Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

LV Thạc sỹ_một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách thuế thu nhập cá nhân ở việt nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (484.03 KB, 106 trang )

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC VIẾT TẮT
...........................................................................................................................2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của tôi. Số
liệu được nêu trong luận văn là trung thực và có trích nguồn. Kết quả
nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nghiên cứu nào khác.


DANH MỤC VIẾT TẮT
-

TNĐVNCTNC: Thu nhập đối với người có thu nhập cao.
TNC: Thu nhập cao
TNCN: Thu nhập cá nhân.
NSNN: Ngân sách Nhà nước.
TNDN: Thu nhập doanh nghiệp.
PL-UBTVQH: Pháp lệnh-Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
BC-UBTVQH12: Báo cáo-Uỷ ban thường vụ Quốc hội khoá 12.
TT-BTC: Thông tư-Bộ Tài chính.
VN: Việt Nam.
TNTT: Thu nhập tính thuế.
NXB: Nhà xuất bản.
TNBQ: Thu nhập bình quân.
BTLTTP: Biểu thuế lũy tiến từng phần.



DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
...........................................................................................................................2


5

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang đi trên con đường đổi mới và hội nhập nền kinh tế thế
giới, chúng ta đã ký kết các hiệp định thuế quan AFTA, hiệp định thương mại
Việt-Mỹ, đồng thời là thành viên chính thức của WTO thì những biến đổi về
cơ cấu thuế và nguồn thu ngân sách là điều không thể tránh khỏi. Nhận thức
được điều đó, Việt Nam đang từng ngày đổi mới hệ thống thuế để góp phần
phát triển kinh tế-xã hội theo mục tiêu mà Nhà nước đề ra.
Thuế là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, điều hòa thu nhập, thực
hiện công bằng xã hội và là công cụ chủ yếu huy động nguồn lực tài chính cho
Nhà nước. Trong điều kiện kinh tế Việt Nam chưa phát triển thì ngoài mục
đích huy động nguồn lực tài chính cho Nhà nước, thuế còn có ý nghĩa điều tiết
một phần thu nhập đối với người có thu nhập cao cho NSNN đảm bảo công
bằng xã hội. Thuế thu nhập cá nhân là một trong những chính sách đạt được
mục tiêu trên góp phần hình thành các quỹ tiền tệ tập trung cho Nhà nước.
Sau hơn 20 năm thực hiện thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao
đã bộc lộ một số tồn tại, chưa thực sự trở thành một sắc thuế đem lại nguồn
thu quan trọng cho NSNN, chưa hướng vào việc phân phối lại thu nhập từ
người giàu sang người nghèo mà trên thực tế chỉ thu được vào những người
mà họ thực sự không thể trốn thuế được
Để hướng đến một hệ thống thuế hiện đại, phù hợp với thông lệ quốc tế,
một chính sách thuế TNCN tốt, có diện chịu thuế rộng và độ giao động của
biên độ thuế suất vừa phải nhằm tăng sự tuân thủ trong việc thực hiện nghĩa
vụ thuế của đối tượng nộp thuế, thì việc xem xét lại chính sách thuế thu nhập

cao một cách cẩn trọng để đưa ra các giải pháp mà từ đó xây dựng một chính
sách thuế theo đúng nghĩa là thuế TNCN. Vì vậy pháp lệnh thuế TNC được
thay thế bắng Luật thuế TNCN, thuế TNCN không phải là sắc thuế mới đối
với Việt Nam. Tuy nhiên sau thời gian áp dụng từ 01/01/1999, Luật thuế
TNCN đã bộc lộ một số hạn chế do mức thu nhập của người dân ngày càng
cải thiện, đi kèm với nó là sự gia tăng của lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng tăng


