Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Áp dụng án treo từ thực tiễn tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (914.79 KB, 110 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT
NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHAN MINH ĐỨC

ÁP DỤNG ÁN TREO
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH
SỰ

HÀ NỘI, 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT
NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ
HỘI

PHAN MINH ĐỨC

ÁP DỤNG ÁN TREO
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH

Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình
sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA


HỌC: GS.TS. VÕ KHÁNH VINH

HÀ NỘI, 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực.
NGƯỜI CAM ĐOAN

Phan Minh Đức


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................ 1

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ÁP DỤNG ÁN
TREO ................................................................................................................ 8

1.1. Những vấn đề lý luận về áp dụng án treo .............................................. 8
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về áp dụng án treo ............ 25
1.3. Các yếu tố tác động đến áp dụng án treo ............................................. 40
Chương 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG ÁN TREO TẠI TỈNH BẮC NINH........ 46
2.1. Tổng quan tình hình xét xử các vụ án hình sự tại tỉnh Bắc Ninh ........ 46
2.2. Thực trạng áp dụng án treo tại tỉnh Bắc Ninh.........................................
48
Chương 3. SỰ CẦN THIẾT VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG
ĐÚNG ÁN TREO ............................................................................................ 66


3.1. Sự cần thiết của việc áp dụng đúng án treo ......................................... 66
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng án treo ...................................... 68
KẾT LUẬN .................................................................................................... 81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 84


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

HĐXX

Hội đồng xét xử

TAND

Tòa án nhân dân

PLHS

Pháp luật hình sự

TTHS


Tố tụng hình sự


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1 Thống kê số vụ án hình sự đã xét xử trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh từ
năm 2015 đến hết năm 2019 ................................................................. 47
Bảng 2.2. Thống kê số lượng bị cáo được hưởng án treo trên địa bàn tỉnh Bắc
Ninh từ năm 2015 đến hết năm 2019.................................................... 49
Bảng 2.3. Bảng thống kê số bị cáo được cấp phúc thẩm xét xử giữ nguyên
hình phạt nhưng cho hưởng án treo từ năm 2015 đến hết năm 2019 ... 52


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong luật hình sự nước ta, chế định án treo là chế định ra đời từ rất sớm.
Trải qua nhiều thời kỳ, chế định án treo luôn thể hiện được vị trí, vai trò hết
sức quan trọng trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm đồng thời có
tác dụng khuyến khích người bị kết án tự có ý thức cải tạo bản thân để trở
thành công dân có ích cho xã hội.
Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 “Về một số nhiệm vụ trọng tâm
công tác tư pháp trong thời gian tới” và Nghị quyết 49/NQ-TW ngày
02/6/2005
“Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” của Bộ Chính trị ra đời trở
thành định hướng chiến lược cho công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta. Nghị
quyết này đề cập nhiều nội dung khác nhau của công tác tư pháp trong đó có
nội dung giảm hình phạt tù, “đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện
trong việc xử lý người phạm tội”. Đến nay, chế định án treo tiếp tục được các
nhà lập pháp quy định tại Điều 65 BLHS 2015 sửa đổi bổ sung 2017 trên sở
kế thừa phát triển qua các giai đoạn, đặc biệt từ BLHS 1985, BLHS 1999. Có
thể nói đây là quy định tiến bộ và mang tính nhân đạo của Nhà nước ta. Án

treo, là một biện pháp không thể thiếu trong hệ thống biện pháp tác động về
hình sự của nhà nước ta. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn
có hiện
tượng tòa án địa phương áp dụng chế định án treo không có căn cứ và không
đúng pháp luật. Trên thực tế, vẫn có tình trạng một số người phạm tội không
đủ điều kiện cho hưởng án treo nhưng Tòa án lại cho hưởng án treo, ngược lại
có những trường hợp đủ điều kiện hưởng án treo lại không được hưởng. Điều
đó đã làm mất đi ý nghĩa của án treo, mục đích răn đe, giáo dục, phòng ngừa
chung và phòng ngừa riêng kém hiệu quả dẫn đến việc bản án do tòa án tuyên
không được sự đồng tình của dân, giảm hiệu quả đấu tranh phòng chống tội
phạm. BLHS 2015 sửa đổi bổ sung 2017 có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2018;
1


