Tải bản đầy đủ (.pdf) (162 trang)

NGHIÊN CỨU VÀ DẠY - HỌC LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG Ở VIỆT BẮC.TS. ĐỖ HỒNG THÁI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1019.71 KB, 162 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

TS ĐỖ HỒNG THÁI

NGHIÊN CỨU
VÀ DẠY - HỌC

LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG
Ở VIỆT BẮC


LỜI GIỚI THIỆU
Nhà trường phổ thông có trách nhiệm lớn trong việc
giáo dục thế hệ trẻ theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
"Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất
quan trọng và rất cần thiết”(1). Bộ môn Lịch sử có vị trí
quan trọng đối với công cuộc giáo dục này, như Tổng Bí
thư Đỗ Mười đã khẳng định: "Phải coi trọng giáo dục lịch
sử dân tộc, lịch sử cách mạng, lịch sử quân đội, phải in
nhiều sách lịch sử phổ biến rộng, phải coi lịch sử là tài liệu
giáo khoa số một trong nhà trường... Nếu không làm tốt
giáo dục lịch sử, thanh niên sẽ chạy theo đồng tiền, chạy
theo lợi ích khác, có hại cho sự nghiệp chung”(2).
Tiếc rằng, ở nước ta trong nhiều năm qua môn Lịch sử
bị xem là "môn phụ", hiện nay lại bị tác động tiêu cực của
cơ chế thị trường nên tụt xuống hàng cuối của thang giá từ
các môn học ở trường phổ thông.
Tình trạng trên cần sớm chấm dứt về những quan niệm
sai lầm đối với bộ môn và bằng nhiều biện pháp có hiệu
quả để nâng cao chất lượng dạy và học. Một trong những


biện pháp có ý nghĩa quan trọng về lý luận và thực tiễn đối
với giáo dục lịch sử là tổ chức tốt cho việc dạy, học Lịch sử
ở địa phương, theo chương trình đã quy định. Trên thực tế,
hiện nay không ít giáo viên còn gặp những khó khăn, lúng
túng khi thực hiện các tiết lịch sử địa phương, nên hiệu
quả, chất lượng dạy học còn thấp.
2


Việc giảng dạy và học tập Lịch sử địa phương đã được
chú trọng từ lâu ở nhiều nước (như Liền Xỏ cũ) và ở nước
ta sau cách mạng tháng Tám 1945, Lịch sử địa phương
được đưa vào chương trình lịch sử của nhà trường phổ
thông Việt Nam sau các cuộc cải cách giáo dục (1950,
1956, 1979) đã khẳng định vị trí, ý nghĩa của việc dạy, học
Lịch sử địa phương và đạt được nhiều kết quả vè mặt nội
dung và phương pháp dạy học. Cho đến nay đã có nhiều
quyển sách biên soạn về lịch sử địa phương, như "Công
tác ngoại khoá Lịch sử ở trường cấp II, III” của Phan
Ngọc Liên, Nguyễn Phan Quang, Trần Văn Trị (1968),
quyển "Lịch sử địa phương" của Trương Hữu Quýnh,
Phan Ngọc Liên... (1989) và nhiều quyển khác của Nguyễn
Cảnh Minh, Trịnh Tùng, Nguyễn Thị Côi, Trần Đức Minh...
Một số Sở Giáo dục và Đào tạo (Nam Hà, Hà Bắc, Hà Tây,
Hải Phòng, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Bình Định...) đã tổ chức
biên soạn tập bài giảng về Lịch sử địa phương.
Như vậy Đô Hồng Thái đã tiếp thu được nhiều thành
tựu nghiên cứu của Lịch sử địa phương về mặt quan điểm
lý luận cũng như nội dung và phương pháp dạy học. Tuy
nhiên, phần đóng góp của tác giả không nhỏ trong việc ông

hợp, hệ thông hoá và nâng cao những vân để khoa học về
lịch sử địa phương, tạo điều kiện cho các giáo viên các
trường trung học phổ thông, đặc biệt ở vùng Việt Bắc, làm
tốt hơn một công việc quan trọng được qui định trong

3


chương trình lịch sử ở trường trung học phổ thông. Hơn 1
nữa, Đỗ Hồng Thái đã có khá nhiều thành tựu và kinh
nghiệm trong việc nghiên cứu Lịch sử địa phương, nên
sách này cũng phản ánh những hiểu biết (lý luận và thực
tế), kỹ năng nghiệp vụ khá thành thạo của mình, làm cho
sách thêm sinh động, phong phú, bổ ích và hứng thú đối với
giáo viên.
Sách cấu tạo thành 2 phần một cách hợp lý về nội dung
và cân đối về bố cục:
Phần thứ nhất trình bày những vân để cơ bản về lịch sử
địa phương: Khái niệm, vị trí, ý nghĩa của việc nghiên cứu,
dạy học ở trường phổ thông...
Phần thứ hai tập trung nêu rõ những công việc cụ thể
mà giáo viên và học sinh cần tiến hành trong nghiên cứu và
dạy học Lịch sử địa phương.
Thông qua việc trình bày những quan điểm, lý luận, tác
giả dẫn chứng nhiều sự kiện, tài liệu lịch sử cụ thể, chủ yếu
ở Việt Bắc để người đọc nhận thức cụ thể và thấy rõ cách
làm.
Người đọc dễ dàng nhận thấy những vấn để lớn, cơ bản
được trình bày trong sách của Đỗ Hồng Thái:
- Vị trí và mối quan hệ của Lịch sử địa phương đối với

(1). Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập X, NXB Sự thật. Hà Nội,
1989 tr.862
(2). Xem tập Xưa và nay, số tháng 7 – 1996. trang 4.
4


