ngoài ra ở một số
quốc gia, đặc biệt là các nước nghèo, trình độ thấp, quản lí kém dẫn tới tình trạng tham
ô, tham nhũng của một nhóm người vì lợi ích nhóm mà nhiều khoản vay đi kèm với ưu
tiên xuất khẩu,…. Làm cho dòng tiền chảy ra khỏi quốc gia nhều hơn dòng tiền vào.
 Vay không đúng mục đích
Là những khoản vay mà chính phủ không được nhân dân ủng hộ hoặc các khoản
vay mà chính phủ phải kế thừa từ những người tiền nhiềm. Thực tế là nhiều nước kém
phát triển bắt đầu nền độc lập từ các khoản nợ kếch xù có thể do chiến tranh gây ra.
 Toàn cầu, hóa hội nhập thế giới

14


Sự ảnh hưởng của các quyết định kinh tế, hợp đồng, hiệp ướcvà các tổ chức quốc
tế đã và đang giúp các nước giàu hình thành nên xương sống của quá trình toàn cầu hóa
hiện nay. Trong khi hầu hết các nước đang chìm ngập trong đói nghèo, nợ nần thì một
vài nước lại nắm giữ khối tài sản khổng lồ giàu có, tuy nhiên đây không phải là hiện
tượng ngẫu nhiên khi tăng tiêu chuẩn sống bằng các chính sách, các nước giàu đã phải
trả với giá rất kinh khủng. Các nước giàu cũng mắc nợ nhưng họ có các phương tiện để
tránh rủi ro hơn các nước nghèo.
1.2.3.

Hậu quả của khủng hoảng nợ công

Hậu quả của khủng hoản nợ không chỉ gây ra ảnh hưởn tiêu cuacj đến các nước đi
vay mà nó còn ảnh hưởng đến các nước cho vay.
 Đối với chủ thể đi vay
Khung hoảng nợ như một trận động đất làm rung chuyển cả một quốc gia về mọi
mặt.Về kinh tế nền kinh tế suy thoái với mức lạm phát cao ngất ngưởng, GDP sụt

giảm, hoạt động sản xuất đình trệ, tỷ lệ thất nghiệp tăng.
Từ nền kinh tế bất ổn nó dẫn tới chính trị bất ổn, đẩy các nước đang phát triển lún
sâu vao sự phụ thuộc với các nước tư bản. Dần dà dẫn đến sự can thiệp chính trị của
các nước tư bản đến các chính sách của chính phủ gây xói mòn nền kinh tế. Cuối cùng
là đời sống nhân dân đói nghèo cực khổ.
 Đối với chủ thể cho vay
Nền kinh tế của các nước tư bản trong thời kì khủng hoảng nợ cũng không tươi
sáng khi các con nợ lớn của họ tuyên bố phá sản không trả được nợ thì chính phủ các
nước đó sẽ phải chịu một khoản thất thoát nặng nề có thể kéo sự tăng trưởng kinh tế
xuống đó cũng là lí do khi liên minh châu Âu EU luôn cố gắng giúp đỡ Hy Lap-con nợ
lớn nhất của họ. Ngoài ra khi các nước đi vay mắc nợ họ sẽ cố gắng cắt giảm chi tiêu
giảm nhập khẩu ảnh hưởng đến nguồn thu của các tư bản và gây ra thất nghiệp.
Do đó khi co nợ găp phải khủng hoảng nợ đồng nghĩa là khả năng thanh khoản
giảm ảnh hưởng đến lưu thông hàng hóa thịtrường đóng băng. Nghiêm trọng hơn khi
15


số tiền con nợ vay chiếm một phần quan trọng trong nền kinh tế của các con nợ dễ dẫn
tới khi con nợ phá sản tạo ra hiệu ứng domino khiến cho nước tư bản phá sản hàng loạt
các tổ chức quốc tế lung lay sụp đổ kéo theo sự khủng hoảng kinh tế toàn cầu.

