Tải bản đầy đủ (.docx) (51 trang)

tiểu luận kinh tế du lịch ảnh hưởng của đô thị hóa đến du lịch hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.92 KB, 51 trang )

A. LÝ THUYẾT CHUNG VỀ ĐÔ THỊ HÓA VÀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH.
1) Lý thuyết về đô thị hóa.

 Khái niệm Đô thị hóa
Từ góc độ nhân khẩu học và địa lý kinh tế, đô thị hóa được hiểu là sự di cư
từ nông thôn tới đô thị, là sự tập trung ngày càng nhiều dân cư sống trong những vùng
lãnh thổ đô thị. Mức độ đô thị hóa của một quốc gia được đo lường bằng tỷ lệ dân cư đô
thị trong tổng số dân. Về mặt xã hội, đô thị hóa được hiểu là quá trình tổ chức lại môi
trường cư trú của con người. Đô thị hóa không chỉ thay đổi sự phân bố dân cư và những
yếu tố vật chất, mà còn làm chuyển hóa những khuôn mẫu của đời sống kinh tế - xã hội,
phổ biến lối sống đô thị tới các vùng nông thôn, và toàn bộ xã hội. Như vậy, quá trình
đô thị hóa không chỉ diễn ra về mặt số lượng như tăng trưởng dân số, mở rộng lãnh thổ,
tăng trưởng về sản xuất, mà còn thể hiện cả về mặt chất lượng, nâng cao mức sống, làm
phong phú hơn các khuôn mẫu và nhu cầu văn hóa.
Cho đến thế kỷ 20, quá trình đô thị hóa thế giới chủ yếu diễn ra theo bề
rộng, ở đó các dấu hiệu về sự tăng trưởng số dân đô thị, số lượng các thành phố, sự mở
rộng lãnh thổ các đô thị chiếm ưu thế. Nửa sau của thế kỷ được đánh dấu bởi quá trình
đô thị hóa theo chiều sâu, đặc biệt ở các nước công nghiệp phát triển. Sự gia tăng của
các dấu hiệu định lượng chững lại, thậm chí sút giảm (do phi tập trung hóa đô thị, quá
trình đô thị hóa ...). Thay vào đó, các dấu hiệu định tính được chú ý đề cao: chất lượng,
tiêu chuẩn sống đô thị được nâng cao, sự đa dạng và phong phú các kiểu mẫu văn hóa
và nhu cầu. Tuy nhiên, đối với các nước thuộc thế giới thứ ba, quá trình đô thị hóa vẫn
còn nằm trong khuôn khổ của quá trình đô thị hóa theo bề rộng.

 Phân loại Đô thị
Cách phân loại chính thức của Nhà nước theo Nghị định số 42/2009 NĐ-CP,
ban hành ngày 7/5/2009 và có hiệu lực 2/7/2009 được áp dụng để làm cơ sở cho các so
sánh. Theo đó các đô thị ở Việt Nam được phân thành 6 loại như sau: loại đặc biệt, loại
I, loại II, loại III, loại IV và loại V, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định
công nhận. Cụ thể là:
1. Đô thị loại đặc biệt là thành phố trực thuộc Trung ương có các quận nội


thành, huyện ngoại thành và các đô thị trực thuộc. Việt Nam có hai đô thị đặc biệt là Hà
Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
0


2. Đô thị loại I là thành phố trực thuộc Trung ương có các quận nội thành,
huyện ngoại thành. Đô thị loại I cũng bao gồm các thành phố trực thuộc tỉnh có các
phường nội thành và xã ngoại thành. Có 26 thành phố thuộc đô thị loại I. (Tính đến
21/12/2018).
3. Đô thị loại II là thành phố trực thuộc tỉnh có các phường nội thành và các
xã ngoại thành. Có 28 thành phố, huyện thuộc đô thị loại II. (Tính đến ngày
25/02/2019).
4. Đô thị loại III là thành phố hoặc thị xã thuộc tỉnh có các phường nội
thành, nội thị và các xã ngoại thành, ngoại thị. Có 45 thành phố, thị xã thuộc đô thị loại
III. (Tính đến tháng 02/2019).
5. Đô thị loại IV là thị xã thuộc tỉnh có các phường nội thị và các xã ngoại
thị, hoặc thị trấn thuộc huyện có các khu phố xây dựng tập trung.
6. Đô thị loại V là thị trấn thuộc huyện có các khu phố xây dựng tập trung
và có thể có các điểm dân cư.
Mức độ đô thị hóa và quy mô của các đô thị được giả định là giảm dần theo các loại đô
thị nêu trên, nghĩa là đô thị loại đặc biệt có mức độ đô thị hóa cao hơn cả.

 Chỉ số Đô thị hóa
Trong thực tế, người ta phân tích đô thị hóa trên cơ sở xem xét các biểu hiện
chính, đó là:
 Tỉ lệ đô thị hóa: Được đo bằng phần trăm giữa dân số đô thị trên tổng
dân số của vùng hoặc một lãnh thổ tại một thời điểm nhất định.
 Tốc độ đô thị hóa: Phản ánh mức độ (nhanh, chậm) tăng dân số đô thị
của một vùng hoặc một lãnh thổ tại một thời kì nhất định. Tốc độ đô thị hóa được tính
bằng nhịp tăng dân số đô thị (%) qua các năm hoặc của một thời kì (có thể là vài năm, 5

năm hoặc 10 năm, 20 năm).
 Số lượng và quy mô dân số của các đô thị mới và số việc làm tạo ra do
phát triển các đô thị đó: Mức độ đáp ứng nhu cầu dân cư và số nông dân chuyển thành
thị dân cũng được các nhà phát triển quan tâm khi đánh giá về đô thị hóa. Trong thực tế,
đây chính là việc “cấy” điểm đô thị mới vào những nơi đang trống vắng văn minh đô thị
hay vào khoảng không gian lãnh thổ giữa Cực phát triển và Cực tăng trưởng (phải tính
tới khi đã hoàn chỉnh).
 Chất lượng đô thị hóa: Mức đáp ứng cho người dân về nhà ở, kết cấu hạ
tầng kĩ thuật, học hành, khám chữa bệnh, điện, nước, thông tin, mua sắm hàng hóa, vui

1


chơi giải trí cùng các tác động tới khu vực nông thôn… và thân thiện với môi trường
cũng như đô thị hóa có hiệu suất cao trong việc sử dụng đất và khai thác không gian
trong quá trình đô thị hóa.
Khi phân tích đô thị hóa cần phân tích cả mặt số lượng và mặt chất lượng
của đô thị hóa. Tuy nhiên, chất lượng đô thị hóa không thể hiện ở mức độ đáp ứng nhu
cầu về kết cấu hạ tầng hay nhà ở...

 Bản chất của Đô thị hóa
Chủ nghĩa Mác xác định tính lịch sử cụ thể của đô thị hóa trong mối quan hệ
với các hình thái kinh tế xã hội: "Lịch sử thời trung cổ là lịch sử của các thành phố,
nhưng là những thành phố dựa trên chế độ sở hữu ruộng đất và nông nghiệp. Lịch sử
châu Á có thể nói là một kiểu thống nhất không thể phân chia giữa thành phố và nông
thôn (những thành phố lớn ở đây chẳng qua là những kinh đô của các vương quốc, là
những cục bướu mọc trên chế độ kinh tế theo đúng nghĩa của nó)".
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã nhiều lần chỉ rõ các thành
phố lớn đối với sự hình thành ý thức giai cấp công nhân: Ăngghen đã nhấn mạnh:
"Không có các thành phố lớn, không có cái đà thúc đẩy của thành phố đối với sự phát

triển của ý thức xã hội, thì công nhân không thể tiến lên được như vậy". Lênin đã viết:
"Thành phố tất yếu phải kéo theo mình nông thôn. Nông thôn tất yếu phải đi theo thành
phố". Lênin cho rằng dân cư nông thôn đi về thành phố là một "hiện tượng tiến bộ", đặc
biệt sự di cư vào thành phố đã "lôi dân chúng ra khỏi những nơi xa xôi hẻo lánh, hoang
dại, lạc hậu, bị lịch sử bỏ quên và đem họ đến với cơn lốc của đời sống xã hội hiện
đại…, nâng cao trình độ văn hóa và ý thức của dân cư, tạo cho họ những tập quán và
nhu cầu văn hóa". Lênin cho rằng: "Thành phố là những trung tâm của đời sống kinh tế,
chính trị và tinh thần của nhân dân, và là những động lực chủ yếu của sự tiến bộ".
Đương nhiên, những mặt tiêu cưc của sự phát triển các thành phố lớn cũng được nêu lên
như Ăngghen đã nói: "Thông qua các thành phố lớn, nền văn minh đã để lại cho chúng
ta một di sản mà muốn khắc phục được nó thì chúng ta phải mất nhiều thời gian và
nhiều cố gắng. Nhưng thế nào cũng phải khắc phục và sẽ khắc phục được, mặc dù đó là
một quá trình lâu dài".
Những nhà xã hội học mácxít quan niệm đô thị hóa hiện nay như là một quá
trình lịch sử thế giới, gắn chặt với sự phát triển lực lượng sản xuất và những hình thức
quan hệ xã hội. Đô thị hóa không chỉ là sự tăng trưởng cơ học các thành phố và sự tập
trung dân cư. Đô thị hóa được gắn liền với sự cải biến kinh tế - xã hội sâu sắc ở thành
2


phố cũng như ở nông thôn trên cơ sở phát triển công nghiệp, giao thông vận tải, xây
dựng nhà ở, giao thông công cộng, dịch vụ. Chính những quan hệ thành phố, với tất cả
nội dung xã hội rộng rãi của nó, tạo thành bản chất của đô thị hóa.
Trong khi thúc đẩy sự trật tự hóa các tiềm lực kinh tế, văn hóa vào các thành
phố, đô thị hóa kéo vùng ngoại vi lên trình độ của khu trung tâm. Điều này lại là một
kích thích phát triển hơn nữa của những khu trung tâm đóng vai trò quyết định. Như
vậy, vùng ngoại vi phát triển thông qua khu trung tâm là một hình thức quần cư được đô
thị hóa.
2)