hiện nay đã hơn 1 năm áp dụng các quy định của BLHS 2015, do đó cần có sự
nghiên cứu quá trình áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự nói chung và
quy phạm về án treo nói riêng trong thực tiễn để có những nhận định, đánh giá
đúng đắn, từ đó đưa ra những giải pháp nâng cao chất lượng áp dụng án treo.
Cùng với quá trình chuyển đổi nền kinh tế của đất nước, tình hình kinh tế
ở Bắc Ninh cũng có nhiều thay đổi. Là một tỉnh được tách ra từ tỉnh Hà Bắc
cũ,
được tái lập theo nghị quyết của Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 10 ngày
06/11/1996, với đặc điểm là một tỉnh nằm ở vùng đồng bằng Bắc bộ, có nhiều
làng nghề truyền thống, giao thông thuận lợi, Bắc Ninh thu hút được rất nhiều
nhà đầu tư nước ngoài đến đầu tư. Nhiều khu công nghiệp đã được xây dựng
và đi vào hoạt động, ngoài ra còn có các cụm công nghiệp vừa và nhỏ và là
nơi tập trung các làng nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống. Tuy nhiên,
cùng với quá trình phát triển kinh tế nói trên thì bên cạnh đó các loại tội phạm
cũng có xu hướng ngày một gia tăng, đây là vấn đề được sự quan tâm của các
cấp, các ngành trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Các cơ quan bảo vệ pháp luật như

Toà án, Viện kiểm sát, Công an là những cơ quan được giao nhiệm vụ trực
tiếp đấu tranh với các loại tội phạm. Trong đó Tòa án có vị trí trung tâm và
xét xử là hoạt động trọng tâm trong toàn bộ quá trình tố tụng, là giai đoạn
quan trọng quyết định tính đúng đắn, tính khách quan trong việc giải quyết
vụ án đúng
người đúng tội đùng pháp luật. Tòa án cũng là cơ quan duy nhất được quyền
áp dụng hay không áp dụng án treo đối với người phạm tội.
Xuất phát từ những phân tích về lý luận và thực tiễn trên, việc nghiên
cứu hoàn thiện cơ sở lý luận và thực tiễn về áp dụng án treo tại phiên tòa đóng
vai trò quan trọng. Hơn nữa, từ khi có BLHS mới, chưa có nhiều công trình
nghiên cứu về vấn đề này đặc biệt là trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Trước yêu


cầu đó, tác giả đã chọn đề tài: “Áp dụng án treo từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh”
để làm để tài luận văn Thạc sĩ.


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong suốt thời gian qua, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học
về án treo. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu như:
* Giáo trình: Giáo trình Luật hình sự của Khoa Luật - Đại học Quốc gia
Hà Nội, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội;
Giáo trình luật hình sự Việt Nam phần chung của Học viện khoa học xã hội;
Giáo trình luật hình sự Việt Nam phần chung của Học viện Tư pháp; Giáo
trình Luật hình sự phần chung cửa trường Đại học Cần Thơ… Trong các giáo
trình Luật hình sự này chế định án treo mới chỉ đề cập những vấn đề cơ bản
khái
quát.
* Sách, báo, tạp chí: Nguyễn Văn Nghĩa (2006), Thi hành hình phạt tù
cho