Lịch sử dân tộc, đó là một bộ phận không tách rời của lịch
sử dân tộc.
Do đó, việc học Lịch sử địa phương là cẩn thiết nó
không chỉ bổ sung, làm phong phú, cụ thể hoá bức tranh
sinh động của Lịch sử dân tộc mà Còn có tác dụng to lớn
trong việc giáo dục lòng tự hào, yêu qúi quê hương - một
nội dung quan trọng của lòng yêu nước - và xác định trách
nhiệm đối với việc xây dựng và bảo vệ quê hương.
- Việc dạy học Lịch sử địa phương ở trường PTTH thực
sự là một công tác khoa học đòi hỏi tính khoa học cao, tính
Đảng sâu sắc, tính nhân dân rộng lớn, tính nghiệp vụ và
giáo dục. Cần phải quán triệt những nguyên tắc cơ bản
sau:
+ Thể hiện tính chính xác, toàn diện, hệ thống.
+ Đứng vững trên quan điểm phương pháp luận Mácxít Lêninnít và tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Đảm bảo những yêu cầu của việc giáo dục Lịch sử ở
trường phổ thông về mặt giáo dưỡng (kiến thức), giáo dục
(quan điểm tư tưởng - chính trị, phẩm chất, đạo đức) và
phát triển (nhận thức và hành động). Thực hiện tốt những
yêu cầu này sẽ thu được những kết quả trong việc cung cấp
kiến thức, giáo dục tư tưởng, tình cảm, phát huy năng lực
độc lập học tập của học sinh và đạt được giá trị của việc
dạy học.
+ Ngoài việc tuân thủ những quan điểm tư tưởng chính trị, khoa học của việc nghiên cứu Lịch sử, việc quán

5


triệt và thực hiện có hiệu quả cao công tác vận động quần
chúng là yêu cầu quan trọng có tính nguyên tắc trong
nghiên cứu Lịch sử địa phương.
+ Việc nghiên cứu và dạy, học lịch sử địa phương đòi
hỏi sự nỗ lực của bản thân giáo viên kết hợp việc phát huy
năng lực độc láp sáng tạo của học sinh, sự cộng tác, giúp
đỡ của quần chúng, các cơ quan lãnh đạo, tổ chức văn hoá
khoa học của địa phương và trung ương. Cần xác định rõ
ràng, cùng với việc nghiên cứu những vấn để về giáo dục
Lịch sử (phương pháp dạy, học Lịch sử) việc nghiên cứu
Lịch sử địa phương là nhiệm vụ, ưu thế của giáo viên
phổ thông. Công việc này không chỉ giúp giáo viên làm tốt
nhiệm vụ giáo dục của mình, mà còn có những đóng góp
nhất định với địa phương (biên soạn lịch sử địa phương,
xây dựng nhà truyền thông, bảo tàng Lịch sử, Cách
mạng...) và việc nghiên cứu Lịch sử dân tộc (đặc biệt
những sự kiện có liên quan đến Lịch sử dân tộc).
Với tư cách là nhà giáo dục Lịch sử Đỗ Hồng Thái đã
dành một phần quan trọng trình bày về việc nghiên cứu,
dạy, học Lịch sử địa phương ở trường phổ thông trung học.
Từ đặc điểm, vị trí, nội dung của Lịch sử địa phương và
mối quan hệ với lịch sử dân tộc (trong một chừng mực nhất
định với lịch sử thế giới), tác giả đã trình bày việc sử dụng
tài liệu Lịch sử địa phương (dạy 1 tiết riêng, minh hoạ, cụ
thể hoá, liên hệ thực tế trong bài học Lịch sử dân tộc) và
các hình thức, phương pháp tiến hành một bài nội khoá
(trên lớp và tại thực địa) và những hoạt động ngoại khoá

6


(sưu tầm tài liệu, biên soạn Lịch sử, xây dựng nhà bảo
tàng, truyền thống, dạ hội Lịch sử, công tác công ích xã
hội...)
Những quan điểm lý luận, kinh nghiệm thực tế và
nghiệp vụ sư phạm được trình bày tương đối đầy đủ, có hệ
thống trong sách này rất bổ ích đối với giáo viên lịch sử.
Sách còn là tài liệu tham khảo tốt cho sinh viên các trường
đại học và cao đẳng sư phạm (hệ tập trung, giáo dục từ
xa...). Vì vậy, sách sẽ được hoan nghênh và nhận được
nhiều ý kiến bổ ích của đông đảo bạn đọc.
Hội Giáo dục Lịch sử (thuộc Hội Khoa học Lịch sử Việt
Nam) đã đóng góp phần nhỏ vào việc hoàn chỉnh và ra đời
quyển sách này và xem như trách nhiệm của mình trong
việc động viên, khuyến khích tất cả hội viên và tổ chức cơ
sở của Hội tiến hành những công việc tương tự.
Xin trân trọng giới thiệu với đông đảo bạn đọc trong và
ngoài ngành giáo dục Lịch sử.

GS. PHAN NGỌC LIÊN
Chủ tịch Hội đồng bộ môn Lịch sử
Bộ Giáo dục và Đào tạo
Chủ tịch Hội Giáo dục Lịch sử Việt Nam.