Lý thuyết về phát triển du lịch

 Khái niệm
Theo Tổ chức Du lịch Thế giới, du lịch bao gồm tất cả các hoạt động của
những người du hành, tạm trú, trong mục đích tham quan, khám phá và tìm hiểu, trải
nghiệm hoặc trong mục đích nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn; cũng như mục đích hành nghề
và những mục đích khác nữa, trong thời gian liên tục nhưng không quá một năm, ở bên
ngoài môi trường sống định cư; nhưng loại trừ các du hành mà có mục đích chính là
kiếm tiền.
Ở Việt Nam, khái niệm du lịch được nêu trong Luật Du lịch (2016) như sau:
"Du lịch là hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi
cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ
dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định."
Du lịch là một hiện tượng xã hội, đã ra đời từ cuối xã hội nguyên thủy, và
ngay từ lúc đó, hoạt động du lịch đã bao kèm với hoạt động kinh tế và thương mại giữa
người với người.
Logic và lịch sử đã chứng tỏ hoạt động du lịch và kinh tế du lịch không thể
ra đời và phát triển bất kỳ do tác động chủ động chủ quan, tùy tiện của cá nhân hay lực
lượng xã hội nào. Sự ra đời và phát triển của du lịch là khách quan khi đời sống kinh tế
xã hội tồn tại những điều kiện nhất định.
Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng cũng đã nhấn mạnh: "Phát triển du
lịch thật sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn; nâng cao chất lượng và hiệu quả
hoạt động trên cơ sở khai thác lợi thế và điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn
hóa, lịch sử, đáp ứng nhu cầu du lịch trong nước và phát triển nhanh du lịch quốc tế,

3


sớm đạt trình độ của khu vực. Xây dựng và nâng cấp cơ sở vật chất, hình thành các khu
du lịch trọng điểm, đẩy mạnh hợp tác, liên kết với các nước".


 Đặc thù của du lịch
Hoạt động du lịch có những đặc thù sau:
 Tính chất đồng bộ và tổng hợp của hoạt động du lịch. Nhu cầu du lịch là
tổng hợp của các nhu cầu: nhu cầu đi lại, ăn nghỉ, vui chơi, giải trí và các nhu cầu bổ
sung khác. Các nhu cầu trên xuất phát đồng bộ trong một khoảng thời gian nhất định
(thời gian đi du lịch).
 Tính chất tổng hợp trong hoạt động kinh doanh du lịch. Một sản phẩm
du lịch tổng hợp không thể do một đơn vị kinh doanh tạo ra, mà do tổng hợp các hoạt
động kinh doanh đa dạng tạo ra, Khách du lịch trong một chuyến đi du lịch, ngoài việc
thỏa mãn một số nhu cầu đặc trưng như tham quan, giải trí, chữa bệnh, … họ vẫn có
những nhu cầu thường ngày như ăn, ngủ. Do vậy, họ phải sử dụng nhiều loại dịch vụ và
hàng hóa khác khó có thể chỉ do một cơ sở du lịch duy nhất tạo ra hay sản xuất ra được.
Vì những lý do đó hoạt động kinh doanh du lịch mang tính chất tổng hợp. Vì những lý
do đó, hoạt động kinh doanh du lịch mang tính chất tổng hợp. Các thành viên tham gia
vào quá trình tạo nên một sản phẩm du lịch tổng hợp là rất đa dạng, nên việc thống nhất,
liên kết mọi nỗ lực và tham vọng là điều hết sức cần thiết.
 Có mối quan hệ, liên kết với các ngành khác, các nhà cung cấp. Du lịch
là hiện tượng kinh tế - xã hội phức tạp. Do vậy, ngành du lịch chỉ có thể phát triển được
khi có sự phối hợp chặt chẽ với các ngành khác như tài chính, ngân hàng, xây dựng,
giao thông vận tải, văn hóa, hải quan, bưu chính viễn thông, …
 Du lịch là hoạt động kinh tế mới mẻ, còn đang trong quá trình phát
triển. Du lịch quần chúng phát triển mạnh từ giữa thế kỷ XIX, sau đó bị gián đoạn bới 2
cuộc chiến tranh thế giới. Xưa kia khi hoạt động du lịch là sơ khai, mang tính lẻ tẻ
không quần chúng, thì khi nói đến khách du lịch tức là nói đến người khởi hành đi tìm
kiếm những kiến thức và sự giải trí; khi nói đến du lịch, tức là nói đến cuộc hành trình
và lưu trú tạm thời của con người ngoài nơi lưu trú thường xuyên. Nhưng khi hoạt động
du lịch đã mang tính quần chúng, xuất hiện một bộ máy đặc biệt chuyên phục vụ du lịch
(xuất hiện các xí nghiệp và hoạt động phục vụ du lịch như y tế, thương mại, sản xuất, du
lịch, …), thì khi nói đến du lịch không chỉ còn dề cập đến "người du lịch"


 Phân loại loại hình du lịch

4


Dựa vào các tiêu thức phân loại khác nhau có thể phân du lịch thành các loại
hình du lịch khác nhau. Trong phạm vi bài nghiên cứu này, các tác giả phân loại loại
hình du lịch sử dụng các tiêu thức sau:

 Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ của chuyến đi du lịch.
 Du lịch quốc tế: là hình thức du lịch mà các chuyến đi vượt ra khỏi biên
giới (lãnh thổ) quốc gia của khách du lịch, bao gồm: du lịch quốc tế đến và du lịch ra
nước ngoài.
 Du lịch trong nước: là loại hình du lịch mà các chuyến đi của cư dân
trong lãnh thổ quốc gia họ.
 Du lịch nội địa: bao gồm du lịch quốc tế đến và du lịch trong nước.
 Du lịch quốc gia: bao gồm du lịch nội địa và du lịch quốc tế đi.
 Căn cứ vào mức độ tương tác của du khách đối với điểm du lịch.
Bảng 1: Các loại hình du lịch dựa theo mức độ tương tác của du khách đối với
điểm du lịch:
Loại hình du lịch

Điểm đến

Thám hiểm

Khu vực thám hiểm

Thượng lưu


Độc đáo, mới lạ
Xa xôi, hoang dã,

Khác thường

sơ khai, không theo
tour tiêu chuẩn

Du khách
Nhà nghiên cứu,
nhà thám hiểm
Thu nhập cao
Thu nhập trung
bình

Tác động KT/MT
Không đáng kể
Đầu tư lớn tại điểm
du lịch
Không đáng kể

Thu nhập trung
Đại chúng tiền

An toàn, phổ biến,

bình và cao, nhóm

khởi


khí hậu phù hợp

nhỏ, cá nhân, ổn

Khu nghỉ mát nổi

định
Trung lưu, số lượng

tiếng vào mùa du

lớn và thường

Kinh tế: Quan trọng

lịch

xuyên
Thu nhập trung

Kinh tế: Quan trọng

bình và thấp, số

Môi trường: Tiêu

lượng lớn

cực


Đại chúng

Thuê bao

Khu du lịch thông
thường

Kinh tế: Quan trọng

5


 Xu hướng phát triển du lịch hiện nay
Theo dự đoán của các nhà khoa học trên thế giới thì du lịch đại chúng có
tương lai và xu hướng phát triển tốt. Du lịch quốc tế ngày một phát triển mạnh. Có thể
phân các xu hướng của sự phát triển du lịch trên thế giới theo 2 nhóm chính như sau:

 Nhóm các xu hướng phát triển của cầu du lịch:
 Xu hướng 1: Du lịch ngày càng được khẳng định là một hiện tượng kinh
tế - xã hội phổ biến, nhu cầu và khả năng đi du lịch ngày một tăng (cả về số lượng và
chất lượng)
 Xu hướng 2: Sự thay đổi về hướng và về phân bố của luồng khách du
lịch quốc tế. Việc quần chúng hóa trong hoạt động du lịch và khả năng đi du lịch xa hơn
kéo theo nhiều biến đổi trong hướng vận động của khách du lịch.
 Xu hướng 3: Sự thay đổi trong cơ cấu chi tiêu của khách du lịch. Những
năm trước đây tỷ trọng chi tiêu của khách dành cho các dịch vụ cơ bản (ăn, ở, vận
chuyển) chiếm phần lớn. Hiện nay thì tỷ trọng chi tiêu của khách cho các dịch vụ bổ
sung (mua sắm hàng hóa, đồ lưu niệm, tham quan, giải trí) tăng lên.
 Xu hướng 4: Sự thay đổi trong hình thức tổ chức chuyến đi của khách du

lịch. Khách du lịch chỉ sử dụng một phần dịch vụ các tổ chức kinh doanh du lịch. Nhiều
khi họ không mua chương trình du lịch, trọn gói, nhất là khách châu Âu.
 Xu hướng 5: Sự hình thành các nhóm khách theo độ tuổi. Sự hình thành
3 nhóm khách trên thị trường du lịch thế giới là: khách du lịch là học sinh, sinh viên;
khách du lịch là những người đang ở trong độ tuổi lao động tích cực và khách du lịch
cao tuổi.
 Xu hướng 6: Sự gia tăng các điểm đến du lịch trong một chuyến đi du
lịch. Trong những năm gần đây khách du lịch có xu hướng thích đi nhiều nước, thăm
nhiều điểm du lịch trong chuyến đi du lịch của mình.

 Nhóm xu hướng phát triển của cung du lịch.
 Xu hướng 1: Đa dạng hóa sản phẩm du lịch.
 Xu hướng 2: Phát triển hệ thống bán sản phẩm du lịch.
 Xu hướng 3: Tăng cường hoạt động truyền thông trong du lịch.
 Xu hướng 4: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong du lịch. Ở
những nước du lịch phát triển mạnh đã và đang diễn ra quá trình công nghiệp hóa và
hiện đại hóa du lịch, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ cao như điện tử tin

6


học, vô tuyến viễn thông, tự động hóa, công nghệ sinh học, … để phát triển công nghiệp
lữ hành, công nghiệp khách sạn, công nghiệp vận chuyển khách du lịch.
 Xu hướng 5: Đẩy mạnh quá trình khu vực hóa, quốc tế hóa. Các tuyến du
lịch giữa các nước được gắn kết với nhau đáp ứng nhu cầu đi du lịch nhiều nước trong
một chuyến hành trình của khách.
 Xu hướng 6: Hạn chế tính thời vụ trong du lịch.
2) TÌNH TRẠNG ĐÔ THỊ HÓA VÀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH VIỆT NAM
1)


Thực trạng đô thị hóa của Việt Nam
 Tổng quan quá trình đô thị hóa của Việt Nam
Do xuất phát điểm là một nước có nền nông nghiệp lạc hậu, tốc độ đô thị

hóa ở Việt Nam diễn ra chậm chạp. Nhưng kể từ sau thời kì đổi mới (1986), cùng với sự
phát triển của đất nước, quá trình đô thị hóa cũng tăng nhanh đáng kể. Tốc độ đô thị hóa
trung bình trong giai đoạn 1999 – 2009 là 3,4%/ năm.
Bảng 2: Tỷ lệ đô thị hóa của Việt Nam giai đoạn 1930 - 2017
N
Năm

1
1930

1
1950

7
%0,5

1
1970

1
0

1
1979

2

0,6

1
1989

1
9,2

1
1999

2
2

2
2009

2
3,5

2
2017

2
9,6

2
2018

3

7,5

3
4,75

Nguồn: Tổng cục thống kê
Đến cuối năm 2017, toàn quốc có 813 đô thị, bao gồm: 2 đô thị loại đặc biệt,
19 đô thị loại I, 23 đô thị loại II, 45 đô thị loại III, 84 đô thị loại IV, 640 đô thị loại V, tỷ
lệ đô thị hóa đạt khoảng 37,5% (tăng 0,9% so với năm 2016).
 Đặc điểm quá trình đô thị hóa của Việt Nam
 Đô thị hóa gắn liền với tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu KT làm tăng cơ
cấu ngành DL
Lịch sử quá trình đô thị hóa trên thế giới cho thấy một quy luật: công nghiệp
hóa thúc đẩy đô thị hóa. Hai yếu tố này luôn có mối quan hệ phụ thuộc, bổ sung hỗ trợ
lẫn nhau, thể hiện qua số lượng các khu công nghiệp tại Việt Nam tăng nhanh chóng
cùng với quá trình đô thị hóa.

7


Kinh tế du lịch đã và đang trở thành ngành kinh tế quan trọng và chiếm tỷ
trọng ngày càng tăng trong thu nhập kinh tế quốc dân. Đặc biệt là ở những nước đang
phát triển, du lịch là một trong những ngành kinh tế phát triển năng động và khởi sắc
nhất, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế và là một trong những yếu tố quan trọng để
thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển.
GDP cả nước năm 2018 tăng 7,08%, là mức tăng cao nhất kể từ năm 2008
trở về đây, rong đó khu vực dịch vụ tăng 7,03%, đóng góp 42,7%. Điều này chứng tỏ xu
thế tiến bộ, phù hợp với hướng chuyển dịch cơ cấu trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước nhằm góp phần nâng cao chất lượng tăng trưởng và củng cố tiềm
lực kinh tế đất nước.

Khu vực dịch vụ năm 2018 tăng 7,03%, cao hơn mức tăng các năm giai
đoạn 2012-2016, trong đó các ngành dịch vụ thị trường có tỷ trọng đóng góp lớn vào
tăng trưởng GDP như bán buôn, bán lẻ; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm;
dịch vụ lưu trú và ăn uống; vận tải, kho bãi... đều đạt mức tăng trưởng khá. Hoạt động
thương mại dịch vụ năm 2018 có mức tăng trưởng khá, sức mua tiêu dùng tăng cao,
tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm nay đạt 4.395,7 nghìn tỷ
đồng, tăng 11,7% so với năm 2017.
Bảng 3: Tỷ trọng cơ cấu GDP trong các ngành kinh tế qua các năm

Năm

Nông nghiệp, lâm

Cơ cấu GDP (%)
Công nghiệp, xây

2001
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018

nghiệp, thủy sản
23,24
20,30

19,57
19,22
17,96
7,70
17,00
16,32
15,34
14,6

dựng
38,13
41,10
32,24
33,55
33,20
33,22
33,25
33,72
33,34
34,3

Dịch vụ
38,63
38,60
36,74
37,27
38,74
39,74
39,40
39,73

41,32
41,2
Nguồn: Tổng cục thuống kê

 Thúc đẩy di cư và mật độ dân số cao ở các khu đô thị lớn, tỷ lệ dân cư
đô thị tăng liên tục qua các năm

8


Đến năm 2017, số dân thành phố là 32,8 triệu người, chiếm khoảng 35%
dân số cả nước. Điều này cho thấy có luồng di cư lớn từ nông thôn vào thành thị. Cần
lưu ý rằng, ngoài luồng di cư từ nông thôn vào thành thị, tham gia vào quá trình đô thị
hoá còn có cả sự thay đổi ranh giới hành chính (từ xã trở thành thị trấn hoặc phường)
dẫn tới nhiều khu vực nông thôn đã trở thành thành thị. Tuy nhiên, dân cư đô thị phân
bố không đồng đều, chủ yếu tập trung ở các đô thị lớn, trong đó các đô thị loại đặc biệt
và loại I chiếm gần 50% dân số đô thị cả nước. Đặc biệt, dân số ở hai thành phố Hà Nội
và HCM chiếm khoảng 1/3 dân số thành thị cả nước.
Các cụm đô thị lớn ở vùng đồng băng sông Hồng, Đông Nam Bộ và các
thành phố lớn thường có mật độ dân số cao hơn, trong khi các vùng miền khác có mật
độ dân số khá thấp. Năm 2016, mật độ dân số cả nước là 280 người/km 2, nhưng ở Hà
Nội là 2182 người/km2 (gấp 7,8 lần), Tp.HCM là 4025 người/km2 (gấp 14,3 lần). Trong
khi đó, một số nơi có mật độ rất thấp như Bắc Kạn là 66 người/km 2, Điện Biên là 58
người/km2. Chính vì mật độ dân số quá đông nên các thành phố lớn đang phải chịu đựng
sự quá tải về hạ tầng kỹ thuật và môi trường, gây nguy cơ bệnh "đầu to", phát triển đô
thị thiếu bền vững.