hưởng án treo và hình phạt cải tạo không giam giữ trước yêu cầu của cải cách
tư pháp, Tạp chí Dân chủ và pháp luật; Đỗ Văn Chỉnh (2007), Án treo và thực
tiễn áp dụng án treo, Tạp chí Tòa án nhân dân; Lê Đăng Doanh (2011), Án
treo
- một số vấn đề cần nghiên cứu trao đổi và hướng dẫn thi hành, Tạp chí Tòa án
nhân dân; GS.TS Lê Cảm (2005), Chế định án treo và mô hình lý luận cơ bản
của nó trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Tòa án nhân dân; Phạm Văn Báu
(2007), Chế độ thử thách của án treo trong luật hình sự Việt Nam , Tạp chí
Luật học; Đỗ Văn Chỉnh (2013), Án treo và thực tiễn, Tạp chí Tòa án nhân
dân; Phạm Minh Tuyên (2017), Án treo – từ thực tiễn thi hành Nghị
quyết số
01/2013 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC, Tạp chí Tòa án nhân dân; Trần
Văn Biên và Đinh Thế Hưng (chủ biên), Bình luận khoa học BLHS năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017).
* Luận văn thạc sĩ: Nguyễn Thị Thu Phương (2011), Chế định án treo
trong Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999 - Những vấn đề lý luận và thực


tiễn, Luận văn thạc sĩ trường Đại học luật Hà Nội; Trần Quang Hiếu (2017),
Áp dụng án treo theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình,
Luận


văn thạc sĩ Học viện khoa học xã hội; Nguyễn Thanh Tùng (2010), Áp dụng
án treo trong hoạt động xét xử trên địa bàn Hà Tĩnh, Luận văn thạc sĩ Viện
Nhà
nước và Pháp luật; Phạm Đức Trung (2014), Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, Luật
văn thạc sĩ Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội.
Các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến chế định án treo ở khía

cạnh tổng quát trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật như Bộ luật hình sự
năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009); Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP ngày
06 tháng 11 năm 2013 Nghị quyết hướng dẫn áp dụng điều 60 của Bộ luật
hình sự về án treo; Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tuy nhiên, đến nay, chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến chế định án
treo theo hướng dẫn tại Nghị quyết số: 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5
năm
2018 của HĐTP TANDTC hướng dẫn áp dụng điều 65 của Bộ luật hình sự về
án treo; và không có công trình nghiên cứu khoa học nào nghiên cứu một cách
cụ thể, chuyên sâu tại địa tỉnh Bắc Ninh. Do vậy, đề tài luận văn “Áp dụng án
treo từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” đảm bảo tính mới và không trùng lặp với các
công trình nghiên cứu khoa học có liên quan.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này, tác giả hướng tới mục đích làm rõ những vấn đề
lý luận chung về chế định án treo, áp dụng án treo; các giai đoạn áp dụng án
treo; Phân tích nội dung và các điểm mới quy định về án treo theo quy định
của BLHS 2015 sửa đổi bổ sung 2017 và thực tiễn áp dụng chế định này trên
địa bàn tỉnh Bắc Ninh; Từ đó đưa ra những giải pháp bảo đảm áp dụng đúng
án treo trong thực tiễn xét xử.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu


Nhằm đáp ứng mục đích nghiên cứu nêu trên và có cơ sở chứng minh các
luận điểm bảo vệ đề ra, luận văn thực hiện các nhiệm vụ chính sau:
- Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp luật về áp dụng án
treo.
- Phân tích thực tiễn áp dụng án treo tại tỉnh Bắc Ninh.
- Đưa ra các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng án treo từ thực tiễn tỉnh Bắc
Ninh

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là :
- Những vấn đề lý luận và pháp luật về áp dụng án treo
- Thực tiễn hoạt động áp dụng đúng chế định án treo trong xét xử các vụ
án hình sự thông qua thực tiễn tại tỉnh Bắc Ninh.
- Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng án treo từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Áp dụng án treo là vấn đề lớn, bao gồm nhiều nội
dung nên trong phạm vi của một Luận văn thạc sĩ không thể xem xét và giải
quyết hết mọi vấn đề mà chỉ tập trung nghiên cứu chính đến vấn đề áp dụng án
treo trong phạm vi các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành.
- Phạm vi về không gian: việc áp dụng án treo tại TAND hai cấp tỉnh Bắc
Ninh.
- Phạm vi về thời gian : giai đoạn 05 năm từ năm 2015 đến năm 2019.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Để hoàn thành luận văn, tác giả đã nghiên cứu dựa trên phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đường lối, chính
sách