7


PHẦN THỨ NHẤT


KHÁI LUẬN VỀ LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG
Trong xu thế phát triển chung của thời đại ngày nay,
các quốc gia, các dân tộc đều vươn lên cập nhật và hoà
đồng với sự tiến bộ của nhân loại, mặt khác ngày càng phát
huy để bảo tồn nét độc đáo có tính đặc thù của dân tộc
mình. Chính vì vậy việc nghiên cứu, dạy học lịch sử ở nước
ta hiện nay đã được đổi mới trên tất cả các mặt: chương
trình, nội dung, phương pháp nghiên cứu và dạy học. Dân
tộc Việt Nam tự hào về những trang sử vẻ vang của mình
được nêu qua các tác phẩm tiêu biểu: "Đại Việt sử ký toàn
thư", "Việt sử Thông giám cương mục", "Đại Nam thực
lục" v.v... cùng các nhà sử học nổi tiếng ở các triều đại
phong kiến: Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên, Lê Quý Đôn, Phan
Huy Chú, và lại càng tự hào về nền sử học nước nhà trong
mấy chục năm qua. Lịch sử là tất cả những gì đã xẩy ra
trong quá khứ, nhưng nhận thức đúng về nó thì không chỉ
có hiểu biết hiện tại mà còn cả tương lai. Tính khách quan
của lịch sử cần được lịch sử kiểm chứng. Chính nhận thức
vô hạn của con người qua các thế hệ đã làm cho lịch sử của
chính mình ngày càng hoàn thiện hơn. Phản ánh đúng đắn
và toàn diện về lịch sử đang và luôn là những đòi hỏi khách
quan bức xúc. Lịch sử dân tộc cũng đang cần được bổ sung
bằng chính sự nghiên cứu sâu sắc lịch sử ở các địa phương.
Sự kiện, hiện tượng lịch sử đang cần được đặt đúng trong
hoàn cảnh lịch sử và đúng vị trí không gian của nó.
8


Những năm gần đây, việc nghiên cứu, biên soạn lịch sử

địa phương đã được đẩy mạnh, góp phần quan trọng vào
việc giáo dục tư tưởng tình cảm trong sáng lành mạnh,
truyền thống tốt đẹp của địa phương cho nhân dân và thế hệ
trẻ trong nhà trường. Tuy nhiên việc nghiên cứu chưa được
tiến hành rộng khắp, kết quả nghiên cứu ở các khu vực
miền núi (phía Bắc) chưa đáp ứng được những đòi hỏi của
thực tiễn hiện nay. Hoạt động nghiên cứu lịch sử địa
phương ở vùng núi còn gặp nhiều khó khăn, vì thiếu đội
ngũ cán hệ chuyên môn, chưa thu hút đông đảo lực lượng
tham gia nghiên cứu. Việc nghiên cứu và dạy học lịch sử
đìa phương trong nhà trường phổ thông còn nhiều hạn chế,
ảnh hưởng tới chất lượng dạy học bộ môn lịch sử ở nhà
trường. Chính vì vậy xác định rõ mục đích, yêu cầu, ý
nghĩa và trang bị phương pháp nghiên cứu, dạy học lịch sử
địa phương đang là đòi hỏi bức thiết.
I. KHÁI NIỆM "LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG"
1. Khái niệm "địa phương"
Địa phương là những vùng đất nhất định nằm trong một
quốc gia có những sắc thái đặc thù riêng, là bộ phận cấu
thành đất nước. Khái niệm "địa phương" có thể hiện theo
hai khía cạnh cụ thể và trừu tượng. Với nghĩa thứ nhất, có
thể gọi địa phương là những đơn vị hành chính như các xã,
huyện, tỉnh, thành phố. Với nghĩa thứ hai, có thể gọi "địa
phương” là những vùng đất nhất định được hình thành
trong lịch sử, có ranh giới tự nhiên để phân biệt với vùng
đất khác (ví dụ: miền Bắc, miền Nam, khu vực Tây Bắc,
9


Việt Bắc v.v...). Cũng chính vì thế có ý kiến quan niệm

theo cách đơn giản là: tất cả những gì không phải của
"Trung ương" hay "Quốc gia" đều được coi là địa phương.
Như vậy thủ đô của một quốc gia hay từng khu vực của thủ
đô cũng được xem là địa phương. Từ nhận thức như vậy, ta
có thể hiểu được tích sử địa phương cung chính là lịch sử
của các làng, xã, huyện, tỉnh hay khu vực vùng miền.
Lịch sử địa phương còn bao hàm ý nghĩa lịch sử của
các đơn vị sản xuất, chiến đấu, các trường học, cơ quan, xí
nghiệp v.v... Xét về yếu tố địa lý, các đơn vị đó đều gắn với
một địa phương nhất định song nội dung của nó mang tính
kỹ thuật, chuyên môn, do vậy có thể xếp nó vào dạng lịch
sử chuyên ngành.
Như vậy, bản thân lịch sử địa phương rất đa dạng,
phong phú cả về nội dung và thể loại.
2. Đối tượng nghiên cứu:
Lịch sử địa phương chưa phải là một ngành khoa học
độc lập, mà chỉ là bộ phận của việc nghiên cứu lịch sử dân
tộc. Tuy vậy nó cũng được xác định rõ đối tượng nghiên
cứu. Từ cách định nghĩa nêu trên, lịch sử địa phương có ba
đối tượng nghiên cứu chủ yếu sau đây:
Nghiên cứu các đơn vị hành chính của một quốc gia:
các thôn, xã huyện, tỉnh, thành phố v.v... Với loại đối tượng
này, lịch sử địa phương nghiên cứu toàn diện các hoạt đọng
của con người (kinh tế, văn hoá, chính trị, quân sự, tư
tưởng, tôn giáo v.v...) Ở một địa phương. Những mặt đó
10


gắn liền với quá trình hình thành, ổn định và phát triển của
địa phương; mặt khác nó được xem xét đánh giá trong bối