6
cao thì mức giảm trừ gia cảnh đối với bản thân người nộp thuế là
4.000.000đ/người/tháng, đối với người phụ thuộc là 1.600.000đ/người/tháng
không đủ đảm bảo nhu cầu thiết yếu về đời sống của họ. Đồng thời Luật thuế
TNCN cũng chưa kiểm soát được các khoản thu nhập phát sinh, nhiều khoản
thu nhập miễn thuế chưa hợp lý, tình trạng kê khai, trốn thuế vẫn tồn tại làm
thất thu NSNN. Do đó, Luật thuế TNCN cần được hoàn thiện để đảm bảo tính
công bằng xã hội và tạo lập được nguồn thu tăng trưởng và bền vững cho
NSNN từ sắc thuế này.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài.
Xuất phát từ thực tế của Việt Nam, góp phần hoàn thiện Luật thuế thu
nhập cá nhân và để chống lại nạn thất thu thuế thu nhập cá nhân, tăng nguồn
thu cho ngân sách nhà nước, nên tôi đã chọn
“Một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách thuế Thu nhập cá
nhân ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế” làm đề tài Luận
văn Thạc sĩ kinh tế.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi của đề tài này, tôi tập trung phân tích, đánh giá thực
trạng việc áp dụng Pháp lệnh thuế TNĐVNCTNC và Luật thuế TNCN ở nước
ta từ năm 1991 đến nay, đồng thời có tham khảo việc áp dụng thuế Thu nhập
cá nhân ở một số quốc gia trên thế giới. Từ đó đưa ra những vấn đề cần hoàn
thiện và xây dựng một chính sách thuế Thu nhập cá nhân sao cho phù hợp với

điều kiện kinh tế xã hội tại Việt Nam trong thời gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Trên cơ sở lý luận về thuế TNĐVNCTNC và thuế TNCN, bằng phương
pháp thực nghiệm từ thực tế qua thống kê, phân tích, tổng hợp để đánh giá
thực trạng áp dụng thuế TNCN tại Việt Nam. Từ đó, tìm ra nguyên nhân tồn
tại của các hạn chế và đưa ra các giải pháp.
5. Kết cấu của luận văn
- Lời cam đoan.
- Mục lục.
- Danh mục viết tắt.
- Danh mục bảng biểu, sơ đồ.


7
- Mở đầu.
Chương 1: Lý luận chung về thuế Thu nhập cá nhân.
Chương 2: Thực trạng về chính sách thuế Thu nhập cá nhân ở Việt
Nam.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách thuế TNCN ở
Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Kết luận.
- Danh mục tài liệu tham khảo.
- Phụ lục đính kèm.


8

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
1.1 Lý luận chung về Thu nhập và thuế Thu nhập cá nhân.

1.1.1 Khái niệm thu nhập, phân loại thu nhập.
1.1.1.1 Khái niệm thu nhập.
Khái niệm về thu nhập được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau:
Theo Từ điển Tiếng Việt năm 2008 của Trung tâm từ điển học
VIETLEX, NXB Đà Nẵng “thu nhập là tổng thể nói chung các khoản thu
được trong một khoảng thời gian nhất định, thường tính theo tháng, năm”.
Trong cuốn Kinh tế học II của PAUL A. SAMUELSON và WILLIAM
D. NORDHAUS, các nhà kinh tế học định nghĩa “thu nhập là phần thu được

của một cá nhân hay một nước về tiền lương, tiền lăi cho vay, tiền lăi cổ phần
và những khoản thu nhập khác”.
Quan điểm của một số nhà nghiên cứu Việt Nam “thu nhập là tổng giá
trị tài sản và của cải được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ mà chủ thể nào đó
trong nền kinh tế tạo ra và nhận được từ các nguồn lao động, tài sản hay đầu
tư thông qua quá trình phân phối tổng sản phẩm xă hội và thu nhập quốc dân
trong một khoảng thời hạn nhất định”.
Từ các khái niệm trên cho thấy đặc điểm của thu nhập
- Thu nhập luôn gắn với một chủ thể nhất định trong nền kinh tế, xã hội
thể hiện tính sở hữu của thu nhập.
- Việc xác định thu nhập của các chủ thể khác nhau trong một thời gian
nhất định được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ – là hình thức thông qua đó
biết được tổng thu nhập các nguồn khác nhau của một cá nhân hay một pháp
nhân.
- Thu nhập được hình thành thông qua quá trình phân phối và phân
phối lại thu nhập quốc dân, do thị trường và Nhà nước thực hiện.
Khái niệm về thu nhập được tổng hợp như sau:
Thu nhập là các khoản thu dưới dạng tiền tệ, hiện vật hoặc dưới các
hình thức lợi ích mang tính chất kinh tế khác nhau mà cá nhân nhận được
hoặc tạo ra thông qua hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, từ lao