Chương 2: Cuộc khủng hoảng nợ công ở Mỹ Latinh năm 1980
2.1. Diễn biến khủng hoảng nợ công ở Mỹ Latinh
Cuộc khủng hoảng nợ công ở Mỹ Latinh trong những năm cuối thập niên 70 và
thập niên 80 có thể coi là thảm hoạ kinh tế lớn nhất ở khu vực này kể từ sau cuộc đại
khủng hoảng những năm 1930 . Khủng hoảng nợ công bắt đầu từ ngày 12/8/1992 khi
chính phủ Mexico tuyên bố mất khả năng trả nợ vay 80 tỷ cho các ngân hàng quốc tế.
Ngay sau đó, hàng loạt các nước châu Mỹ Latinh tuyên bố họ gặp phải khó khăn trầm
trọng trong việc trả nợ nước ngoài, như Argentina ( 1982, 1989), Bolivia (1980, 1986,
1989), Brazil (1983, 1986 – 1987) và Ecuador ( 1982, 1983). Việc này tạo ra một phản

ứng dây chuyền làm bùng phát khủng hoảng nợ trên toàn khu vực Mỹ Latinh.
Cuộc khủng hoảng nợ công đã gây thiệt hại trầm trọng cho nền kinh tế cả của bên
chủ nợ và các con nợ là các nước Mỹ Latinh. Phía chủ nợ lớn nhất là các ngân hàng và
chính phủ Châu Âu và Mỹ, khi cuộc khủng hoảng xảy ra hệ thống tài chính ngân hàng
của các nước này gặp thiệt hại nặng nề vì phải đối mặt với rủi ro tín dụng cao. Ở chiều
ngược lại, khủng hoảng nợ công không chỉ làm sói mòn nền kinh tế các nước Mỹ
Latinh mà còn làm cho những nước này mất khả năng vay nợ trong tương lai để khắc
phục khủng hoảng vì những ngân hàng uy tín trên thế giới đã xếp những nước này vào
danh sách rủi ro cho vay cao, đồng thời các nước Mỹ Latinh cũng chịu tổn hại lớn
trong thương mại quốc tế do các nước chủ nợ áp dụng những biện pháp trừng phạt
thông qua các chính sách bảo hộ kinh tế, phong toả và tịch thu những tài sản của các
nước này ở nước ngoài.

16


2.2. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng nợ công ở Mỹ Latinh
Với quy mô lớn và những hậu quả nặng nề mà nó gây ra, cuộc khủng hoảng Mỹ
Latinh luôn nằm trong phạm vi nghiên cứu của rất nhiều những nhà kinh tế, chính trị,
đã có rất nhiều nguyên nhân được các nhà nghiên cứu đưa ra để giải thích cho cuộc
khủng hoảng này. Bài tiểu luận này xin phép được liệt kê và tóm tắt lại một số nguyên
nhân chính mà theo nhóm tác giả là có ảnh hưởng lớn nhất đến cuộc khủng hoảng nợ
công ở Mỹ Latinh
2.2.1.

Nguyên nhân chủ quan

 Cơ cấu kinh tế kém hiệu quả và việc phụ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn nước ngoài
Trong những năm 1980 các nước khu vực Mỹ Latinh là những nước kém phát
triển với mức thu nhập bình quân đầu người chỉ khoảng 4014$/ năm. Cơ cấu kinh tế

của các nước phát triển không đồng đều giữa các ngành và các nước này chủ yếu thu
nhập từ việc xuất khẩu dầu. Sau 2 cú sốc tăng giá dầu, dù các nước Mỹ latinh, đặc biệt
là Mexico, đã thu được khoản lợi nhuận lớn và được đánh giá là có tiềm năng tăng
trưởng kinh tế mạnh. Tuy nhiên trên thực tế chính vì sự kém hiệu quả của mô hình kinh
tế trong nước và những điều hành không hợp lý trong chính sách vĩ mô đã làm cho
những nước này không những không thể đạt được kỳ vọng phát triển mà còn có bước
thụt lùi đáng kể và cuối cùng là đi tới tình trạng khủng hoảng nợ công. Những bất cập
trong các quyết định kinh tế của các nước Mỹ Latinh bắt nguồn từ vấn đề lớn nhất: sự
quân chủ độc tài trong quá trình chuyển dịch lên kinh tế thị trường làm cho thị trường
hoạt động kém hiệu quả.
Vào những năm 1980, các ngành kinh tế chủ chốt tại các nước châu mỹ Latinh
vẫn còn được sự bảo hộ của chính phủ, điều này triệt tiêu động lực tự phát triển của các
ngành này, dẫn đến hiện trạng nhiều ngành tăng trưởng hết sức chậm chạp, thường
xuyên vay vốn nhưng không thực sự cân nhắc sử dụng đồng vốn sao cho đạt được hiệu
quả cao nhất. Đồng thời trong khoảng thời gian này, thị trường tài chính nói chung và
chứng khoán nói riêng ở khu vực không thực sự phát triển. Điều này làm cho nhu cầu
cầu vay vốn tại ngân hàng của doanh nghiệp càng tăng lên. Không những thế chỉ đạo
17