cảnh chung của lịch sử dân tộc. Trên cơ sở đó khai thác nét
độc đáo, đặc thù của địa phương, những giá trị vật chất và
văn hoá tinh thần, những đóng góp quý báu để xây dựng
truyền thống chung, bổ sung hoàn chỉnh hoá lịch sử dân
tộc. Lịch sử địa phương còn phản ánh một cách chuẩn xác,
toàn diện, khách quan quá trình phát triển của địa phương
với cả những mặt tích cực và hạn chế, thất bại và thành
công, đảm bảo giá trị khoa học để giáo dưỡng và giáo dục.
Nghiên cứu về đối tượng này, có nhiều thể loại phong
phú, chẳng hạn:
+ Thông sử địa phương.
+ Lịch sử Đảng bộ địa phương.
+ Lịch sử phong trào cách mạng địa phương.
+ Lịch sử phát triển kinh tế, văn hoá ở địa phương.
+ Những truyền thống tốt đẹp của địa phương trong
lịch sử v.v…
- Lịch sử địa phương nghiên cứu các sự kiện, hiện
tượng lịch sử ở một vùng có liên quan tới những sự kiện,
biến cố trong lịch sử dân tộc, chẳng hạn: sự kiện Nhật đảo
chính Pháp (9.3.1945); Cuộc cách mạng tháng Tám; Việc
thực hiện chủ trương triệt để giảm tô, tiến hành cải cách
ruộng đất ở một địa phương (1953-1954). Cũng có thể đi
sâu nghiên cứu vê một cuộc khởi nghĩa, một chiến dịch,
11


một trận đánh, một nhân vật lịch sử nổi tiếng v. v... Những
đối tượng như vậy thường được đi sâu nghiên cứu, trình
bầy dưới dạng các chuyên khảo.
- Nghiên cứu các đơn vị sản xuất (nông trường, lâm

trường, xí nghiệp, nhà máy), nghiên cứu các cơ quan,
ngành, trường học, các tổ chức đoàn thề quần chúng (tổ
chức Đoàn thành niên, Phụ nữ, Mặt trận Tổ quốc, ngành
Bưu điện, Giao thông v.v...). Đây là lịch sử các chuyên
ngành. Ở loại đối tượng này, thường được trình bầy sự phát
triển hoặc lịch sử truyền thống ngành.
II. VỊ TRÍ CỦA CÔNG TÁC NGHIÊN CỨU
LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG
1. Quan hệ giữa lịch sử địa phương và lịch sử dân
tộc.
Đây là mối quan hệ biện chứng không thể tách rời nằm
trong cặp phạm trù "Cái chung và cái riêng". Tri thức lịch
sử địa phương là biểu hiện cụ thể, sinh động, đa dạng của
tri thức lịch sử dân tộc Lịch sử địa phương là bộ phận cấu
thành lịch sử dân tộc. Nói vậy không có nghĩa một công
trình nghiên cứu lịch sử dân tộc là kết quả của phép tính
cộng các cuốn lịch sử địa phương. Lịch sử dân tộc được
hình thành trên nền tảng khối lượng tri thức lịch từ địa
phương đã được khái quát và tổng hợp ở mức độ cao.
Bất cứ một sự kiện, hiện tượng lịch sử nào xẩy ra đều
mang tính chất địa phương, bởi nó gắn với một vị trí không
gian cụ thể ở một hoặc một số địa phương nhất định. Tuy
12


nhiên, nhưng sự kiện, hiện tượng đó có tính chất, qui mô,
mức độ ảnh hưởng khác nhau. Có nhưng sự kiện, hiện
tượng chỉ có tác dụng, ảnh hưởng ở một phạm vi nhỏ hẹp
của địa phương, nhưng có những sự kiện, hiện tượng xảy ra
có mức độ ảnh hưởng vượt khỏi khung giới địa phương,

mang ý nghĩa rộng đối với quốc gia, thậm chí đối với cả thế
giới. Chính vì vậy có những sự kiện lịch sử địa phương gắn
liền với lịch sử dân tộc hoặc rộng hơn là lịch sử thế giới(1).
Không chỉ riêng các nhà sử học chuyên nghiên cứu sâu về
lịch sử, mỗi con người (ở mức độ khác nhau) đều có nhu
cầu tìm hiểu về cuộc sống và những ví trí không gian khác
nhau. Tri thức lịch sử sẽ làm giàu thêm tri thức của cuộc
sống con người. Bài học lịch sử luôn chỉ cho con người biết
cách hoạt động đúng đắn trong hiện tại và tương lai. Lịch
sử thực sự là "cô giáo của cuộc sống". Chính vì lẽ đó, sự
am tường về lịch sử dân tộc còn bao hàm cả sự hiểu biết
cần thiết về lịch sử địa phương, hiểu biết về lịch sử của
chính miền quê, xứ sở, nơi chôn nhau cắt rốn của mình,
hiểu rõ mối quan hệ của lịch sử ở địa phương với lịch sử
của dân tộc và rộng lớn là lịch sử thế giới.
2. Lịch sử địa phương với việc giảng dạy Lịch sử ở
trường phổ thông.
Việc nghiên cứu lịch sử địa phương có ý nghĩa quan
trọng trong việc góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục ở
trường phổ thông. Thông qua công tác nghiên cứu lịch sử
địa phương, hoạt động của nhà trường có điều kiện để gắn
liền với xã hội, lý luận đi đôi với thực hành.
Việc nghiên cứu lịch sử địa phương còn bồi dưỡng cho
13