của Đảng Cộng sản Việt Nam về pháp luật, về cải cách tư pháp trong sự
nghiệp
đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: Phương
pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp quy nạp, diễn giải; phương pháp lịch
sử và logic; phương pháp thống kê xã hội học. Bên cạnh đó tác giả còn áp
dụng các kỹ năng về phân tích số liệu, so sánh, trao đổi ý kiến với những

người làm công tác thực tiễn lâu năm để làm sáng tỏ các vấn đề về áp dụng án
treo.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Trên cơ sở kế thừa các công trình khoa học về chế định án treo đã được
công bố trước đây, Tác giả tiếp tục nghiên cứu một cách hệ thống về những
vấn đề lý luận về án treo, áp dụng án treo nhằm mục đích nâng cao nhận thức
về mặt lý luận một cách thống nhất và có tính khoa học. Luận văn bổ sung vào
cơ sở dữ liệu nghiên cứu, góp phần đa dạng hóa các công trình nghiên cứu về
áp dụng án treo.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Tính đến thời điểm hiện nay, đây là công trình nghiên cứu đầu tiên trên
địa bàn tỉnh Bắc Ninh có sự phân tích một cách chung nhất các văn bản quy
phạm pháp luật hình sự quy định về án treo, bao gồm cả Nghị quyết
02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 hướng dẫn áp dụng Điều 65
của
Bộ luật hình sự về án treo.
- Làm sáng tỏ vấn đề về lý luận và thực tiễn áp dụng quy định về án treo,
là tài liệu tham khảo quan trọng giúp các cơ quan áp dụng pháp luật đặc biệt là
Tòa án nhân dân có cái nhìn một cách tổng quát và toàn diện về chế định này,
góp phần áp dụng thống nhất pháp luật.


7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm phần Mở đầu, phần Kết luận và ba chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về áp dụng án treo
Chương 2. Thực tiễn áp dụng án treo tại tỉnh Bắc Ninh
Chương 3. Sự cần thiết và các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng án treo



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ
ÁP DỤNG ÁN TREO
1.1.

Những vấn đề lý luận về áp dụng án treo

1.1.1. Những vấn đề lý luận về án treo
1.1.1.1. Khái niệm
Án treo là chế định hình sự ra đời từ rất sớm, mặc dù quy định về án treo
của mỗi nước khác nhau nhưng nhìn chung chế định án treo trong luật hình sự
của các nước vẫn là biện pháp thể hiện sự khoan hồng, nhân đạo trong quá
trình xử lý tội phạm. Quy định về án treo trong Luật hình sự của nhiều nước
đều có
điểm chung về các nội dung liên quan đến bản án cho bị cáo được hưởng treo,
các điều kiện hoãn hoặc miễn thi hành, điều kiện thử thách… [12, tr.6].
Ở Việt Nam, trải qua một quá trình lịch sử phát triển lâu dài của khoa học
hình sự Việt Nam, từ sắc lệnh số 21/SL ngày 14/02/1946 tới nay, tuy có nhiều
cách hiểu khác nhau. Ngoài việc hiểu án treo là biện pháp miễn chấp hành
hình phạt tù có điều kiện, theo một số quan điểm, án treo còn được hiểu là
biện pháp hoãn hình phạt tù có điều kiện hoặc tạm đình chỉ việc thi hành án.
Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau nhưng án treo chưa bao giờ được coi là
hình phạt trong hệ thống hình phạt ở nước ta. Trong luật hình sự Việt Nam
chế định án treo được quy định cụ thể lần đầu tiên trong BLHS năm 1985,
tiếp đó là BLHS năm 1999 và nay là BLHS năm 2015.
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về chế định án treo. Theo cuốn từ điển
Luật học của Viện khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp thì: “Án treo là biện pháp
miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện” [5]. Khái niệm này chỉ nêu được
bản chất của án treo mà chưa thể hiện đầy đủ các nội dung của chế định này.