sai lầm từ chính phủ khiến các ngân hàng trực thuộc chính phủ phải giữ lãi suất cho
vay thấp để tiếp tục bảo hộ cho các ngành trọng điểm đã đi lệch hoàn toàn so với quy
luật cung – cầu vốn vay của thị trường, dẫn đến tình trạng cầu vượt quá cung. Như vậy
để có thể đáp ứng được cầu vốn vay buộc chính phủ của các nước phải đứng ra vay vốn
từ nước ngoài.
Đây không phải lỗi sai duy nhất trong điều hành chính sách kinh tế tại các nước
Mỹ Latinh, việc định hướng đầu tư sai lệch vào công nghiệp hoá mới thật sự là sai lầm
lớn nhất dẫn tới khủng hoảng nợ công. Trước mô hình kinh tế càng ngày càng tỏ ra yếu
kém, chính phủ nhiều nước đã quyết định đầu tư mạnh vào công nghiệp hoá. Để làm
được điều đó tất nhiên không thể thiếu việc nhập khẩu nguyên vật liệu và trang thiết bị

máy móc từ nước ngoài, chính điều này làm các nước Mỹ Latinh từ vị thế xuất siêu dầu
trở thành các nước nhập siêu, gây thâm hụt cán cân vãng lai và buộc các nước này phải
vay nợ nước ngoài để tài trợ cho các chi tiêu của chính phủ. Tuy nhiên việc phát triển
công nghiêp hoá trong khi vẫn giữ chế độ thị trường không tự do với quá nhiều sự can
thiệp của chính phủ không cho thấy những tác dụng trong việc thúc đẩy nền kinh tế ở
khu vực này. Theo như đánh giá của Hirschman ( 1971) : “ Công nghiệp hoá được kỳ
vọng sẽ thay đổi trật tự xã hội nhưng tất cả những gì nó làm chỉ là nâng cao sản xuất”.
Nhìn vào biểu đồ dưới đây chúng ta có thể thấy rõ trong giai đoạn cuối thập niên 70,
đầu thập niên 80, sau khi áp dụng mô hình công nghiệp hoá này tăng trường kinh tế tại
các nước Mỹ Latinh không những giảm mà còn đạt đến tăng trưởng âm, cán cân
thương mai cũng giảm sút. Như vậy sự đầu tư không hợp lý vào công nghiệp hoá đã
thất bại trong việc thúc đẩy kinh tế mà thay vào đó đã để lại hậu quả là khoản nợ vay
nước ngoài khổng lồ.

18


Hình 1: Tăng trưởng GDP và cán cân thương mại tài Mỹ Latinh 1961 - 2010 (%)

Từ những điều hành yếu kém về kinh tế dẫn đến nhu cầu vay nợ nước ngoài cao,
các nước châu Mỹ Latinh đã trở nên quá phụ thuộc vào đầu tư nước ngoài. Kể từ chiến
tranh thế giới thứ 2, tỷ lệ đầu tư nước ngoài ở khu vực này chỉ dao động ở mức 19%,
tuy nhiên trong giai đoạn 1975 -1980 tỷ lệ đầu tư đã tăng lên xấp xỉ 23% với chủ yếu là
các khoản đầu tư ngắn hạn. Và ngay khi nền kinh tế có dấu hiệu đi xuống vào nhưng
năm đầu thập niên 80 thì nguồn vốn đầu tư nước ngoài cũng ồ ạt rút khỏi khu vực này
làm tỷ lệ đầu tư nước ngoài giảm mạnh còn 17% trong thập niện 90. Do đã quen phụ
thuộc vào việc vay nợ nước ngoài nên điều này là một cú sốc lớn cho nền kinh tế Mỹ
Latinh, làm rủi ro vỡ nợ bắt đầu được đẩy lên cao.