 Gắn với mở rộng địa giới hành chính và nâng cấp đô thị
Như đã nói ở trên, tỷ lệ dân cư đô thị ở các tỉnh, thành phố tăng lên không
chỉ là kết quả của quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Có thể thấy, việc phân loại

lại địa giới hành chính có vai trò không nhỏ đối với gia tăng tỷ lệ dân số đô thị ở một số
địa phương. Việc phân chia lại địa giới hành chính có thể dẫn đến một trong hai hệ quả:
tăng tỷ lệ đô thị hóa (Tp. Cần Thơ, tỉnh Vĩnh Phúc), nhưng cũng có thể dẫn đến hiện
tượng nông thôn hóa đô thị (Tp. Hà Nội, Tp.Đà Lạt).
Bên cạnh đó, đô thị hóa ở Việt Nam còn có xu hướng chạy đua nâng cấp đô
thị: từ đô thị loại thấp lên đô thị loại cao, từ thành phố trực thuộc tỉnh đến thành phố
trực thuộc Trung ương. Quá trình này thường mang đậm dấu ấn chủ quan của các nhà
quản lý. Sự phân cấp hành chính tạo nên khác biệt rõ ràng giữa các loại hình đô thị. Đô
thị thuộc loại phân nhóm cao hơn được phân bổ ngân sách nhiều hơn, có chính sách
phát triển đô thị thông thoáng hơn. Cán bộ quản lý ở các đô thị lớn cũng có lương và
phụ cấp cao hơn so với người đồng cấp ở đô thị nhỏ hơn. Do đó, các thành phố thường
tập trung đầu tư kết cấu hạ tầng để đáp ứng các tiêu chí nâng cấp đô thị.

9


 Nhiều nơi mang tính tự phát, thiếu quy hoạch
Sự dễ dãi, sự yếu kém trong quy hoạch, quản lý, sử dụng cùng tư tưởng
chạy theo lợi ích kinh tế trước mắt đã đưa tới tình trạng sử dụng quỹ đất tuỳ tiện, lãng
phí. Hầu hết các khu công nghiệp, dịch vụ, dân cư đều bám dọc các quốc lộ huyết mạch,
các vùng nông thôn trù phú. Hệ quả là, hàng chục vạn hécta đất nông nghiệp màu mỡ,
nền tảng bảo đảm an ninh lương thực quốc gia đã bị sử dụng cho mục đích khác, tác
động mạnh đến công ăn việc làm, thu nhập và đời sống của hàng triệu lao động nông
nghiệp. Đi liền với thực trạng này là sự nảy sinh phân hoá giàu nghèo, thậm chí cả mâu
thuẫn xã hội.
Hiện nay, các vùng ven đô thị tại Việt Nam đang xảy ra quá trình đô thị hóa
tự phát. Đặc trưng của khu vực này là luôn biến đổi theo quá trình phát triển của các đô
thị. Nhiều làng nghề năng động cần xây dựng khu công nghiệp để phát triển nghề đã
được chính quyền địa phương cho phép tự đô thị hóa không cần quy hoạch và hỗ trợ của
Nhà nước.


 Định hướng đô thị hóa ở nước ta
Định hướng phát triển chung không gian đô thị cả nước theo hướng bảo đảm phát triển
hợp lý các vùng đô thị hóa cơ bản giữa 6 vùng kinh tế - xã hội, giữa miền Bắc, miền
Trung và miền Nam; giữa phía đông và phía tây; gắn với việc phát triển các cực tăng
trưởng chủ đạo và thứ cấp quốc gia, đồng thời bảo đảm phát triển theo mạng lưới, có sự
liên kết tầng bậc theo cấp, loại đô thị.
2) Tổng quan du lịch Việt Nam
Trong những năm gần đây, du lịch Việt Nam có sự tăng trưởng ổn định, lượt khách quốc
tế tăng trung bình 11%/ năm, riêng năm 2016 đạt 10 triệu khách, tăng 26% và năm 2017
đạt gần 13 triệu lượt khách , tăng 29,1% so với cùng kỳ. Khách du lịch nội địa đạt 73,2
triệu. Tổng thu từ khách du lịch đạt 510.900 tỷ đồng.
Theo báo cáo của Tổ chức Du lịch và Lữ hành thế giới, tổng đóng góp của ngành Du
lịch và Lữ hành Việt Nam vào GDP là 18,4 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 9,1%. Tuy nhiên tỷ
trọng giá trị xuất khẩu từ du lịch của Việt Nam chỉ chiếm 4,5% tổng giá trị xuất khẩu.
Trong khi đó, tỷ trọng đóng góp vào GDP và tỷ trọng giá trị xuất khẩu từ du lịch của các
nước trong khu vực như: Campuchia là 28,3% và 26,5%; Lào là 14,2% và 23,1%;

10


Myanmar là 6,6% và 26,4%. Về năng lực cạnh tranh, Việt Nam có lợi thế về giá cả; tài
nguyên thiên nhiên; tài nguyên văn hóa; nguồn nhân lực (được xếp hạng từ 30 –
37/136). Trái lại, một số chỉ tiêu về vệ sinh, y tế; công nghệ thông tin; chế độ ưu tiên về
du lịch; tính bền vững môi trường; dịch vụ du lịch bị đánh giá thấp, xếp hạng từ 80129/136.

Bảng 4: Tổng thu từ khách du lịch giai đoạn 2000 - 2018
Năm

Tổng thu từ khách du lịch (nghìn tỷ

đồng)

Tốc độ tăng trưởng (%)

2000

17,40

2001

20,50

17,8

2002

23,00

12,2

2003

22,00

-4,3

2004

26,00


18,2

2005

30,00

15,4

2006

51,00

70,0

2007

56,00

9,8

2008

60,00

7,1

2009

68,00


13,3

2010

96,00

41,2

2011

130,00

35,4

2012

160,00

23,1

2013

200,00

25,0

11


2014


230,00

15,0

2015

337,83

*

2016

400,00

18,4

2017

510,90

27,5

620,00

21,4

2018

Nguồn: Tổng cục du lịch

Đầu tư du lịch được đẩy mạnh, đặc biệt đầu tư trực tiếp nước ngoài co vai
trò quan trọng dẫn dắt phát triển du lịch. Đầu tư của khu vực tư nhân tăng nhanh, tuy có
những đột phá năng động nhưng tầm cỡ quy mô còn manh mún, dàn trải, tự phát và
thiếu đồng bộ, liên hoàn nên hiệu quả tổng thể không cao.
Kết cấu hạ tầng du lịch được quan tâm hỗ trợ của nhà nước và thu hút dược
các thành phần kinh tê tham gia đầu tư. Nhiều công trình giao thong, sân bay được cải
tạo và đầu tư mơi, cơ sở vật chất các khu du lịch được đầu tư, nâng cấp từng bước tạo
điều kiện mở đường cho hoạt động du lịch và liên quan vẫn chưa đảm bảo yêu cầu của
nhành dịch vụ hiện đại và hội nhập.
Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở lưu trú và dịch vụ phát triển nhanh,
chất lượng được nâng lên một bước, nhiều khu du lịch, resort, khu giải trí, khách sạn
cao cấp đạt trình độ quốc tế đã hình thành nhưng còn chiếm tỷ trọng nhỏ chưa làm thay
đổi căn bản diện mạo của ngành, chưa hình thành được hệ thống các khu du lịch quốc
gia với thương hiệu nổi bật.
Sản phẩm du lịch đã có đổi mới, phát triển đa dạng hơn nhưng chất lượng
còn nghèo nàn, đơn sơ, thiếu tính độc đáo, đặc sắc, thiếu đồng bộ và liên kết chưa cao
và ít sáng tạo. Sản phẩm dịch vụ có hàm lượng giá trị gia tăng cao còn chiếm tỷ trọng
nhỏ, nhiều sản phẩm trùng lắp, suy thoái nhanh.
Thị trường du lịch đã từng bước được lựa chọn theo mục tiêu Tuy nhiên
công tác nghiên cứu thị trường còn nhiều yếu kém, chưa thực sự đi trước một bước, hai
thác, thu hút thị trường còn dừng ở bề nổi, thụ động; chưa phân đoạn và chưa có tiêu
điểm tập trung.

12


Việc khai thác tài nguyên du lịch không ngừng được mở rộng nhưng do
thiếu kinh nghiệm và chưa có tầm nhìn dài hạn nên kém hiệu quả và bền vững; các di
tích, di sản đã phát huy giá trị phục vụ du lịch nhưng sự chủ động liên kết hai thách
chưa cao; cong tác bảo tồn văn hóa và bảo vệ môi trường diễn ra ở nhiều nơi. Ván đề vệ

sinh trật tự, an ninh, an toàn, tệ nạn xã hội vẫn còn tồn tại phổ biến.
Thương hiệu và hình ảnh Du lịch Việt Nam đang ngày càng có vị thế. Theo
đánh giá của Tổ chức Bloom Counsulting về xếp hạng thương hiệu du lịch và thương
mại trên thế giới, Việt Nam được xếp hạng 47 toàn cầu và xếp thứ 15 của châu Á. Được
đánh giá có sự vượt hạng khá ấn tượng, chỉ đứng sau một số quốc gia cùng khu vực như
Thái Lan, Singapore, Malaysia, Indonesia nhưng du lịch Việt Nam vẫn tồn tại khá nhiều
bất cập như: an ninh chưa đảm bảo (nạn móc túi), phục vụ kém (nạn chặt chém, phân
biệt đối xử), môi trường du lịch ngày càng xuống cấp,…
3)

QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA CỦA HÀ NỘI VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ
ĐẾN PHÁT TRIỂN DU LỊCH THÀNH PHỐ.
1) Thực trạng đô thị hóa ở Hà Nội.
1.1) Đặc điểm thành phố Hà Nội

 Vị trí địa lí
Hà Nội nằm tiếp giáp với nhiều tỉnh ở miền bắc Việt Nam: Thái Nguyên,
Vĩnh Phúc, Hà Nam, Hòa Bình, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hưng Yên; cách thành phố cảng
Hải Phòng 120 km, thành phố cảng Nam Định 87km tạo thành 3 cực chính của đồng
bằng sông Hồng. Ngoài ra, Hà Nội còn nằm ở hữu ngạn sông Đà và hai bên sông Hồng.
→ Vị trí và địa thế thuận lợi cho một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa,
du lịch, khoa học, đầu mối giao thông quan trọng của Việt Nam.