Theo tác giả Đinh Văn Quế và theo giáo trình luật hình sự Việt Nam
phần chung của Học viện khoa học xã hội xuất bản năm 2014 thì: “Án treo
là biện


pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được áp dụng đối với người
bị phạt không quá ba năm tù, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và
các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành hình
phạt tù” [42, tr. 451].
Theo quan điểm này tác giả đã nêu được đầy đủ các điều kiện để người bị
kết án được hưởng án treo, tuy nhiên chưa nêu lên được nội dung về thời gian
thử thách và việc vi phạm nghĩa vụ trong thời gian thử thách.
Theo quan điểm của GS.TSKH Lê Văn Cảm: “Án treo là biện pháp miễn
chấp hành hình phạt tù kèm theo một thời gian thử thách nhất định đối với
người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện tội phạm khi có đủ căn cứ và những
điều kiện do pháp luật hình sự quy định” [9, tr.810].
Ở đây, tác giả có đề cập đến nội dung về thời gian thử thách tuy nhiên chỉ
khẳng định “Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù” mà bỏ qua từ
“có điều kiện”.
Theo khoản 1 Điều 65 BLHS năm 2015 thì: “Khi xử phạt tù không quá
ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ,
nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho
hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm và
thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật Thi
hành án hình sự” [34].
Theo Điều 1 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/05/2018 của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của
BLHS về án treo: “Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều
kiện, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội không quá 03 năm, căn cứ

vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không
cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù” [23].


Trên cơ sở các quan điểm trên, tác giả cũng đưa ra quan điểm về chế định
án treo: Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được
áp dụng cho người có đầy đủ những điều kiện do pháp luật hình sự quy định
thì không buộc họ phải chấp hành hình phạt tù, tuy nhiên nếu phạm tội mới
hoặc cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên theo quy định của Luật Thi hành án
hình sự trong thời gian thử thách thì người bị kết án sẽ phải chấp hành hình
phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
1.1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của án treo
Từ khái niệm chung về án treo, đồng thời căn cứ vào các quy phạm về án
treo tại Điều 65 BLHS và thực tiễn áp dụng các quy phạm này, có thể rút ra
nhận xét về đặc điểm của án treo như sau:
Thứ nhất, án treo không phải là hình phạt mà là một biện pháp miễn chấp
hành hình phạt tù có điều kiện. Phải khẳng định, án treo chỉ là một trong các
biện pháp cưỡng chế về hình sự nhưng nghiêm khắc hơn so với miễn hình
phạt và biện pháp tư pháp. PLHS Việt Nam quy định bảy hình phạt chính
trong đó có hình phạt tù, do đó không thể đánh đồng giữa án treo và hình
phạt. Trong thực tế, có những trường hợp bị cáo bị án sơ thẩm phạt tù giam,
bị cáo kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt là hưởng án treo. Ở đây
cần xác định rõ và giải thích nội dung kháng cáo là xin giảm nhẹ hình phạt
hay xin hưởng án treo hay cả giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo bởi lẽ án
treo chỉ là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù khi người phạm tội đó có
đủ các điều kiện
được hưởng án treo theo quy định của PLHS hiện hành.
Thứ hai, để được hưởng án treo người bị kết án phải đáp ứng đủ căn cứ và
điều kiện do luật định. Cụ thể, chỉ khi nào người bị kết án có đủ căn cứ và
những điều kiện do PLHS quy định thì người đó mới được cho hưởng án treo

hay nói cách khác là cho hưởng biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có
điều kiện này.