19



Hình 2: Tổng vốn đầu tư các quốc giá lớn, các quốc gia nhỏ và Mỹ Latinh qua
nhiều giai đoạn ( % GDP)

Nguồn: Bertola & Ocampo (
2012)
 Ảnh hưởng của sụt giảm xuất khẩu
Như vậy từ việc tăng nhu cầu vay vốn để tài trợ cho chi tiêu chính phủ và cho khu
vực tư nhân đã làm ngòi nổ cho khủng hoảng nợ công tại Mỹ Latinh, tuy nhiên đó
không phải là lý do duy nhất. Như đã nêu ở trên, trong những năm thập niên 70 và 80,
nguồn thu chủ yếu ở các nước khu vực Mỹ Latinh chủ yếu đến từ việc xuất khẩu dầu.
Tuy nhiên sau cú sốc giá dầu lần 1, các nước nhập phát triển đã có các chính sách bảo
hộ mậu dịch, hạn chế nhập khẩu để gia tăng sản xuất và tiêu dùng trong nước. Chính
điều này gây ảnh hưởng đến lượng xuất khẩu dầu của các nước Mỹ Latinh và đặc biệt
là Mexico.
Không chỉ chịu ảnh hưởng từ chính sách thương mại quốc tế mà xuất khẩu của
khu vực Mỹ Latinh còn chịu thiệt hại do lạm phát tăng cao trong những năm đầu thập
niên 80. Nguyên nhân xảy ra lạm phát lúc bấy giờ là vì đồng tiền của nhiều nước được
neo cố định với USD. Khi đồng USD lên giá do tình hình thâm hụt ngân sách tại Mỹ
thì đồng tiền của các nước Mỹ Latinh cũng bị đẩy giá lên theo. Tình hình này diễn ra
nghiêm trọng nhất ở Mexico, khi tỷ lệ lạm phát ở nước này vào năm 1981 tăng quá cao
ở mức 27%. Việc xảy ra lạm phát trong nước ảnh hưởng không nhỏ đến mặt hàng xuất
khảu của các nước Mỹ Latinh, khiến cho thu nhập từ xuất khẩu càng sụt giảm, cán cân
vãng lai thâm hụt. Các nước Mỹ Latinh không thể trông vào nguồn thu ngoại tệ từ xuất
khẩu để có thể trả các khoản vay nước ngoài. Chính điều đó làm cho việc chi trả
20


nghĩa vụ nợ càng trở nên khó khăn và cuối cùng một loạt các nước đã phải tuyên bố

mất khả năng trả nợ, khủng hoảng nợ công lan rộng
2.2.2.

Nguyên nhân khách quan

 Quyết định đầu tư không sáng suốt từ các nước châu Âu và Mỹ
Việc gián tiếp đưa các nước Mỹ Latinh rơi vào khủng hoảng nợ công chính là do
nguồn vốn nước ngoài ồ ạt đổ về khu vực này. Sau cú sốc giá dầu tăng lần thứ nhất, cán
cân vãng lai của các nước OPEC thặng dư. Các nước này đã đem phần lớn lợi nhuận
siêu khủng thu về được từ xuất khầu dầu gửi tại hệ thống các ngân hàng uy tín ở Châu
Âu và Mỹ. Đích đến đầu tư của các ngân hàng này chính là khu vực Mỹ Latinh. Lý do
lựa chọn cho vay ở khu vực này là do lúc bấy giờ nhiều nước Mỹ Latinh cũng là nước
xuất khẩu dầu lớn vì vậy họ cũng thu được lợi nhuận cao, khi các ngân hàng quốc tế
nhìn vào trữ lượng dầu của những quốc gia này thì rõ ràng các quốc gia ấy vẫn còn rất
nhiền tiềm năng thu lợi và có thể xếp hạng an toàn tín dụng tốt. Tuy nhiên sai lầm ở
đây là các ngân hàng không suy xét đến nền tảng cơ cấu kinh tế và hướng phát triển
của các quốc gia này đã bộc lộ sự yếu kém từ cuối thập niên 60. Bằng chứng là do sự
không phù hợp của những chính sách vĩ mô và các khoảng vay nợ đều được các nước
sử dụng kém hiệu quả, không sinh lời và cuối cùng là dẫn đến thâm hụt ngân sách, mất
khả năng trả nợ. Ngoài ra tư duy rằng chính phủ một quốc gia là không thể phá sản và
việc cho vay nợ công là an toàn tuyệt đối là không đúng đắn, nhất là đối với những
quốc gia còn đang trong bước chuyển mình như các nước Mỹ Latinh lúc bấy giờ.
Chính vì không suy xét kỹ mà đã rót quá nhiều vốn vào khu vực này rồi lại ồ ạt rút vốn
ra khi thấy nền kinh tế có dấu hiệu đi xuống đã làm cho các nền kinh tế non trẻ này
hoàn toàn mất khả năng chống đỡ, làm cho khủng hoảng nợ công càng bùng phát rộng
hơn.
 Giá trị thực của khoản vay bị đội lên nhiều lần do đồng USD tăng giá
Hầu hết các khoản nợ công của các nước Mỹ Latinh đều là vay bằng đồng dollar
với lãi suất thả nổi trên cơ sở lãi suất LIBOR. Tuy nhiên đến năm 1978, thâm hụt ngân
sách Mỹ làm cho tỷ giá LIBOR tăng từ 9.5% lên 16.6%. Điều này đã làm đẩy giá USD,

tăng giá trị thực của các khoản tín dụng bằng USD, đồng thời cũng làm tăng lãi vay.
21