 Kinh tế
Năm 2017, thu nhập bình quân đầu người của Hà Nội là 91 triệu VND,
trong khi của cả nước là 53,5 triệu VND. Kinh tế của Thủ đô liên tục phát triển qua các
năm. Trong 9 tháng đầu năm 2018, GRDP tăng 7,17% so với cùng kỳ năm ngoái; kim
ngạch xuất khẩu ước tính đạt 10,5 tỷ USD, tăng 21,6%; chỉ số sản xuất công nghiệp
tăng 7,4%; giá trị gia tăng nông nghiệp tăng 3,37%. Lượng khách du lịch tăng 17,6%,


13


trong đó, khách quốc tế tăng 19,8%, giúp Hà Nội xếp thứ 7 trong top 10 thành phố có
tăng trưởng du lịch nhanh nhất thế giới, kéo theo đó là lợi thế về dịch vụ thương mại,
vận tải,…
Hà Nội là một trong những địa phương thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhiều
nhất cả nước. Năm 2018, tổng vốn đầu tư phát triển ước tính đạt 219,44 nghìn tỷ đồng,
tăng 10,3%; đầu tư nước ngoài khoảng 6,265 tỷ USD, gấp 5,39 lần so với cùng kỳ năm
ngoái. Có 18,68 nghìn doanh nghiệp mới thành lập, vốn đăng ký đạt 204,53 nghìn tỷ
đồng. Thu ngân sách nhà nước ước đạt 166,2 nghìn tỷ đồng, bằng 69,7% dự toán, tăng
13,7%.
Tuy đã mở rộng địa giới hành chính, giúp tăng lực lượng lao động lên hơn
3,8 triệu người, Hà Nội vẫn thiếu lao động, đặc biệt là lực lượng có thay nghề cao. Việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra vẫn còn chậm, nhất là cơ cấu nội ngành công nghiệp,
dịch vụ và các sản phẩm mũi nhọn.

 Kiến trúc và quy hoạch đô thị
Năm 2010, Hà Nội lập đồ án quy hoạch chung xây dựng thủ đô đến năm
2030 và 2050: 9,1 triệu dân vào năm 2030 và hơn 10 triệu dân vào năm 2050. Về mặt
kiến trúc, có thể chia Hà Nội hiện nay thành 4 khu: khu phố cổ, khu thành cổ, khu phố
Pháp và các khu mới quy hoạch.
Vào những năm 1960 – 1970, hàng loạt các khu nhà tập thể theo kiểu lắp
ghép xuất hiện. Cuối những năm 1990 – 2000, nhiều con đường giao thông chính của
Hà Nội như Giải Phóng, Nguyễn Văn Cừ,… được mở rộng, các khách sản, hàng quá,
cao ốc mọc lên như nấm, các khu đô thị mới như KDT Nam Thăng Long, Ecopark, Du
lịch hồ Tây, Linh Đàm,… cũng dần xuất hiện. Tuy nhiên, việc quy hoạch không hợp lý,
thiếu đồng bộ khiến cho đô thị trở nên chắp vá, thiếu thẩm mỹ, không đủ không gian
công cộng.
1.2) Đặc điểm chung của đô thị hóa Hà Nội:

Hà Nội là một trong hai thành phố có tốc độ và tỷ lệ đô thị hóa cao nhất Việt
Nam. Quá trình đô thị hóa của Hà Nội phát triển mạnh theo chiều rộng và có sức lan tỏa
lớn. Năm 2000, dân số Hà Nội là 2,7 triệu người, đến năm 2018, con số đã tăng lên 8,2
triệu người với 55% sống ở thành thị. Sau khi sáp nhập mở rộng địa giới hành chính thủ
đô Hà nội, gồm Thành phố Hà Nội cũ với tỉnh Hà Tây cũ, huyện Mê Linh tỉnh Vĩnh

14


Phúc và 4 xã thuộc huyện Lương Sơn tỉnh Hòa Bình với tổng diện tích tự nhiên
3.344,6km2.
So với tốc độ đô thị hóa của cả nước là 34,75%, tốc độ đô thị hóa của Hà
Nội gần gấp đôi (69,7%). Trong suốt 10 thế kỷ (từ năm 1010-2010) lịch sử hình thành
và phát triển của thủ đô Hà Nội gắn liền với quá trình đô thị hoá. Khu thành cổ, khu 36
phố phường, khu phố Pháp qua các thời kỳ đều được xác định là trung tâm Hà Nội cổ
hay đô thị lõi lịch sử, là trung tâm văn hoá – chính trị – kinh tế, nơi tập trung các cơ
quan đầu não của nhà nước Việt Nam, nơi diễn ra những hoạt động văn hoá mang tầm
quốc gia, khu vực và quốc tế. Giai đoạn từ Hòa bình lập lại đến nay, Hà Nội đã nhiều
lần quy hoạch lại thành phố với những nguyên tắc là văn minh, hiện đại và môi trường
trong sạch.
Nhìn tổng quát, đô thị hóa Hà Nội theo hướng bền vững là quá trình kết hợp
chặt chẽ, hài hòa của 3 mặt phát triển KT-XH và MT. Mục tiêu kinh tế: đạt được sự tăng
trưởng cao và ổn định với cơ cấu kinh tế hợp lý hiện đại; phát triển dịch vụ - công
nghiệp - nông nghiệp, theo hướng ưu tiên các lĩnh vực công nghệ cao, hiệu quả kinh tế
lớn, ít gây ô nhiễm MT, phù hợp với hội nhập kinh tế quốc tế. Mục tiêu xã hội: xây
dựng Thủ đô thành trung tâm văn hóa tiêu biểu của quốc gia; xây dựng con người mới,
thực hiện công bằng xã hội; tập trung giải quyết tình trạng nghèo, tệ nạn xã hội và giải
quyết việc làm. Mục tiêu về môi trường: tính toán các phương án do tác động của con
người với thiên nhiên, chọn phương án tối ưu nhằm nâng cao chất lượng sống cho con
người, nhưng vẫn bảo đảm cân bằng các hệ sinh thái.


 Quá trình đô thị hóa kéo theo sự phát triển tất yếu của hệ thống giao
thông
Hà Nội là một trong những thành phố có lượng dân số và mật độ dân cư cao
nhất cả nước nên giao thông đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu đi lại
và vận chuyển hành khách, hàng hóa ngày một gia tăng.
 Quá trình đô thị hóa gắn với công nghiệp hóa và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng hiện đại

 Thúc đẩy công nghiệp hóa

15


Không chỉ là trung tâm chính trị, văn hóa, Hà Nội còn đi đầu trong quá trình
công nghiệp hóa ở vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Hiện nay trên địa bàn Hà Nội, có
17 khu công nghiệp với tổng diện tích gần 3.500 ha, nằm chủ yếu ở ven quốc lộ 5, quốc
lộ 2, cao tốc Thăng Long – những vị trí có hạ tầng giao thông khá thuận lợi. Tỷ lệ lấp
đầy của các khu công nghiệp đạt khoảng 85%, cao hơn so với toàn vùng (70%). Trong
đó, có 9 KCN với tổng diện tích 1,264 ha, đang hoạt động ổn định với tỷ lệ lấp đầy trên
95%: Thăng Long; Nội Bài; Thạch Thất - Quốc Oai; Nam Thăng Long; Sài Đồng B; Hà
Nội – Đài Tư; Quang Minh I; Phú Nghĩa; Khu công viên công nghệ thông tin. Một số
KCN vẫn còn đất để thu hút đầu tư như: KCN Phú Nghĩa (20 ha); KCN Quang Minh I
(2 ha). Các KCN khác đang chuẩn bị đầu tư hạ tầng, riêng KCN Hỗ trợ Nam Hà Nội,
diện tích 77 ha đang tiếp tục hoàn thiện xây dụng cơ sở hạ tầng kỹ thuật để thu hút đầu
tư thứ phát. Trong 9 tháng đầu năm 2018, các KCN đã thu hút đầu tư được 277,7 triệu
USD, tăng 90% so với cùng kỳ năm 2017. Tính đến nay, các KCN thu hút 649 dự án,
trong đó có 335 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài với vốn đăng ký 5,6 tỷ USD; 314 dự
án đầu tư trong nước với vốn đăng ký 14.800 tỷ đồng. Tổng doanh thu của các KCN đạt
khoảng 5,470 tỷ USD, tăng 6,6%; tổng kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 3,180 tỷ USD,

tăng 9,1% so với cùng kì năm ngoái.
Dự báo đến năm 2020, Hà Nội sẽ có thêm 14 khu công nghiệp mới với tổng
diện tích 6.100 ha, tăng 250% so với nguồn cung hiện tại (Theo báo cáo của Colliers
International).

 Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại
Đô thị hóa đã thúc đẩy nhanh chóng quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ
nông lâm ngư nghiệp sang các ngành công nghiệp và dịch vụ. Từ năm 1980 đến năm
2017, sau khi trải qua thời kì đổi mới, tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm mạnh từ 41%
xuống còn 2,8%, tỷ trọng ngành công nghiệp chiếm 29,7% và dịch vụ là 57,7%. Trong
đó, ngành công nghiệp vẫn tập trung vào 5 lĩnh vực chính, chiếm tới 75,7% tổng giá trị
sản xuất công nghiệp, là cơ – kim khí, điện – điện tử, dệt may, chế biến thực phẩm và
công nghiệp vật liệu.
Chuyển dịch cơ cơ cấu vùng kinh tế của Hà Nội đã có những thay đổi theo
hướng tích cực, từng bước khai thác và phát huy lợi thế của từng vùng, từng ngành,
từng thành phần kinh tế, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao qua các thời kỳ và
qua các năm. Sự biến đổi về biên giới hành chính dẫn đến sự mở rộng thành phố dẫn

16


đến những biến đổi quan trọng như quá trình đô thi hóa tăng nhanh thúc đẩy quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng việc làm phi nông nghiệp, chuyển đổi mục đích sử
dụng đất…. Khu vực kinh tế thành thị gồm có 10 quận nội thành có tốc độ tăng trưởng
cao là nơi tập trung của các ngành dịch vụ, công nghiệp có trình độ, có giá trị lớn. Khu
vực ngoại thành gồm 18 huyện và 1 thị xã có tốc độ phát triển chậm hơn do vậy sẽ có
xu hướng gia tăng khoảng cách với nội thành. Hiện ngành nông nghiệp và cơ cấu kinh
tế ngoại thành đã có sự chuyển biến bước đầu tích cực, các địa phương cũng đẩy mạnh
việc phát triển sản xuất hình thành các khu công nghiệp tập trung, các vùng chuyên
canh cho sản xuất nông nghiệp, các vùng sản xuất hàng hoá trên cơ sở điều kiện tự

nhiên, kinh tế – xã hội của từng vùng. Điều này tạo thuận lợi cho phát triển công nghiệp
chế biến, góp phần tạo nên xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ
trọng sản xuất công nghiệp và dịch vụ.

 Đô thị hóa với gắn liền với việc mở rộng quy mô thủ đô, tạo không gian thuận
lợi bảo đảm tính bền vững của quá trình đô thị hóa
Năm 2008, việc Hà Tây sáp nhập vào Hà Nội đã mở rộng diện tích thủ đô lên 3.324,92
km². Sau khi mở rộng, Hà Nội có 29 đơn vị hành chính trực thuộc bao gồm 10 quận, 18
huyện, 1 thị xã và 580 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 404 xã, 154 phường và 22 thị
trấn. Việc mở rộng Hà Nội thực sự cần thiết cho hướng phát triển bền vững thủ đô, nhất
là nhu cầu phát triển công nghiệp và vấn đề bảo vệ môi trường. Thủ đô mở rộng bao
gồm cả tỉnh Hà Tây có các trục xuyên tâm và dải xanh đan xen cho phép Hà Nội phát
triển các khu mới ra xa khu trung tâm, có những vùng đệm mầu xanh ở giữa khu mới và
thành phố cũ. Các dải xanh đó là các hành lang dẫn gió, đóng góp vào việc bảo vệ môi
trường sinh thái. Nếu các dải xanh đó chật hẹp, thì đơn thuần chỉ là giải cách ly, chống
ồn, chống bụi. Nếu dải xanh lớn hơn, có thể là một trang trại trồng cây ăn quả, hoặc là
khu sản xuất rau sạch, hoa tươi cho thành phố, lớn hơn nữa, có thể tạo thành khu du lịch
sinh thái hoặc thành phố vệ tinh như ở Khu Công nghệ cao Hòa Lạc.

 Đô thị hóa gắn với mở rộng phạm vi thúc đẩy sự phát triển các khu
vực xung quanh với tư cách là “bệ đỡ” cho sự phát triển của Hà Nội
Vùng Thủ đô Hà Nội được hình thành theo Quyết định 490/QĐ-TTg ngày
5/5/2008 bao gồm toàn bộ ranh giới hành chính Thủ đô và 6 tỉnh: Vĩnh Phúc, Hưng
Yên, Bắc Ninh, Hải Dương, Hà Nam và Hoà Bình với diện tích tự nhiên khoảng
13.436km2, bán kính ảnh hưởng từ 100-150km. Đây sẽ là động lực, một bệ đỡ vững
17


vàng cho sự phát triển của Hà Nội cũng như các tỉnh nằm trong vùng. Cụ thể: Sự phát
triển của Vùng Thủ đô Hà Nội, bên cạnh Vùng đô thị hạt nhân và phụ cận còn có Vùng

phát triển đối trọng. Vùng phát triển đối trọng của Vùng Thủ đô (phạm vi 30-60 km)
hình thành với ba tiểu vùng lớn: Vùng đối trọng phía Tây là Hoà Bình; Vùng đối trọng
phía Đông và Đông Nam gồm các tỉnh chuyển tiếp giữa Đồng bằng sông Hồng với
vùng Duyên hải Bắc Bộ như Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương và Hà Nam; Vùng đối
trọng phía Bắc và Đông Bắc gồm các khu vực Bắc sông Hồng, dọc theo hành lang trục
đường 18, chủ yếu là bán sơn địa thuộc tỉnh Vĩnh Phúc và Nam các tỉnh Bắc Giang,
Thái Nguyên và Quảng Ninh.
Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ gồm 7 tỉnh và thành phố: Hải Phòng, Hà
Nội, Quảng Ninh (hạt nhân của vùng), Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh và Vĩnh Phúc.
Đây là trung tâm kinh tế năng động và là đầu tàu kinh tế quan trọng của miền Bắc nói
riêng và cả nước nói chung. Tất cả sẽ giúp cho Hà Nội có điều kiện cũng như trách
nhiệm quan trọng trong phát triển và thực hiện sự lan tỏa, liên kết kinh tế với với các
tỉnh thành khác.
Hình 1: Các vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc

1.3. Các mặt tiêu cực của quá trình đô thị hóa Hà Nội:

 Xu hướng phát triển theo chiều rộng các khu đô thị:
Khu dân cư, đô thị Hà Nội phần lớn được quy hoạch theo kiểu lấp chỗ
trống, chiếm đất, nhà xưởng một tầng. Đô thị “một tầng” không đảm bảo yêu cầu về độ
cao và tính hiện đại. Vì thế tình trạng hiện nay, nhất là những khu đô thị mới, sức chứa
gần như đã cạn và bắt đầu có hiện tượng tắc nghẽn, các cơ sở hạ tầng về giao thông
đường xá đều quá tải.

18


 Mô hình “kinh tế mặt đường” thể hiện rõ rệt trong phát triển các khu
đô thị.
Hiện nay các khi đô thị, hu công nghiệp nằm quá gần nhau và bám sat trên

các tuyến giao thông trọng điểm, huyết mạch đã và đang cản trở đến lưu thông của
nhiều đoạn, trong đó quốc lộ 5 là một điển hình. Trên đường quốc lộ 5 có tớ 80% các
khu công nghiệp chỉ nằm cách mép đường khoảng 30m đổ lại. Mặc dù khi xây dựng
giao thông đã tránh đi qua các đô thị nhưng các địa phương lại san đất, giao mặt bằng
đất phát triển các khu công nghiệp và khu đô thị hình thành bám đường phát triển, và
như vậy đường đến đâu, nhà đến đó. Hậu quả đường 5 đã trở thành “phố 5”. Các làng
xã đô thị hóa thường được bao bọc bởi những dãy nhà ở chiếm mật độ cao sán vai cùng
nhiều công trình công cộng của thành phố.