các em học sinh nhưng kỹ năng cần thiết trong việc vận
dụng tri thức vào giải quyết những nhiệm vụ cụ thể mà
thực tiễn đang đòi hỏi. Đây là công tác nghiên cứu khoa
học, cần phải có ý thức nghiêm túc, sự say mê, sáng tạo, có

kỹ năng phân tích, so sánh, đánh giá, khái quát tổng hợp.
Nhưng đòi hỏi đó góp phần rèn luyện và phát triển năng lực
học tập và nghiên cứu của học sinh. Từ hoạt động thực tiễn
đó, các em thấy được sự phát triển đa dạng sinh động, phức
tạp và thú vị của lịch sử ở các địa phương, thấy được mối
quan hệ chặt chẽ của lịch sử địa phương và lịch sử dân tộc,
thấy được nét độc đáo, đặc thù của lịch sử địa phương,
song vẫn tuân thủ theo qui luật phát triển chung của lịch sử
dân tộc và lịch sử nhân loại.
Những kết quả nghiên cứu lịch sử địa phương của thầy,
trò trong nhà trường vừa là nguồn tài liệu phục vụ công tác
dạy học lịch sử, vừa giúp cho các địa phương có những tài
liệu bổ ích để động viên, tuyên truyền, giáo dục nhân dân
và trong chừng mực góp phần thực hiện những mục tiêu
kinh tế, xã hội ở địa phương. Hoạt động nghiên cứu lịch sử
địa phương như nhịp cầu nối tình cảm của nhà trường với
nhân dân địa phương cung là biện pháp để khai thác sức
sáng tạo tiềm tàng của quần chúng cách mạng. Nguồn tài
liệu lịch sử địa phương, với những loại hình đa dạng phong
phú, sinh động là cơ sở cho việc tạo những biểu tượng lịch
sử và hiểu sâu sắc các khái niệm, các sự kiện, hiện tượng ở
bài học lịch sử. Tri thức lịch sử địa phương có ý nghĩa giáo
dục sâu sắc, lòng tự hào chân chính về những truyền thống
tốt đẹp của địa phương, tình yêu quê hương, xứ sở, ý thức
bảo vệ, giữ gìn di sản văn hoá, di tích lịch sử v.v...
14


Với những ý nghĩa đó, nghiên cứu lịch sử địa phương
giữ vị trí quan trọng trong nhà trường. Mỗi địa phương

luôn là nguồn cảm hứng đối với việc nghiên cứu lịch sử.
III. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG HIỆN NAY.
1. Việc nghiên cứu lịch sử địa phương trên thế giới:
Ở các nước phát triển, công tác nghiên cứu về địa
phương rất được chú trọng: Ngành "địa phương học" đã thu
hút hoạt động nghiên cứu trên tất cá các lĩnh vực kinh tê, xã
hội, điều kiện tự nhiên ở các địa phương. Các chuyên
ngành nghiên cứu về lịch sử dân tộc học, ngôn ngữ, văn
học dân gian, địa lý v.v... của môn "địa phương học" đã
đem lại những kết quả chính xác, là cơ sớ đáng tin cậy cho
việc hoạch định và thực thi những nhiệm vụ kinh tế - xã hội
của từng địa phương trong chiến lược tổng thể của quốc
gia. Nghiên cứu địa phương không chỉ là hoạt động riêng
của các nhà khoa học thuộc các chuyên ngành mà còn thu
hút đông đảo lực lượng giáo viên, học sinh và những người
yêu thích, am tường về địa phương, các khu vực, các lĩnh
vực tham gia. Những hội nghị khoa học về địa phương đều
chú ý tới phương pháp luận của việc nghiên cứu, phương
pháp sưu tầm và xử lí các nguồn tài liệu, phương pháp ứng
dụng kết quả nghiên cứu để giải quyết những yêu cầu của
thực tiễn. Ở nhiều nước, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á
lịch sử địa phương đã gắn chặt với hoạt động của ngành du
lịch. Chính vì vậy, môi trường sinh thái nói chung, môi
15


trường văn hoá nói riêng được bảo việc chặt chẽ, vốn văn
hoá độc đáo, đặc thù trong lịch sử được khai thác một cách
hợp lý, vừa có ý nghĩa lớn về mặt chính trị, vừa có hiệu quả

kinh tế cao.
Nga là một trong những nước tiến hành việc nghiên cứu
về địa phương từ rất sớm. Từ đầu thế kỉ XVIII, vua Pie đệ
nhất đã ra chỉ thị: mọi sự tìm kiếm của các nhà nghiên cứu
đều phải báo lên Nga hoàng và nhà vua sẽ trọng thưởng
cho những ai có công tìm ra các cổ vật trong phạm vi
vương quốc Nga:
Trong thời gian này, Rêmêdốp (1642 - 1720) đã soạn
thảo cuốn "Lịch sử xibia" đặt cơ sở cho việc nghiên cứu
của mỗi miền riêng biệt. M.V. Lômônôxốp (1711-1785) đã
tiến hành làm bản đồ nước Nga, biên soạn "Lý lịch viện
hàn lâm" gồm các vấn để về lịch sử của từng thành phố và
từng tỉnh. Đến cuối thế kỷ XVIII đã xuất hiện những
chuyên khảo nghiên cứu về các vùng, miền riêng biệt.
(Chẳng hạn như cuốn sách "Địa hình vùng Orenbua" của
P.I.Rưcốp". “Những kiến thức lịch sử sơ giản về dân tộc
Đơvin (1784)", "Sơ yếu lịch sử thành phố áckhanghen" của
V.V.Crếtxtinhin v.v...)
Bên cạnh những việc nghiên cứu địa phương của các
nhà khoa học, còn có hoạt động nghiên cứu trong nhà
trường. M.V. Lômônôxốp đã thu hút học sinh ở nông thôn
sưu tầm nghiên cứu các mỏ đá và kim loại qúi. N.P.
Bunacốp - một giáo viên trường trung học đã viết 20 cuốn
sách về lịch sử địa phương; các nhà văn, nhà giáo dục nổi
16


tiếng như I.N.Léptônxtôi, K.Đ. Usinxki đã ủng hộ tích cực
việc sử dụng tài liệu lịch sử địa phương để giáo dục học
sinh trong nhà trường phổ thông.