Chính vì lý do này mà nghĩa vụ nợ của các nước Mỹ Latinh càng trở nên nặng nề,
khiến cho các chính phủ phải tuyên bố mất khả năng trả nợ
2.3. Phản ứng của các quốc gia Mỹ Latinh trong thời gian khủng hoảng
 Giai đoạn 1 ( Từ trước khủng hoảng – 1985)
Trong giai đoạn này, nhiều thay đổi vĩ mô đã được thực hiện với việc các nhà
kinh tế và hoạch định chính sách dự đoán rằng cuộc khủng hoảng sẽ diễn ra trong một
khoảng thời gian ngắn, cuộc khủng hoảng sẽ kết thúc ngay khi các nền kinh tế có dấu
hiệu phục hồi.
Để thoát khỏi cuộc khủng hoảng, đã có những cố gắng thành lập một liên hiệp
giữa những chủ nợ của khu vực này. Điển hình là cuộc hội nghị diễn ra tại Cartagena,
Chile vào năm 1984 (sau này gọi là sự đồng thuận Cartagena). Sau hội nghị này, các
khoản nợ của Bolivia và Ecuador đều đã được hoãn lại, trong khi các con nợ lớn như
Mexico, Brazil hay Venezuela vẫn phải tiếp tục thỏa hiệp trực tiếp với các ngân hàng
của họ, còn Argentina vẫn tỏ thái độ cứng rắn và không chịu thỏa hiệp. Điều này có thể
thấy rằng dù đã cố gắng nhưng khu vực này vẫn chưa có được một sự đồng thuận nhất
định trong khu vực, nhiều quốc gia muốn tự mình giải quyết các khoản nợ của mình.
Chính sự bảo thủ này đã dẫn đến việc khu vực Mỹ Latinh lại càng lún sâu thêm vào
khủng hoảng.
 Giai đoạn 2 (Bắt đầu từ tháng 9 năm 1985)
Cuộc khủng hoảng nợ bước vào giai đoạn hai với sự khởi xướng của kế hoạch
Baker lần thứ nhất (Baker Plan) tại Seoul nhằm đưa ra được những điều chỉnh trong
việc tạo ra những điều luật cho vay hiệu quả hơn cùng với một gói tín dụng đi kèm với
nó. Gói cứu trợ này vào thời điểm đó vẫn chưa đủ để giải quyết hoàn toàn cuộc khủng
hoảng, và hai năm tiếp theo, được thay thế bằng kế hoạch Baker lần thứ hai, đổi mới
trong trong việc tạo điều kiện cho các hoạt động mua lại hoặc trao đổi nợ và cho phép
phát hành trái phiếu với lãi suất thấp.

 Giai đoạn 3 (bắt đầu vào tháng 3 năm 1989, gần bảy năm sau kể từ ngày bắt đầu
cuộc khủng hoảng)
22