9
động, từ quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản, từ quà biếu…hoặc từ các
khoản thu nhập hợp pháp khác.
1.1.1.2 Phân loại thu nhập.
+ Phân loại theo nguồn phát sinh thu nhập.
Thu nhập từ kinh doanh là thu nhập có được từ hoạt động sản xuất, kinh
doanh trong các lĩnh vực.
Thu nhập từ tiền lương, tiền công là các khoản thu nhập người lao động
nhận được từ người sử dụng lao động dưới các hình thức bằng tiền hoặc
không bằng tiền.
Thu nhập từ đầu tư vốn là khoản thu nhập nhận được từ hoạt động cho
cơ sở sản xuất, kinh doanh vay, mua cổ phần hoặc góp vốn sản xuất, kinh
doanh dưới các hình thức.
Thu nhập từ chuyển nhượng vốn là khoản tiền lãi nhận được từ việc
chuyển nhượng vốn của cá nhân.
Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản là khoản thu nhập nhận được
từ việc chuyển nhượng bất động sản.
Thu nhập từ trúng thưởng là các khoản tiền hoặc hiện vật mà cá nhân
nhận được dưới các hình thức trúng thưởng.
Thu nhập từ bản quyền là thu nhập nhận được khi chuyển nhượng,
chuyển giao quyền sử dụng các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ theo quy
định của Luật Sở hữu trí tuệ; thu nhập từ chuyển giao công nghệ theo quy
định của Luật Chuyển giao công nghệ.
Thu nhập từ nhượng quyền thương mại là các khoản thu nhập mà cá
nhân nhận được từ các hợp đồng nhượng quyền thương mại (nhượng quyền
thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép và
yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ theo các điều kiện của bên nhượng quyền), bao gồm cả việc nhượng
lại quyền thương mại theo quy định của pháp luật về nhượng quyền thương

mại.
Thu nhập từ nhận thừa kế là khoản thu nhập mà cá nhân nhận được
theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật về tài sản thừa kế đối với các
loại tài sản được thừa kế.


10
Thu nhập từ nhận quà tặng là khoản thu nhập của cá nhân nhận được từ
các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đối với các tài sản nhận được.
+ Phân loại theo tần suất phát sinh thu nhập:
Thu nhập thường xuyên: là các khoản thu nhập phát sinh thường xuyên,
có tính chất đều đặn và ổn định trong năm và có thể dự tính được, bao gồm:
Các khoản thu nhập dưới các hình thức: tiền lương, tiền công, tiền thù lao.
Các khoản thu nhập của các cá nhân do tham gia hoạt động sản xuất kinh
doanh.
Thu nhập không thường xuyên: là các khoản thu nhập phát sinh theo
từng lần, từng đợt riêng lẻ, không có tính chất đều đặn, bao gồm: Thu nhập từ
đầu tư vốn; thu nhập từ bản quyền bao gồm: thu nhập nhập từ chuyển giao
công nghệ và chuyển quyền sở hữu trí tuệ; thu nhập từ chuyển nhượng vốn,
chứng khoán, chuyển nhượng bất động sản; thu nhập về nhận thừa kế, quà
biếu, quà tặng bằng tiền hoặc hiện vật, trúng thưởng…
+ Phân loại theo phạm vi lãnh thổ phát sinh.
Thu nhập phát sinh trong nước: là toàn bộ thu nhập nhận được bằng
tiền hay hiện vật phát sinh tại nước sở tại.
Thu nhập phát sinh ở nước ngoài:là toàn bộ thu nhập nhận được ở
ngoài phạm vi lãnh thổ mà cá nhân hiện đang cư trú.