 Tính chất ồ ạt, phần nào thể hiện tính tự phát trong phát triển đô thị:
Biểu hiện rõ nét là các công trình xây dựng mọc lên như nấm sau mưa tại
các khu vực mới mở nhưng không tuân theo hoặc không đúng các quy hoạch chhung,
quy hoạch chi tiết dã được duyệt. Trên địa bàn thành phố Hà Nội đã đồng loạt triển khai
lập dự án khu đô thị mới một cách ồ ạt, trong đó có nhiều dự án không mang lại hiệu
quả, gây lãng phí đất đai và vốn đàu tư, nhiều khu đô thị đươc quy hoạch nhưng không
thể lấp đầy được. Nhiều đô thị, do công tác quy hoạch chưa có tầm nhìn dài hạn và đúng
tầm vóc nên thực tế chưa có đô thị hiện đại, đẹp như mong muốn.
Mặt khác, giữa phát triển đô thị và phát triển khu công nghiệp cũng như hệ
thống giao thông và mạng lưới dịch vụ phát triển mang những yếu tố thiếu đồng bộ:
Nhiều nơi có khu công nghiệp nhưng lai không quy hoạch đô thị, nhà ở và ngược lại.
Trong cơn sốt phát triển đô thị, Hà Nôi nhìn giống như môt công trường xây dựn lớn,
khá hỗn độn. Không ít công trình cũ đã bị phá bỏ để xây dựng các công trình to lớn hơn
và mở rộng đường xá, sân bay, thiên nhiên bị phá hủy, đất nông nghiệp bị lấn chiếm,
nhà ở ngoai ô và cả sân golf trên địa bàn thành phố.
 Sự không hợp lý trong tổ chức kinh tế và điểm dân cư đô thị
Trên địa bàn Hà Nội, hệ thống các đô thị - trung tâm chưa hình thành một
cách hợp lý, việc đặt các khu công nghiệp, trung tâm thương mại dịch vụ, các khu công
nghệ cao, các đơn vị cơ quan nghiên cứu chưa thực sự dựa trên những dấu hiệu lợi thế
so sánh của từng khu vực khác nhau trên địa bàn thành phố. Phần lớn các cơ sở kinh tế


19


cũng như dân cư vẫn tập trung ở những khu đô thị truyền thống mà chưa có xu hướng
dãn ra các đô thị mới, hay các địa danh mới sát nhập vào Hà Nội, làm cho các đô thị
truyền thống trở nên quá tải nhưng chưa có biện pháp hữu hiệu điều hòa quá trình tăng
trưởng đó.
Mặc dù phát triển khá mạnh song các đô thị Việt Nam hiện vẫn chưa thực sự
đáp ứng được nhu cầu xã hội hóa nhà ở cho mọi đối tượng. Tại Hà Nội. Thống kê của
UNFPA cho thấy, hiện 25% cư dân thành thị Hà Nội không đủ tiền để mua nhà ở, 20%
nhà ở thành thị bị xếp vào loại không đạt tiêu chuẩn. Đặc biệt, ở Hà Nội khoảng 30%
dân số có diện tích nhà ở dưới 3m2/người.Trong các khu đô thị mới, phần lớn đất đai
dành phát triển quỹ nhà ở, xây dựng các công trình dịch vụ để bán và cho thuê, diện tích
cây xanh, các khu vui chơi công cộng bị thu hẹp tối đa để giảm bớt suất đầu tư hạ tầng
cơ sở. Xét về lâu dài, nó lại ảnh hưởng xấu đến chất lượng môi trường cũng như chất
lượng dịch vụ xã hội của khu vực (khu nhà ở ngày càng bị thiếu diện tích vườn hoa, cây
xanh, nhà trẻ, các tuyến đi bộ...). Cơ sở hạ tầng xã hội và kỹ thuật tại các khu dân cư đô
thị thành phố nhìn chung không đồng bộ, mạng lưới giao thông trong và ngoài đô thị
chưa phát triển, gây trở ngại cho các mối liên thông giữa đô thị với các vùng lân cận
cũng như với hoạt động: làm việc - nghỉ ngơi - sinh hoạt của người dân trong đô thị.

 Phát triển nguồn nhân lực không theo kịp được với quá trình đô thị
hóa
Thứ nhất, quá trình đô thị hóa đã tạo ra một dòng di chuyển ồ ạt dân cư ở
các địa phương khác vào Hà Nội. Dự kiến dân số Hà Nội đến 2020 là 8 triệu với tỷ lệ đô
thị hóa là 54%, 2030 lên tới 9 triệu và 70%. Tình trạng tăng vọt dân số cơ học ở Hà Nội
làm đậm thêm sự mất cân đối trong phân bố dân cư, lao động trên phạm vi toàn quốc.
Hà Nội phải gánh chịu áp lực quá tải rất nặng nề về dân số, áp lực về tạo công ăn việc
làm, chỗ ở cho người dân nghèo, nâng cao chất lượng môi trường, về cơ sở hạ tầng kỹ
thuật, hạ tầng xã hội

Thứ hai, hiện nay, thành phố Hà Nội có tới trên 70% số người bị thu hồi đất
do đô thị hóa và xây dựng khu đô thị không có trình độ chuyên môn. Trong đó, số người
được đào tạo tay nghề sau khi bị thu hồi đất chỉ chiếm 0,22%. Trong đó, Nhà nước đào
tạo 0,03%; đơn vị nhận đất đào tạo 0,03%; gia đình tự đào tạo 0,16%.hiện có 37,7% số
người bị mất đất có thu nhập thấp hơn so với khi còn đất. Tỷ lệ thất nghiệp trước và sau
khi thu hồi đất tăng từ 5,22% lên 9,1%; làm thuê, xe ôm tăng từ 4,76% lên 8,4%; buôn

20


bán tăng từ 10,88% lên 13,6% và số người bị thu hồi đất được nhận vào làm trong các
khu công nghiệp chỉ có 2,79%. Nhiều người sau khi nhận tiền đền bù, tiền hỗ trợ đã sử
dụng vào việc mua sắm phương tiện đi lại, vật dụng sinh hoạt chứ không chú tâm đến
việc học nghề, giải quyết việc làm; có gia đình trở nên giàu có sau khi nhận tiền bồi
thường, nhưng chỉ sau một vài năm lại rơi vào tình trạng khó khăn do thất nghiệp. Thực
trạng này chứng tỏ quá trình đô thị hoá Hà Nội chưa gắn kết và tác động mạnh mẽ đến
nông nghiệp, nông thôn, nông dân. Tình trạng thiếu việc làm, dư thừa lao động; sự phân
hoá thu nhập và những khó khăn về đời sống của người nông dân Hà Nội ngày càng rõ
ràng hơn.
Thứ ba, thiếu trầm trọng nguồn nhân lực chất lượng cao, vì thế, không đáp
ứng được yêu cầu sử dụng và phát triển công nghệ cao trên địa bàn thành phố, bắt đầu
có sự “ra đi” của một số nhà đầu tư nước ngoài (hãng SONY đóng cửa là dấu hiệu đáng
nói do không thể bán được mặt hàng chất lượng kỹ thuật như hiện nay). Mô hình nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực hợp lý mà hiện nay đô thị lớn của nhiều nước đã làm là
xây dựng các khu “sinh dưỡng công nghiệp” khu “:nuôi dưỡng công nghiệp” để cải tiến
công nghệ và đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao chưa được phát triển
trên địa bàn thành phố.

 Cơ sở hạ tầng đô thị chưa đảm bảo các tiêu chuẩn phát triển đô thị
hiện đại

Đầu tiên, phải kể đến sự không đồng bộ giữa đô thị hóa với hệ thống cơ sở
hạ tầng giao thông: tính tất cả các loại đường giao thông thì Hà Nội mới chỉ đạt 1,24 km
đường/km2, quỹ đất dành cho giao thông rất ít, chỉ đạt dưới 8% đất đô thị ( dưới 40%
mức hợp lý cho đô thị), hạ tầng lạc hậu, nhỏ bé không đáp ứng được yêu cầu của cuộc
sống, Mạng lưới đường giao thống không hợp lý, không liên hoàn để tạo giao thông
thông suốt, thiếu tổ chức phân luồng giao thông hợp lý; Về giao thông công cộng Hà
Nội mới đáp ứng chưa quá 15% nhu cầu đi lại.; sự gia tăng nhanh của các phương tiện
cá nhân chưa được kiểm soát, ý thức của một số người dân tham gia giao thông chưa
được cao; ùn tắc giao thông, tai nạn giao thông, ô nhiễm môi trường còn diễn ra nghiêm
trọng.
Kế đến là sự bất cập về cơ sở hạ tầng cấp, thoát nước.Về cấp nước: Tỷ lệ
bao phủ dịch vụ cấp nước còn thấp, bình quân 70-80%, một số đô thị lớn đạt 80-90%,
các thị trấn đạt khoảng 50- 60%; tiêu chuẩn cấp nước bình quân 90-120 l/người/ngày;

21


chất lượng dịch vụ cấp nước chưa ổn định; Hệ thống cấp nước sạch chưa bảo đảm yêu
cấu chất lượng, tỷ lệ đường ống cũ đang được sử dụng trong mạng lưới đường ống cấp
nước trong các đô thị Hà Nội cũn cao. Mạng lưới thoát nước trở nên đáng lo ngại hơn
cả: Năng lực thoát nước tại đô thị Hà Nội hiện nay chỉ đạt 35% so với nhu cầu, làm cho
hiện tựợng úng ngập trở thành những “thảm họa” đối với đô thị Hà Nội. Năm 1995, Hà
Nội có 110 hồ với hơn 2.100 ha, trong tổng diện tích đất xây dựng 10.000ha, song trên
thực tế hiện nay đã san lấp hết 30% diện tích hồ trong khi đó lại không có hồ mới. Hồ
Yên Sở dự định là 130ha thì hiện không xây dựng đủ, trong khu đô thị Ciputra dự kiến
có 30ha hồ song nhà đầu tư vẫn không đào. Khu Yên Hoà có 20 ha mặt nước song thực
tế không có. Khu Mỹ Đình dự kiến có công viên và hồ khoảng 10ha song không ai làm.
Trong quy hoạch đều có hồ song các chủ đầu tư chỉ làm nhà mà không đầu tư đào hồ.