Giai đoạn 3 bắt đầu với kế hoạch Brady (Brady Plan), bao gồm việc giảm bớt cán
cân nợ, đi kèm với việc tạo điều kiện cho khu vực Mỹ Latinh được vay mượn từ các
nguồn tài chính tư nhân quốc tế. Đây là giai đoạn cuối cùng của cuộc khủng hoảng, và
các quốc gia Mỹ Latinh cũng dần đi vào phục hồi nền kinh tế. Tuy nhiên, một thập kỷ
suy thoái vì khủng hoảng đã làm cho mức đóng góp của khu vực này vào GDP thế giới
giảm 1,5%, cùng với việc GDP đầu người trong khu vực giảm 8% so với các quốc gia
công nghiệp và 23% so với mức trung bình chung toàn thế giới.
2.4. Bài học rút ra từ khủng hoảng nợ công tại Mỹ Latinh
 Thứ nhất: Bài học về việc vay nợ công hợp lý
Các nước đang phát triển đi vay nợ cần phải phát triển các cơ cấu kinh tế hợp lý,
có trọng điểm đầu tư vốn và có kế hoạch trả nợ rõ ràng, tránh tình trạng vay nợ để đầu
tư vào các công trình kém hiệu quả, lạm dụng quá mức các nguồn vốn vay nợ ngắn
hạn. Dòng vốn đầu tư ngắn hạn chảy vào một quốc gia có thể sẽ nhanh chóng được rút
ra ồ ạt khi các nhà đầu tư thấy mối rủi ro, điều này sẽ gây mất cân bằng lớn đến nền
kinh tế, vì vậy việc quá phụ thuộc vào nợ công là vô cùng nguy hiểm.
 Thứ hai: Bài học về việc vay bằng đồng ngoại tệ và chính sách tỷ giá kém linh hoạt
Hầu hết các nước rơi vào khủng hoảng đều duy trì chế độ tỷ giá cố định, neo cố
định đồng nội tệ với USD. Việc duy trì một chế độ tỷ giá cố định sẽ khiến cho đồng nội
tệ bị định giá quá cao do các đồng tiền mạnh như USD lại được thả nổi linh hoạt . Hậu
quả là giảm sức cạnh tranh thương mại quốc tế của quốc gia. Hơn nữa, khi nội tệ bị phá
giá sẽ làm gánh nặng nợ nước ngoài tăng lên quá mức gây khó khăn trong thanh toán
của quốc gia đó
 Thứ ba: Xây dựng hệ thống tài chính ngân hàng hoạt động hiệu quả và dự trữ ngoại
hối hợp lý để tự phòng vệ trước nguy cơ khủng hoảng
Chúng ta thấy rõ rằng, với tiềm lực tài chính của thế giới thì không thể tránh hay

loại bỏ hoàn toàn các cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Mỗi quốc gia phải tự học
cách bảo vệ mình, tìm cách loại bỏ các rủi ro cho nền kinh tế. Điều đó có nghĩa là,
quốc gia đó phải xây dựng được một hệ thống ngân hàng hoạt động đúng luật định có
23


dự trữ ngoại hối dồi dào, có chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt, khuyến khích các luồn vốn
đầu tư dài hạn và hạn chế các luồng vốn ngắn hạn nhiều rủi ro
 Thứ tư: Hình thành những diễn đàn quốc tế để xử lý những vấn đề về khủng hoảng
kinh tế
Ngày nay, do tính chất toàn cầu hoá của nền kinh tế thế giới, các cuộc khủng
hoảng xảy ra mang tính toàn cầu, nhưng các biện pháp điều chỉnh lại chỉ mang tính
quốc gia. Chính vì vậy, trong cuộc họp tại Washington ngày 3/10/1998, Bộ trưởng Tài
chính và Thống đốc NHTW các nước G7 đã yêu cầu ông Hans Tietmayer, Chủ tịch của
Bundes Bank trình bày những ý kiến tư vấn liên quan đến những biện pháp điều chỉnh
tài chính quốc tế. Ông Hans Tietmayer đã đưa ra ý tưởng về thành lập “Diễn đàn ổn
định tài chính quốc tế” và đã được nhất trí. Trong cuộc họp đầu tiên được tổ chức vào
tháng 4/1999, Diễn đàn này đã đặt ra hai nhiệm vụ, đó là: Thứ nhất là làm giảm rủi ro
tiềm ẩn của các tổ chức tài chính như các quỹ phòng ngừa rủi ro; Thứ hai là đưa ra các
biện pháp làm giảm sự biến động bất thường của các luồng chu chuyển vốn quốc tế.
Đây là những biện pháp quan trọng làm giảm những nguyên nhân gây ra khủng hoảng
mà thực tế các nền kinh tế mới nổi những năm cuối thế kỉ XX đã xảy ra.

24


Chương 3: Khắc phục khủng hoảng nợ công ở Việt Nam
3.1. Thực trạng nợ công ở Việt Nam hiện nay
Đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, vay nợ là một trong những công
cụ cần thiết để tài trợ vốn, đáp ứng nhu cầu đầu tư và khuyến khích phát triển sản xuất

trong giai đoạn nền kinh tế có mức tích lũy thấp. Tuy nhiên, như bất kì quốc gia nào
khác trên thế giới, nếu việc vay nợ bị lạm dụng và nguồn tài chính đi vay được này bị
phân bổ thiếu hiệu quả, các khoản nợ sẽ trở thành một gánh nặng cho tương lai, khiến
sự bền vững của nền kinh tế bị đe dọa.
 Quy mô nợ công
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nợ công Việt Nam đang có xu hướng tăng
lên rất nhanh.
Hình 3. Tình hình nợ công và nợ nước ngoài so với GDP giai đoạn 2010 – 2017
(%)
70
60