Thứ ba, người được hưởng án treo bị ấn định một thời gian thử thách
nhất định. Khi quyết định cho người phạm tội được hưởng án treo, Tòa án bao
giờ cũng phải tuyên trong bản án việc ấn định thời gian thử thách đối với
người bị kết án. Cụ thể, thời gian thử thách sẽ đươc tính bằng hai lần mức
hình phạt tù nhưng thời gian này không được dưới 1 năm và không được quá
5 năm.
Thứ tư, người được hưởng án treo bị giám sát, giáo dục trong thời gian
thử thách. Khi cho người phạm tội được hưởng án treo, trong bản án phải
tuyên việc giao bị cáo cho cơ quan tổ chức nào giám sát, giáo dục trong thời
gian thử thách. Trong thời gian thử thách người bị kết án phải chịu sự giám
sát, giáo dục của cơ quan tổ chức được Tòa án giao trách nhiệm giám sát, giáo
dục (thường là Ủy ban nhân dân nơi bị cáo cư trú), đồng thời trong thời gian
thử thách này, người bị kết án sẽ phải có trách nhiệm chấp hành một số nghĩa
vụ nhất định do pháp luật quy định. Người bị kết án sẽ phải chịu hậu quả pháp
lý hình sự khi phạm tội mới trong thời gian thử thách, cụ thể là hình phạt tù
của bản án cho hưởng treo này sẽ chuyển thành án giam và tổng hợp với hình
phạt của bản án mới. Ngoài ra, trong thời gian thử thách, nếu người được
hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên theo quy định của Luật Thi
hành án hình sự, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành
hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Tóm lại, về đặc điểm của án treo, án treo là biện pháp miễn chấp hành
hình phạt tù có điều kiện. Để được hưởng án treo người bị kết án phải đáp ứng
đủ căn cứ và điều kiện do pháp luật quy định, người được hưởng án treo bị ấn
định một thời gian thử thách nhất định và phải chịu sự bị giám sát, giáo dục
trong thời gian thử thách. Điều kiện ràng buộc để người bị kết án được hưởng
án treo là việc Tòa án định cho họ một thời gian thử thách nhất định, nếu trong

thời gian thử thách đó mà họ phạm tội mới hoặc vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở


lên theo quy định của Luật thi hành án hình sự thì sẽ phải chịu hậu quả pháp lý
hình sự theo quy định.
1.1.2. Khái quát quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về án treo
qua các giai đoạn
1.1.2.1. Giai đoạn từ sau cách mạng tháng tám năm 1945 đến trước khi
ban hành BLHS năm 1985
Lần đầu tiên, chế định Án treo được quy định tại Sắc lệnh số 33C ngày
13/9/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa. Cụ thể, tại khoản 4 Điều 4 của Sắc lệnh quy định: “Nếu có những lý do
chính đáng khoan hồng vì ít tuổi, vì lầm lẫn... thì Tòa án có thể cho tội nhân
được hưởng án treo”. Về thời gian thử thách: “Nếu trong năm năm, bắt đầu
từ ngày tuyên án, tội nhân không bị Tòa án quân sự làm tội một lần nữa về
việc mới, thì bản án đã tuyến sẽ hủy đi, coi như là không có, nếu trong hạn
năm năm ấy, tội nhân bị kết án một lần nữa trước Tòa án quân sự thì bản án
treo sẽ đem ra thi hành”.
Sau đó, chế định án treo được thay thể bằng Sắc lệnh số 21/SL ngày
14/02/1946 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Tại Điều 10 của
Sắc lệnh quy định: “Khi bị phạt tù, Tòa án có thể cho tội nhân được hưởng án
treo nếu có những lý do đáng khoan hồng, bản án xử án treo sẽ tạm đình chỉ
việc thi hành nếu trong 5 năm bắt đầu từ ngày tuyên, tội nhân không bị Tòa
án quân sự làm tội một lần nữa về việc mới thì bản án đã tuyên sẽ bị hủy đi,
coi như không có. Nếu trong 5 năm ấy tội nhân lại bị kết án một lần nữa trước
một Tòa án quân sự thì bản án sẽ đem thi hành”.
Theo Sắc lệnh thì án treo chỉ được áp dụng đối với người bị kết án tù,
đồng thời khi xét thấy có lý do đáng khoan hồng Tòa án cho tội nhân được
hưởng án treo. Bản án này được tạm đình chỉ thi hành án trong 5 năm kể từ
ngày tuyên án nếu như tội nhân không phạm tội mới. Nếu vi phạm mà bị đưa