Hoạt động nghiên cứu địa phương cũng được đẩy mạnh
trong các trường đại học ở Cadan, Kháccốp, Kiép, Ôđetxa
v.v... Các hội nghiên cứu khoa học lần lượt được thành lập.
("Hội nghiên cứu lịch sử cổ đại Nga" (1840), "Hội khảo cổ
học" (1846) v.v...).
Từ cuối thế kỉ XIX, đặc biệt đầu thế kỉ XX, việc nghiên
cứu địa phương không những được đẩy mạnh mà còn có
nhiều tiến bộ về phương pháp luận. Những người
Bônsêvích chân chính bị chính chủ Nga hoàng đày đi Xibia
đã nghiên cứu tình hình địa phương một cách toàn diện về
các mặt dựa trên quan điểm duy vật và biện chứng. V.I.
Lênin trong thời gian bị lưu đày đã nghiên cứu kỹ tình hình
địa phương và sau này đã phân tích kỹ các tài liệu ấy khái
quát hoá, góp phần hoàn thành tác phẩm nổi tiếng: "Sự phát
triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga”. Từ sau Cách mạng
XHCN tháng Mười (1917), dựa trên cơ sở phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác-lênin, những người Bônsêvich
chân chính đã lãnh đạn nhân dân tiếp thu di sản của chế độ
xã hội cũ với thái độ phê phán nghiêm túc, lựa chọn để
thừa kế và phát huy. Tư tưởng đó được thể hiện trong lời
kêu gọi của Ủy ban hành pháp Xô Viết đại biểu công nhân
và binh lính Pêtơrôgrát tháng 11-1917: “Hỡi đồng bào !
bọn chủ đã cút đi để lại di sản to lớn. Giờ đây, di sản đó
thuộc về toàn thể nhân dân. Hỡi đồng bào ! Hãy giữ gìn tài
17


sản này, bảo quản những bức tranh, tượng, lâu đài. Đó là
biểu hiện sức mạnh tinh thần của chúng ta và tổ tiên ta.
Hỡi đồng bào ! Không làm hư hỏng một viên đá, hãy

giữ tất cả các đài kỷ niệm, nhà cửa, vật cổ, tài liệu, tất cả
cái đó là lịch sử niềm tự hào của đồng bào(1).
Tiếp theo đó, chính quyền Xô Viết đã ký sắc lệnh “Tổ
chức lại và tập trung lưu trữ" (1-6-1918), sắc lệnh "Đăng
ký và bảo vệ di vật nghệ thuật cổ xưa" (5-10-1918).
Theo chỉ thị của Lê nin, văn kiện giáo dục đầu tiên của
Liên bang Cộng hoà XHCN Xô Viết Nga (1918) đã yêu
cầu sử dụng hình thức và phương pháp dạy, học lịch sử địa
phương trong giờ nội khoá ở trường phổ thông. Từ năm
học 1920 - 1921, địa phương học đã đưa vào chương trình
dạy học ở nhà trường và sau đó trở thành tài liệu bắt buộc ở
trường trung học.
Đến năm 1930, địa phương học được đưa vào giảng
dạy ở các trường Đại học sư phạm. Từ những năm 50 trở
đi, với việc thành lập các "Hội bảo tàng địa phương", "Hội
bảo vệ các di tích lịch sử và Văn hoá" (1966), hoạt động
nghiên cứu lịch sử địa phương càng được đẩy mạnh. Nguồn
tài liệu địa phương học được đưa vào giảng dạy ở các
trường Đại học sư phạm. Từ những năm 50 trở đi, với việc
thành lập các "Hội bảo tàng địa phương", "Hội bảo vệ các
di tích lịch sử và văn hoá" (1966), hoạt động nghiên cứu
lịch sử địa phương càng được đẩy mạnh. Nguồn tài liệu địa
phương đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp giáo dục thế
18


hệ trẻ trong nhà trường Xô Viết trước đây.
Ở Hunggari, công tác nghiên cứu, sưu tầm lịch sử địa
phương cung rất được coi trọng. Nhà trường kết hợp với
các cơ quan chuyên môn lịch sử và văn hoá, tổ chức học

sinh sưu tầm tư liệu để xây dựng những "làng bảo tàng" địa
phương. Ở đó, người ta trưng bày nhưng hiện vật lịch sử,
những kiến thức độc đáo, những nét đặc thù trong đời sống
và văn hoá tinh thần của nhân dân các địa phương.
2. Việc nghiên cứu lịch sử địa phương ở Việt Nam:
Ở nước ta từ trước cách mạng tháng Tám đã có những
tài liệu nghiên cứu về lịch sử địa phương như các gia phả,
thần phả, địa phương chí, đinh bạ, địa bạ và nhiều truyền
thuyết lịch sử v.v...(2).
Từ sau ngày hoà bình lập lại (1955), công tác nghiên
cứu lịch sử địa phương ở miền Bắc được chú ý. Viện sử
học đã nhấn mạnh vị trí tầm quan trọng của công tác
nghiên cứu lịch sử địa phương và sau đó Hội nghị về công
tác nghiên cứu, phương pháp biên soạn lịch sử địa phương
và chuyên ngành được triệu tập (1962) trong những năm
chống chiến tranh phá hoại của để quốc Mỹ, một số trường
phổ thông ở miền Bắc đã có những cố gắng trong công tác
sưu tầm và sử dụng tài liệu lịch sử địa phương trong dạy,
học lịch sử. Một số trường đại học, trung học sư phạm ở
những nơi sơ tán cũng đã phát huy đội ngũ cán bộ giảng
dạy và sinh viên, tiến hành khảo cứu, biên soạn một số
công trình lịch sử địa phương. Tuy nhiên do hoàn cảnh thời
19