 Ô nhiễm môi trường đô thị Hà nội trở thành điểm “điểm nóng” cản

trở sự phát triển.
Ô nhiễm môi trường nước trở nên cực kỳ nghiêm trọng: hệ thống thoát nước thải, nước mưa còn yếu kém so với quy mô đô thị hóa, thường xuyên gây ra úng
ngập trong mùa mưa, chất lượng nước thải đều không đạt tiêu chuẩn loại B. Các kênh,
mương, sông thoát nước như các sông Tô Lịch, Kim Ngưu, Sét, Lừ đều bị ô nhiễm trầm
trọng do hàng ngày phải tiếp nhận khối lượng lớn nước thải sinh hoạt và nước thải công
nghiệp chưa qua xử lý (ví dụ lượng nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp trung
bình của thành phố Hà Nội xấp xỉ 450.000 m3/ngày.đêm). Các hồ trong nội thành cũng
đều đã bị ô nhiễm chủ yếu do nước thải sinh hoạt không qua xử lý và rác thải đô thị đổ
trực tiếp vào hồ. 9/ 11 khu công nghiệp của Hà Nội chưa xây dựng hoàn chỉnh hệ thống
nước thải tập trung.
Hà Nội đang là một (trong hai) thành phố ô nhiễm nhất cả nước về môi
trường không khí. Hơn thế nữa, Nghiên cứu của UNFPA cho thấy, chất lượng không khí
tại Hà Nội còn thuộc vào loại tồi nhất trong khu vực.Tính trung bình trên toàn thành
phố, nồng độ bụi gấp 1,5 đến 3 lần tiêu chuẩn cho phép. Thiệt hại do ô nhiễm không khí
gây ra đối với Hà Nội ước tính khoảng 1 tỷ đồng/ngày, chưa tính đến thiệt hại đối với
với nông nghiệp và cây xanh. Kết quả quan trắc môi trường không khí cho thấy nồng độ
SO2, CO, NO2 trong các KCN đều vượt tiêu chuẩn cho phép từ 2 đến 6 lần. Tại các nút
giao thông lớn, các điểm gần khu công nghiệp hoặc trong các khu công nghiệp đang có

22


chiều hướng gia tăng ô nhiễm môi trường cục bộ. Nồng độ bụi tại ven các trục giao
thông đều đã vượt tiêu chuẩn cho phép. Tại một số làng nghề như làng nghề truyền
thống Bát Tràng (Hà Nội), tình trạng ô nhiễm không khí là vấn đề hết sức bức xúc.
Ô nhiễm môi trường chất thải rắn ngày càng gia tăng do việc mở rộng sản
xuất công nghiệp, đô thị hoá và mức tiêu thụ dân cư tăng lên. Các khu công nghiệp trên
địa bàn thải khoảng 30% tổng lượng rác thải công nghiệp của thành phố Hà Nội. Việc
thu gom, vận chuyển rác thải chỉ thực hiện trong phạm vi từng nhà máy, việc xử lý chủ
yếu thực hiện bằng các lò đốt tương đối đơn giản với vốn đầu tư khá khiêm tốn; rác thải

ra khỏi nhà máy gần như chưa đạt tiêu chuẩn theo yêu cầu. Tỷ lệ thu gom rác thải rắn
mới chỉ đạt 60%. Đặc biệt, các rác thải công nghiệp nguy hại hầu như chưa được xử lý.

 Không gian kiến trúc ngoại thành trong quá trình đô thị hóa bị ảnh
hưởng đến những giá trị văn hóa truyền thống.
Quá trình đô thị hoá ở Hà Nội trải qua các thời kỳ đã tác động làm biến đổi
cấu trúc không gian làng truyền thống - một đặc trưng trong đô thị cổ Việt Nam. Tác
động của kinh tế thị trường đã làm thay đổi đáng kể đến cuộc sống vật chất và tinh thần
của người dân ngoại thành. Những tác động tích cực của đô thị hoá ở Hà Nội đã làm
cho các làng xã ngoại thành có sự thay đổi lớn về kinh tế - xã hội và bộ mặt kiến trúc tại
các tụ điểm dân cư thị - thôn mới. Nhưng xét về tổng thể chung trong thành phố sự giao
tiếp giữa cuộc sống nông thôn và cuộc sống thành thị về các mặt kinh tế, xã hội, văn
hoá, lối sống cho thấy xu hướng nông thôn áp đảo thành thị. Căn tính nông dân và tư
duy nông nghiệp đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến công tác quản lý đô thị, đồng thời
không phát huy được các giá trị đặc trưng sẵn có của văn hoá truyền thống. Ngược lại
do có sự giao lưu, tiếp xúc của cuộc sống nông thôn với văn minh kỹ thuật đô thị theo
xu hướng "hướng ngoại" đã và đang có nhiều tác động vào cấu trúc làng, làm ảnh
hưởng đến những giá trị văn hoá truyền thống. Kết quả tác động theo cả hai chiều nêu
trên dẫn đến sự va chạm giữa yêu cầu hiện đại, văn minh của cuộc sống đô thị và tính
truyền thống, văn hoá của cuộc sống nông thôn.
Nhưng sự chuyển biến vừa qua của các làng ngoại thành diễn ra tự phát, từ
từ và khó kiểm soát được. Sự biến đổi ở mỗi nơi mỗi lúc với tốc độ và mức độ khác
nhau nhưng vẫn trên một mặt bằng văn hoá chung có nguồn gốc nông nghiệp. Sự biến

23


đổi phần vỏ vật chất của không gian kiến trúc chưa đồng bộ với nội dung bên trong là
con người, xã hội, văn hoá, lối sống nông thôn. Do thiếu quản lý, hướng dẫn kịp thời
hoặc tư tưởng nóng vội của mỗi cá thể muốn ngôi nhà của mình trở thành nhà ở kiểu

thành phố đã tạo nên sự biến đổi tự phát lộn xộn làm ảnh hưởng đến đặc trưng của
không gian văn hoá quần cư truyền thống. Sự biến đổi nêu trên là theo quy luật tự phát
thiếu sự cân bằng giữa các yếu tố con người, xã hội, môi trường và cân bằng giữa phát
triển kinh tế với phát triển văn hoá.
Bài học kinh nghiệm này đã được tổ chức giáo dục, khoa học và văn hoá thế
giới UNESCO nhấn mạnh trong tuyên bố mở đầu thập kỷ thế giới phát triển văn hoá
như sau:
"Kinh nghiệm của hai thập kỷ vừa qua cho thấy trong mọi xã hội hiện nay,
bất luận ở trình độ phát triển kinh tế nào hoặc xu hướng nào văn hoá và phát triển là
hai mặt gắn liền nhau."
"Nước nào tự đặt cho mình mục tiêu phát triển kinh tế mà tách rời môi
trường văn hoá thì nhất định sẽ xảy ra những mất cân đối nghiêm trọng cả về kinh tế
lẫn văn hoá và tiềm năng sáng tạo của nước ấy sẽ suy yếu rất nhiều."
Hà Nội là trung tâm của tiểu vùng văn hoá Thăng Long - Hà Nội, trong
vùng văn hoá châu thổ sông Hồng. Đặc trưng nổi bật về địa lý và khí hậu là môi trường
thực vật và sông nước với hệ thống các làng gắn liền sông, hồ, đầm của thành phố. Mỗi
một làng lại là một đơn vị cân bằng sinh thái trong hệ thống các làng. Làng truyền thống
ngoại thành là một cộng đồng dân cư, đơn vị kinh tế xã hội, là môi trường văn hoá, đơn
vị xã hội cơ sở. Làng là một đơn vị cơ bản bao gồm những thành tố: công trình công
cộng truyền thống, nhà ở, không gian giao tiếp công cộng. Các thành tố này đan xen hoà
quyện gắn bó chặt chẽ tạo thành một không gian thực thể chứa đựng những giá trị văn
hoá truyền thống (văn hoá vật thể và phi vật thể). Nghề truyền thống là một đặc trưng
của văn hoá sản xuất, mang giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Đặc trưng này gắn liền
với sinh hoạt văn hoá, tôn giáo tín ngưỡng, phong tục tập quán và hương ước là những
giá trị văn hoá phi vật thể tạo nên đặc trưng cộng đồng văn hoá của mỗi làng. Đây là
những yếu tố nội lực sẵn có trong kiến trúc làng truyền thống cần nghiên cứu phát triển.
2)

Du lịch Hà Nội
2.1) Tiềm năng phát triển du lịch của Hà Nội

24


×