56.3

50

42.2

54.9
41.5

50.8
37.4

58

54.5
37.3

38.3


61

63.7
52.7

61.3
49

42

40
30

Nợ
công
so
với
GDP
Nợ
nước
ngoài
so
với
GDP

20
10
0
2010


2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

Nguồn: Bộ tài chính
Theo nghị quyết số 25/2016/QH14 của quốc hội, nợ công hàng năm không được
vượt quá 65% GDP, nợ chính phủ không vượt quá 54% GDP và nợ nước ngoài không
vượt quá 50% GDP. Số liệu mới nhất của Bộ Tài chính cho thấy nợ công nước ta giảm
xuống mức 61,3% GDP năm 2017 từ mức 63,6% GDP của năm 2016, thấp hơn con số
62,6% GDP ước tính trước đó. Tuy nhiên, nợ công vẫn ở mức rất gần với ngưỡng an
25


toàn 65% GDP do Quốc hội đề ra. Theo Reinhart và Rogoff (2010), ngưỡng nợ công
tối ưu (nhằm đảm bảo nợ công là động lực giúp tăng trưởng kinh tế) thông thường cho
các nước phát triển là 90%, các nước đang phát triển có nền tảng tốt là 60%. Nghiên
cứu chỉ ra tác động của nợ công tới tăng trưởng kinh tế, rằng tăng trưởng GDP bình
quân tại thị trường mới nổi dao động trong khoảng 4% - 4.5% khi nợ công dưới mức
90%, tuy nhiên GDP bình quân chỉ tăng 2.9% nếu nợ công vượt ngưỡng 90%, như vậy

mức độ tăng trưởng GDP đã giảm tới hơn 1%. Vì vậy, trần nợ công/GDP được Quốc
hội đề ra 65% là phù hợp với thông lệ quốc tế và việc vượt ngưỡng tối ưu này có thể
tiềm ẩn rủi ro. Theo Nguyễn (2016), nợ công vượt quá ngưỡng an toàn sẽ dẫn đến
những tác động tiêu cực khiến nền kinh tế bị tổn thương và chịu nhiều sức ép từ cả bên
trong lẫn bên ngoài.
Hình 4. Nợ công của Việt Nam và các nước trong khu vực Châu Á giai đoạn 2010
– 2017 (%GDP)
70
60

Cambodia

50

Indonesia

40

Lao P.D.R.

30

Malaysia
Philippines

20

Thailand

10


Vietnam

0
2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

Nguồn: IMF
Việt Nam có chỉ số nợ công cơ bản của quốc gia vượt trội so với các quốc gia so
sánh trong khu vực và mức bình quân ở các thị trường mới nổi khác không chỉ do mức
nợ thuộc dạng cao nhất mà còn do tốc độ tăng nhanh của tỷ lệ nợ trên GDP. Trong giai
đoạn 2000 - 2016, từ chỗ có tỷ trọng nợ công/GDP thấp nhất trong nhóm nước đang
phát triển, nợ công của Việt Nam đã tăng vọt lên trong những năm gần đây để vượt lên
đứng đầu vào năm 2016. Nợ công Việt Nam tăng 5%, từ 56.3% năm 2010 lên 61.3%
26



năm 2017. Trong khi đó, Campuchia chỉ tăng 1.6%, Indonesia tăng 4.4%, Malaysia
tăng 2.3% và Thái Lan tăng 2.1%, Philipines giảm 11.9%. Với tốc độ tăng trưởng liên
tục khoảng 5% mỗi năm như giai đoạn 2010 – 2017, nợ công Việt Nam sẽ mau chóng
vượt ngưỡng an toàn 65% đã đề ra.
Xét về chỉ tiêu nợ công bình quân đầu người thì Việt Nam ở mức khá thấp so với
một số quốc gia khác trong khu vực. Theo số liệu năm 2015, nước có chỉ số nợ công
bình quân đầu người cao nhất là Singapore với 56,000 USD, tiếp theo là nước Malaysia
7,696.9 USD, Thái Lan 3,450.8 USD. Việt Nam, Indonesia, Philippines có chỉ số nợ
bình quân đầu người năm 2015 xấp xỉ khoảng 1,000 USD.
Hình 5. Nợ công bình quân đầu người Việt Nam và các nước trong khu vực 2015
(USD)