chiến, việc nghiên cứu chưa được tiến hành đều đặn,
thường bị gián đoạn, kết quả cũng còn nhiều hạn chế.
Ở miền Nam dưới thời Mỹ - Nguy cũng xuất hiện một
số chuyên khảo về lịch sử địa phương. Tuy nhiên những
công trình đó được phản ánh dưới nhãn quan và mục tiêu

chính trị của giai cấp tư sản đương thời. Chẳng hạn cuốn
“Phong quang Đắc Lắc", "Cao nguyên miền thượng" của
tác giả Cửu Long và Toan Ánh hay cuốn "Nước non Bình
Định" của Quách Tuấn - Nhà xuất bản Gò Vấp 1971 có
một số sự kiện không đúng khi để cập tới Mai Xuân
Thưởng - một thủ lĩnh của phong trào khởi nghĩa hưởng
ứng chiếu "Cần vương" ở Nam Trung bộ. Nhiều lần thực
dân Pháp tìm cách bao vây, đàn áp giặc bắt mẹ của ông
hòng uy hiếp tinh thần đấu tranh, bức ông đầu hàng, song
ông cùng với nghĩa quân vẫn kiên quyết chiến đấu cho tới
khi rơi vào tay giặc, vậy mà Quách Tuấn lại nêu rằng, Mai
Xuân Thưởng đầu hàng để "giữ tròn chừ hiếu" v.v...
Từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, việc
nghiên cứu lịch sử địa phương mới được tiến hành rộng
khắp trên phạm vi cả nước. Các ban nghiên cứu lịch sử
Đảng ở các địa phương được thành lập, nhiều lớp bồi
dưỡng nghiên cứu lịch sử địa phương được tổ chức. Các
nhà nghiên cứu lịch sử, cán bộ, sinh viên các trường đại
học (ngành sử), cao đẳng sư phạm đã góp phần quan trọng
vào việc nghiên cứu, biên soạn lịch sử huyện, xã, các
ngành. Hầu hết các tỉnh đã biên soạn được lịch sử Đảng bộ,
nhiều tỉnh đã biên soạn lịch sử các huyện (Hà Nội, Hải
20


Phòng, Nghệ An, Quảng Nam - Đà Nẵng, Bắc Thái). Ở
nhiều nơi đã tiến hành biên soạn lịch sử các xã (Hà Nội, Hà
Tây, Hà Bắc, Nam Hà, Thanh Hoá). Các hội nghị lịch sử
địa phương được tố chức ở các tỉnh (Hải Phòng, Nam Hà,
Thanh Hoá, Hà Bắc, Cao Bằng v.v...) đã thu hút sự tham

gia đông đảo những nhà nghiên cứu ở cả trung ương và địa
phương. Một số trường phổ thông trở thành đơn vị tiêu biểu
của phong trào nghiên cứu và dạy học lịch sử địa phương:
Trường phổ thông cơ sở Bắc Lý, phổ thông trung học Lê
Hồng Phong (Nam Hà), phổ thông cơ sở Trưng Vương,
Thăng Long, phổ thông trung học Chu Văn An, Việt Đức
(Hà Nội), trường phổ thông trung học Thái Phiên, Ngô
Quyền (Hải Phòng) v.v... 1 . Tuy vậy việc nghiên cứu lịch sử
địa phương chưa được tiến hành đều khắp trong phạm vi cả
nước. Hiệu quả giáo dục, giáo dưỡng của tài liệu Lịch sử
địa phương trong nhà trường đã được nâng lên, song vẫn
chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác giáo dục hiện nay.
Ở các trường phổ thông trung học miền núi (phía Bắc) việc
nghiên cứu và giảng dạy lịch sử địa phương chưa được chú
trọng đúng mức. Giáo viên phổ thông mới chỉ tập trung vào
giảng dạy các bài lịch sử nội khoá còn Công tác thực hành,
ngoại khoá nhiều nơi thực hiện tuỳ tiện, thậm chí không
thực hiện. Hầu hết các trường phổ thông chưa tiến hành
nghiên cứu và giảng dạy lịch sử địa phương. Nhưng tiết

(1) Xem Phan Kim Ngọc – Lại Đức Thụ: Về giảng dạy lịch
sử địa phương ở trường PT hiện nay - Cục các trường sư phạm.
Hà Nội 1985.
21


lịch sử địa phương, theo phân phối chương trình của Bộ
Giáo dục và Đào tạo chưa được thực hiện, việc sử dụng tài
liệu lịch sử địa phương trong dạy, học lịch sử dân tộc mới
được một số ít trường tiến hành (như khu vực Việt Bắc và