1.1.2 Khái niệm và các yếu tố cơ bản của thuế TNCN.
1.1.2.1 Khái niệm về thuế TNCN.
Thuế TNCN là một trong các sắc thuế xuất hiện khá sớm trong lịch sử

phát triển thuế khoá của hầu hết các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là những
nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Lần đầu tiên xuất hiện ở Anh vào
năm 1799 thuế TNCN đã được áp dụng như một hình thức thu tạm thời nhằm
mục đích trang trải cho cuộc chiến tranh chống Pháp và được chính thức ban
hành vào năm 1842. Sau đó thuế thu nhập cá nhân đã nhanh chóng được
nghiên cứu, ban hành và áp dụng ở các nước khác như: Nhật (1887), Mỹ
(1913), Pháp (1914), Liên Xô (1922), Trung Quốc được soạn thảo từ năm


11
1914 nhưng đến năm 1936 mới được thi hành và tới năm 1955 mới trở thành
một đạo luật thuế độc lập.
Về nguyên tắc, bất kỳ một thể nhân hay pháp nhân nào khi nhận được
thu nhập dưới bất cứ hình thái nào (hiện vật hay giá trị) và bất kể từ nguồn
nào (do lao động, hay đầu tư…) đều phải trích một phần từ thu nhập đó để
nộp cho Nhà nước dưới dạng thuế thu nhập.
Thuế TNCN là thuế trực thu đánh vào thu nhập chịu thuế có được
của cá nhân trong kỳ tính thuế (thường là một năm).
1.1.2.2 Các yếu tố cơ bản của thuế TNCN.
Đối tượng nộp thuế.
Thuế thu nhập cá nhân không chỉ điều chỉnh đối với cá nhân là công
dân của nước đó mà còn điều chỉnh đối với cả những cá nhân nước ngoài sinh
sống và làm việc trên lãnh thổ của quốc gia đó dựa trên sự phân biệt cá nhân
cư trú và cá nhân không cư trú.
Thông thường, pháp luật các nước xác định cá nhân cư trú là những
người cư trú ở nước đó trong một khoảng thời hạn nhất định (thường là 183
ngày). Nhìn chung, pháp luật các nước quy định cá nhân cư trú phải chịu thuế
trên toàn bộ thu nhập toàn cầu của mình bất kể thu nhập đó kiếm được ở đâu.
Ngược lại, cá nhân không cư trú thường được quy định là những người cư trú
tại nước sở tại dưới 183 ngày. Các cá nhân này thường chỉ phải nộp thuế đối

với những thu nhập có nguồn gốc ở nước sở tại.
Thu nhập chịu thuế.
Thu nhập chịu thuế của một cá nhân trong kỳ tính thuế là toàn bộ thu
nhập cá nhân nhận được sau khi miễn trừ một số khoản chi phí. Do đó, tổng
thu nhập của một đối tượng sẽ không bao gồm những khoản miễn thuế. Để
xác định tổng thu nhập cần phải xác định từng khoản cấu thành tổng thu nhập
theo từng loại thu nhập cụ thể, tức là xem xét tổng thu nhập được hình thành
từ những nguồn nào.
Tuy nhiên, không phải mọi khoản thu nhập của người nộp thuế đều đưa
vào thu nhập chịu thuế. Tùy theo mục đích đánh thuế mà có khoản thu nhập


12
không thuộc diện chịu thuế. Việc xác định những khoản thu nhập nào nằm
trong tổng thu nhập chịu thuế tuỳ vào mục đích đánh thuế của mỗi quốc gia.
Khi xây dựng thu nhập chịu thuế cần phải xem xét các yếu tố sau:
+ Nguồn gốc của thu nhập: thu nhập của mỗi cá nhân có được từ nhiều
nguồn khác nhau, các nguồn thu nhập cơ bản như: từ hoạt động sản xuất kinh
doanh, từ chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng bất động sản, từ lao động, từ
thừa kế, quà tặng… Luật thuế phải xác định thu nhập nào nằm trong tổng thu
nhập chịu thuế để đảm bảo công bằng, vừa thúc đẩy cá nhân làm giàu chính
đáng.
+ Đánh thuế trên cơ sở cư trú hay nguồn phát sinh thu nhập: Tuỳ theo
luật thuế thu nhập cá nhân của mỗi quốc gia, thu nhập chịu thuế được tính dựa
trên cơ sở cư trú hay nguồn phát sinh thu nhập.
Theo cách đánh thuế dựa trên cơ sở cư trú, cá nhân cư trú phải nộp thuế
đối với mọi khoản thu nhập phát sinh tại nước đó và mọi khoản thu nhập từ
khắp nơi trên thế giới, còn cá nhân không cư trú chỉ bị đánh thuế trên phần thu
nhập phát sinh tại nước sở tại. Phương pháp này được hầu hết các quốc gia
trên thế giới áp dụng, tuy nhiên chưa có sự thống nhất giữa các quốc gia về