ra xét xử thì


bản án cũ sẽ được đưa ra thi hành, ngược lại nếu như tội nhân chấp hành tốt,
không vi phạm pháp luật tới mức phải đưa ra xét xử thì bản án đã tuyên coi
như không có.
Tuy nhiên, hạn chế của Sắc lệnh này đó là việc có cho hưởng án treo tùy
thuộc vào “có lý do đáng khoan hồng” sẽ dẫn đến việc hiểu và vận dụng có
nhiều khó khăn, dễ áp dụng một cách tùy tiện, không đảm bảo được sự công
bằng và tính nghiêm minh của pháp luật. Hơn nữa việc quy định thời gian thử
thách của án treo một mức là 5 năm mà không phụ thuộc vào mức hình phạt tù
sẽ không đảm bảo công bằng với các loại hành vi và mức độ phạm tội khác
nhau. Một hạn chế nữa của Điều 10 Sắc lệnh không quy định việc giao người
bị phạt án treo cho ai giám sát theo dõi quản lý giáo dục trong thời gian thử
thách, như vậy dễ dẫn tới việc vận dụng khác nhau ở mỗi địa phương, bản án
tuyên ra sẽ không đạt được mục đích khoan hồng giáo dục người phạm tội.
Khắc phục những hạn chế nêu trên, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành
dự thảo Thông tư 2308/NCPL ngày 01/12/1961 về việc áp dụng chế định án
treo theo đó án treo là: “Một biện pháp hoãn hình có điều kiện, áp dụng chủ
yếu đối với kẻ phạm tội nhẹ, bản chất không nguy hiểm, xét không cần thiết
phải thi hành ngay án phạt tù, nhằm mục đích khuyến khích họ tự nguyện lao
động cải tạo với sự giúp đỡ tích cực của xã hội, đồng thời cảnh cáo họ nếu
còn tiếp tục phạm tội trong thời gian thử thách, thì tùy trường hợp sẽ buộc
phải chấp hành án cũ. Ngược lại, nếu trong thời gian thử thách họ không
phạm tội gì mới, án trước sẽ được xóa bỏ”.
1.1.2.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành BLHS năm 1985 đến trước
BLHS năm 1999
Kế thừa, phát triển quy định về án treo trong giai đoạn trước. Giai đoạn
này chế định án treo được quy định tại Điều 44 BLHS năm 1985 với nội dung
khá toàn diện, cụ thể quy định rõ năm nội dung về án treo như sau:



“1. Khi xử phạt tù không quá năm năm, căn cứ vào thân nhân của người
phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét không cần phải bắt chấp hành hình
phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một
năm đến năm năm.
2. Tòa án giao người bị án treo cho cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã
hội nơi người đó làm việc hoặc thường trú để theo dõi, giáo dục.
3. Người bị án treo có thể phải chịu thêm một số hình phạt bổ sung như
phạt tiền, cấm đảm nhiệm những chức vụ, làm những nghề hoặc công việc
nhất định quy định ở Điều 23 và Điều 28.
4. Nếu người bị án treo đã chấp hành được một nửa thời gian thử thách
và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm theo
dõi, giáo dục, Tòa án có thể rút ngắn thời gian thử thách.
5. Nếu trong thời gian thử thách, người bị án treo phạm tội mới và bị xử
phạt tù thì Tòa án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước
và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định ở khoản 2 Điều 42”.
[32].
Thực tiễn áp dụng án treo đã cho thấy quy định về án treo tại Điều 44
BLHS năm 1985 có nhiều bất cập nên nhà làm luật đã sửa đổi bổ sung như
sau: Lần thứ nhất sửa đổi, bổ sung vào ngày 28/12/1989. Khoản 5 Điều
44 Bộ
luật hình sự chỉ quy định chung là phạm tội mới trong thời gian thử thách và
tội mới phạm không phân biệt do lỗi vô ý hay lỗi cố ý nên khoản 1 Điều 44
BLHS năm 1985 được sửa đổi, bổ sung như sau: “Nếu trong thời gian thử
thách, người bị kết án treo bị phạm tội mới do vô ý và bị xử phạt tù hoặc
phạm tội mới do cố ý thì Tòa án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt
của bản án trước và tổng hợp hình phạt của bản án mới theo quy định ở
khoản 2 Điều
42”.