Tây Bắc).
Hiện trạng trên là do nguồn tài liệu lịch sử địa phương
ở các tỉnh chưa được sưu tầm và chỉnh lý biên soạn một
cách hệ thống, nhiều địa phương đến nay chưa biên soạn
được lịch sử các huyện, còn lịch sử các xã hầu hết chưa
được nghiên cứu, biên soạn để giảng dạy.
Mặt khác, điều kiện để phục vụ công tác nghiên cứu
giảng dạy lịch sử địa phương ở miền núi gặp rất nhiêu khó
khăn: điều kiện địa hình phức tạp, phương tiện giao thông
thiếu thốn, cơ sở vật chất nghèo nàn, thiếu đội ngũ cán bộ
chuyên môn có năng lực và trình độ nghiên cứu v.v...
Tất cả những điều đó đang đòi hỏi cấp thiết đẩy mạnh
việc nghiên cứu và dạy, học lịch sử địa phương, đặc biệt ở
khu vực miền núi. Điều cơ bản trước hết là đội ngũ giáo
viên bộ môn lịch sử cần phải được trang bị phương pháp
nghiên cứu lịch sử địa phương để có thể phát huy năng lực
của mình, thực hiện nhiệm vụ của người giáo viên và cán
bộ nghiên cứu ở các khu vực, vùng, miền khác nhau. Khó
ai có thể thay thế công việc nghiên cứu của người giáo viên
lịch sử ở ngay chính nơi công tác hay miền quê xứ sở thân
yêu của mình.
IV. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CÔNG TÁC
22


NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG
Nghiên cứu lịch sử địa phương là một bộ phận của việc
nghiên cứu lịch sử dân tộc, nó vừa phải tuân thủ theo
phương pháp nghiên cứu chung của khoa học xã hội, vừa
có những đặc điểm riêng của phân ngành chuyên sâu.

Trước hết phải nắm được phương pháp luận nghiên cứu
(phương pháp luận mác xít), vận dụng những quan điểm cơ
bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, lô
gích học trong quá trình nghiên cứu. Năm vững tiến trình
phát triển chủ yếu của lịch sử thế giới. hiểu sâu gốc lịch sử
dân tộc để soi sáng những sự kiện, hiện tượng lịch sử ở địa
phương. Mặt khác. nghiên cứu lịch sử địa phương phải tiếp
xúc với nhiều nguồn tài liệu đa dạng và phức tạp tài liệu
thành văn, hiện vật,. truyền miệng, dân tộc học v.v...), do
vậy đòi hỏi phải có phương pháp, kỹ thuật sưu tầm, phát
hiện nguồn tài liệu, có khả năng thích ứng một cách linh
hoạt với tinh hình thực tế để xử lí tư liệu, miêu tả sự kiện,
xác định di tích, tái tạo lịch sử. Muốn làm tốt việc nghiên
cứu lịch sử địa phương, người nghiên cứu phải biết làm tốt
công tác dân vận, gần gũi gắn bó với địa phương, thông
hiểu điều kiện, đặc điểm mọi mặt (tự nhiên, xà hội, truyền
thống tập quán) ở địa phương, nghĩa là biết dựa vào nhân
dân địa phương, các cơ quan chuyên môn và ban lãnh đạo
địa phương để tiến hành nghiên cứu.
Công tác nghiên cứu phải được cụ thể hoá qua việc xây
dựng đê cương sưu tầm tư liệu, căn cứ vào tình hình thực
tiễn để có nhưng hình thức và biện pháp xử lí tư liệu phù
23


hợp, bảo đảm giá trị khoa học chính xác. Trên cơ sở những
tư liệu đã được giám định, cần phải nắm được phương pháp
biên soạn theo từng chủ đề, thể loại khác nhau (lịch sử
Đảng bộ địa phương, thông sử địa phương, lịch sử truyền
thống của địa phương hoặc cơ quan, đơn vị xí nghiệp v.v...)

Những tài liệu đã được biên soạn cần phải có biến pháp
tuyên truyền giáo dục sâu rộng trong quần chúng ở địa
phương và sử dụng vào việc giảng dạy, giáo dục thế hệ trẻ
ở nhà trường. Tất cả những công việc cụ thể của quá trình
nghiên cứu lịch sử địa phương sẽ được giới thiệu ở phần
sau đây.

PHẦN THỨ HAI
HƯỚNG DẪN NGHIÊN CỨU, BIÊN SOẠN
VÀ DẠY HỌC LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG Ở VIẾT BẮC
24


I. TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU

1. Xác định mục đích, yêu cầu của đợt công tác: Đây là
công việc đầu tiên của đợt nghiên cứu lịch sử địa phương.
Có xác định rõ mục đích, yêu cầu của đợt công tác, học
sinh mới có thái độ đúng đắn và trách nhiệm trong công
việc được giao. Bước này coi như sự định hướng và chuẩn
bị tâm thế cho học sinh trước khi bắt tay vào công việc cụ
thể. Khác với cơ quan chuyên môn, những nhà nghiên cứu
khoa học, việc tổ chức học sinh các trường sư phạm chuyên
nghiệp (trung học, cao đẳng và đại học) và học sinh các
trường phổ thông - những đối tượng không chuyên, bỡ ngỡ
và thiếu kinh nghiệm nghiên cứu, thì việc xác định rõ mục
đích và đặt ra những yêu cầu cụ thể của đợt công tác phải
được quán triệt từ đầu. Những cơ sở cần thiết, những căn
cứ chủ yếu để xác định mục đích và yêu cầu cho học sinh
bao gồm:

- Nguyên lý giáo dục của Đảng: “Học đi đôi với hành,
lý luân văn liền với thực tiễn và nhà trường gắn liền với xà
hội giáo dục phổ thông phải gắn liền với lịch sử thiên
nhiên, xã hội, con người địa phương, làm cho việc giảng
dạy và học tập ở nhà trường thấm đậm hơn cuộc đời thực.
Học sinh ngay từ lúc còn đi học đã sống với thực tế xã hội

25


×