tiêu chí xác định cư trú và không cư trú.
Đánh thuế dựa trên nguồn phát sinh thu nhập, theo cách đánh thuế này
đối tượng nộp thuế chỉ nộp thuế đối với khoản thu nhập phát sinh ở nước sở
tại mà không phải nộp thuế đối với những khoản thu nhập phát sinh ở nước
ngoài. Khi kinh tế thế giới phát triển với hệ thống công nghệ thông tin hiện
đại, việc xác định nguồn thu nhập phát sinh ở đâu đối với hoạt động đầu tư,
kinh doanh trở nên phức tạp do có các hoạt động mua bán, cung cấp dịch vụ
trên mạng.
Vậy vấn đề đặt ra là việc lựa chọn phương pháp đánh thuế trên cơ sở cư
trú hay nguồn phát sinh thu nhập là điều quan trọng mà các quốc gia cần phải
xem xét vì không những ảnh hưởng đến hệ thống thuế của quốc gia đó mà còn
là yếu tố quan trọng trong tiến trình đàm phán gia nhập kinh tế thế giới, ký kết
các hiệp định tránh đánh thuế trùng lặp giữa các quốc gia.
Thu nhập miễn thuế.


13
Thu nhập miễn thuế là khoản thu nhập không phải tính và nộp thuế
TNCN nhằm thực hiện các mục tiêu xã hội, điều tiết công bằng, hợp lý và
khuyến khích cho đầu tư phát triển.
Tuỳ thuộc vào hoàn cảnh của từng quốc gia mà mỗi quốc gia quy định
khác nhau, hoặc ngay trong một quốc gia nhưng trong từng giai đoạn khác
nhau có thế có các chính sách thu thuế khác nhau để thực hiện những chính
sách kinh tế, xã hội trong từng giai đoạn. Tuy nhiên các khoản thu nhập miễn
thuế thường là các khoản phụ cấp, trợ cấp, các khoản nộp bảo hiểm bắt buộc,
lãi suất từ trái phiếu chính phủ …, hay thu nhập được tạo ra nhằm mục đích
bù đắp khó khăn về đời sống, các khoản bồi thường…
Căn cứ tính thuế: Thu nhập tính thuế và thuế suất.
Thu nhập tính thuế:là phần thu nhập chịu thuế còn lại sau khi đã trừ đi
một số khoản giảm trừ để tạo ra thu nhập đó.

Thuế suất: là mức thu tính trên một đối tượng tính thuế do Nhà nước
quy định. Thuế suất được xây dựng phải phù hợp với khả năng chịu thuế của
các cá nhân, đem lại nguồn thu tối đa cho NSNN, đồng thời là động lực cho
nền kinh tế, khuyến khích các cá nhân nỗ lực làm việc tăng thu nhập.
Thuế suất gồm hai loại: thuế suất tỷ lệ nhất định và thuế suất tỷ lệ luỹ
tiến từng phần. Thông thường, thuế suất tỷ lệ luỹ tiến từng phần được áp dụng
đối với thu nhập thường xuyên như thu nhập từ kinh doanh, tiền lương, tiền
công. Thuế suất tỷ lệ nhất định áp dụng đối với thu nhập không thường xuyên.
Biểu thuế suất luỹ tiến thường có nhiều bậc và tăng dần theo thu nhập,
thu nhập càng cao thì thuế suất càng tăng, số tiền thuế đóng càng nhiều. Điều
này là phù hợp vì ở mức thu nhập càng cao thì độ hữu dụng càng giảm nên số
thuế đóng góp nhiều hơn là hoàn toàn hợp lý, đem lại hiệu quả về mặt phân
phối lại thu nhập và công bằng xã hội. Biểu thuế suất có thể gồm nhiều bậc
hoặc ít bậc thuế suất tuỳ thuộc vào sự lựa chọn của mỗi quốc gia. Khi xây
dựng biểu thuế cần xác định có bao nhiêu bậc thuế là phù hợp.
Phương pháp tính thuế:
Về lý thuyết, tồn tại ba phương pháp tính thuế thu nhập cá nhân:
+ Tính thuế theo từng nguồn hình thành thu nhập