955.9
Việt Nam

1118.7

Indonesia

7696.9

2015

Malaysia
Philipine

1417.7
56000
3450.8


0

10000

Singapore
Thái Lan

20000

30000

40000

50000

60000

Nguồn. Vietdata
Nếu như năm 2007, mỗi người dân Việt Nam chỉ phải chịu gánh một khoản nợ
340.1 USD thì tới năm 2015, con số này đã lên tới 955.9 USD, tăng xấp xỉ 2.8 lần.
Những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng nợ công trên đầu người đã chậm lại, nếu giai
đoạn 2007 – 2011, nợ công tăng gần 98.9% thì giai đoạn 2011 – 2015, nợ công một
người phải chịu chỉ tăng 44.4%, từ 662.8 lên 955.9 USD. Do sự gia tăng đột biến của
nợ công quốc gia năm 2016 chạm trần nợ công, với dân số khoảng 91.7 triệu người, nợ
công bình quân năm 2016 đã tăng tới 1261.7 USD, tăng gần 32% so với năm trước đó.
27


Theo số liệu thống kê mới nhất của The Global Debt Clock, đến hết năm 2017, mức nợ
bình quân đầu người của Việt Nam là 1,039 USD.

Hình 6. Nợ công bình quân đầu người Việt Nam giai đoạn 2007 – 2016
1400

32.0% 35%

1200

26.9%
23.4%

1000

19.0%

800
13.9%
600
400

30%

662.8

705.2

789.1

872.8

955.9


25%
20%

521.4

384.7

11.9% 10.6%

340.1

9.6%

15%
10%

6.4%

200

5%

0

0%
2007 2008

2009 2010


2011

2012

2013

Nợ công bình quân đầu người (USD)

2014

2015

2016

Tốc độ tăng trưởng nợ công

Nguồn. Vietdata
 Thay đổi cơ cấu nợ công và kỳ hạn nợ
Hình 7. Cơ cấu nợ công Việt Nam giai đoạn 2010 – 2017 (%)
100%
90%
80%

Nợ địa phương

70%
60%

Nợ Chính phủ bảo


50%

lãnh

40%

Nợ chính phủ

30%
20%
10%
0%
2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

Nguồn. Báo cáo liên ngành của World Bank


28


Trong cơ cấu nợ công của Việt Nam, nợ Chính phủ luôn chiếm tỉ trọng lớn nhất
và ngày càng tăng cao, trong giai đoạn 2010 – 2017, khu vực này đã tăng 3.6%, từ
79.1% lên 82.7%. Nợ chính phủ bảo lãnh và
Hình 9. Dư nợ Chính phủ bảo lãnh (%)

Hình 8. Dư nợ Chính phủ 2010 – 2016 (%)

nợ địa phương chiếm tỷ trọng nhỏ hơn,
năm 2017 lần lượt là 15.8% và 1.5%.
100%
90%
100%
90%

80%
70%

80%
70%
60%
50%
40%
30%

60%
50%
40%

30%
20%
10%

20%
10%
0%

0%

Nợ trong
nước
Nợ nước
ngoài

201020112012201320142015

2010 2011 2012 2013 2014 2015

Nguồn. Bản tin nợ công số 4, 5 Bộ tài chính Tỷ trọng nợ trong nước trên tổng nợ
công tăng từ 45% năm 2010 lên đến 55,4%
năm 2015.
Trong nợ chính phủ, tỉ trọng nợ nước ngoài ngày càng tăng cao, trong giai đoạn
từ 2010 – 2015, tăng từ 39.7% lên 54.4%. Ngược lại, nợ nước ngoài trong dư nợ Chính
phủ bảo lãnh lại giảm đi, thay bằng nợ trong nước. Do khả năng tiếp cận nguồn vốn ưu
đãi của nước ngoài bị hạn chế vì các nhà tài trợ đang dần rút đi, Chính phủ đã phải chủ
yếu dựa vào nợ trong nước để đáp ứng nhu cầu vốn. Mặc dù sử dụng nợ trong nước
làm giảm rủi ro tỷ giá và góp phần phát triển thị trường vốn trong nước, nhưng tăng nợ
trong nước lại làm cho kỳ hạn danh mục nợ bị rút ngắn. Khi thị trường trong nước còn
mỏng và có ít thành phần tham gia (chủ yếu là khu vực ngân hàng), nhu cầu mua nợ

trong nước với kỳ hạn dài còn hạn chế. Vì vậy, Chính phủ đã có nhiều nỗ lực nhằm kéo
dài kỳ hạn trái phiếu kho bạc trong nước.
29


×