Lần thứ hai sửa đổi, bổ sung vào ngày 22/12/1992, khoản 1 Điều 44
BLHS có nội dung: “Khi xử phạt không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân
của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt
chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian
thử thách từ một năm đến năm năm”. Có thể thấy một thay đổi lớn là quy
định giảm mức hình phạt tù cho hưởng án treo đã giảm từ năm năm xuống ba
năm.
Ngoài ra, Toà án nhân dân tối cao và liên ngành còn có các văn bản
hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật về án treo như: Nghị quyết số
02/HĐTP- TANDTC/QĐ ngày 05/01/1986 của Hội đồng thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự;
Thông tư số
01/NCPL ngày 06/4/1988 của Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn bổ sung về
án treo; Thông tư liên ngành số 01/TTLN-90 ngày 01/02/1990 của Toà án
nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ Nội vụ - Bộ Tư pháp
hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Bộ luật hình sự.
1.1.2.3. Giai đoạn từ khi ban hành BLHS năm 1999 đến trước khi ban
hành BLHS năm 2015
Căn cứ theo BLHS năm 1999, chế định án treo được quy định tại Điều 60
như sau:
“1. Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người
phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành
hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ
một năm đến năm năm.
2. Trong thời gian thử thách, Toà án giao người được hưởng án treo
cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi
người đó thường trú để giám sát và giáo dục.



3. Người được hưởng án treo có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt
tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định
theo quy định tại Điều 30 và Điều 36 của Bộ luật này.
4. Người được hưởng án treo đã chấp hành được một phần hai thời gian
thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách
nhiệm giám sát và giáo dục, Toà án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử
thách…”
Như vậy quy định về án treo tại Điều 60 vẫn giữ nguyên 5 khoản của
Điều
44 BLHS năm 1985 nhưng đã được sửa đổi, bổ sung một số cụm từ: “theo
dõi” thay bằng “giám sát”, thay “người bị án treo” bằng cụm từ “người được
hưởng án treo”. Tại khoản 5 Điều 60 đã sửa cụm từ “người bị án treo phạm tội
mới và bị phạt tù” thành “đối với người được hưởng án treo mà phạm tội mới
trong thời gian thử thách”.
Ngày 02/10/2007, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban
hành Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP hướng dẫn thực hiện Điều 60 BLHS
năm 1999 về án treo. Đến ngày 06/11/2013, Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân
dân tối cao ban hành Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều
60 BLHS về án treo, có hiệu lực thi hành vào ngày 25/12/2013. Nghị quyết
này đã quy định cụ thể, chi tiết, chặt chẽ hơn những điều kiện, trường hợp
được hưởng án treo nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng chế định án
treo, đáp ứng được yêu cầu cấp bách trong công tác đấu tranh phòng, chống
tội phạm trong tình hình thực tế.
1.1.2.4. Giai đoạn từ khi ban hành BLHS năm 2015 đến nay
Chế định án treo theo Điều 65 BLHS 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 đã
có nhiều thay đổi. So sánh với Điều 60 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung
năm
2009) thì chế định về án treo quy định tại Điều 65 BLHS năm 2015 được nhà



×