14
Tính thuế theo từng nguồn hình thành thu nhập là phương pháp áp dụng
một thuế suất tương ứng cho từng nguồn thu nhập phát sinh. Tương ứng với
mỗi nguồn thu nhập khác nhau, người ta tính các chi phí được trừ của từng
loại thu nhập (nhiều trường hợp chi phí có thể được trừ hoặc không được trừ)
và gán cho mỗi loại thu nhập đó các mức thuế suất phân biệt. Số thuế phải nộp
là tổng hợp số thuế thu nhập mà người nộp thuế phải nộp theo từng nguồn.
Các nhà kinh tế cho rằng, phương pháp này khó trốn thuế hơn,
vì nó thu “theo sát từng nguồn thu nhập”. Tuy nhiên, tính thuế theo từng
nguồn hình thành thu nhập trên thực tế đã bộc lộ nhiều hạn chế:

Khi chia thu nhập cá nhân thành phần thu nhập để chịu các mức thuế
suất khác nhau không đơn thuần là một công việc phức tạp và khó khăn, mà
điều quan trọng hơn là không áp dụng được triệt để các mức thuế suất luỹ tiến
và các suất miễn giảm thuế thu nhập cá nhân. Nếu có áp dụng mức thuế suất
luỹ tiến thì cũng chỉ đúng cho một số loại thu nhập. Điều đó lại gây bất bình
đẳng giữa các đối tượng nộp thuế có các loại thu nhập khác nhau.
Việc áp dụng thuế suất cho từng loại thu nhập đòi hỏi phải phân loại thu
nhập, trên thực tế công việc này lại tiềm ẩn nhiều khó khăn trong công tác
quản lý. Mặt khác, đó cũng là cơ sở để người nộp thuế dễ dàng trốn thuế. Nếu
ranh giới giữa các loại thu nhập không chính xác thì sẽ mất ý nghĩa công bằng
của thuế thu nhập cá nhân.
+ Tính thuế trên tổng thu nhập
Phương pháp này tiến hành tính thuế trên tổng thu nhập, bao gồm tất
cả các khoản thu nhập nhận được không phân biệt nguồn phát sinh thu nhập
và chi phí tạo ra thu nhập. Tổng thu nhập và tổng chi phí sẽ được xem xét trên
một tổng thể và đánh thuế trên phần chênh lệch giữa tổng thu nhập và tổng chi
phí. Việc phân ra từng loại thu nhập không có ý nghĩa.
Do có ưu điểm là đơn giản và có thể áp dụng được biểu thuế luỹ tiến
khi tính thuế nên phương pháp này đang được áp dụng rất rộng rãi ở các nước
phát triển.
+ Tính thuế hỗn hợp


15
Thuế thu nhập cá nhân có thể được tính theo cách kết hợp cả hai
phương pháp kể trên. Ban đầu tính thuế theo từng nguồn hình thành thu nhập,
sau đó tổng hợp tất cả các nguồn lại và tính trùm lên tổng thu nhập một mức
thuế nữa. Phương pháp này cho phép áp dụng thuế suất luỹ tiến ngoài thuế
suất thông thường tính trên từng loại thu nhập. Cách tính thuế này đảm bảo sự
chính xác nhưng lại phức tạp khi tính toán.

Như vậy, mỗi phương pháp đều có những ưu nhược điểm riêng. Việc
áp dụng một phương pháp thích hợp tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội
từng nước, trình độ quản lý và yếu tố tâm lý, tập quán từng dân tộc.
Quy định nộp thuế.
Tùy theo trình độ quản lý của hệ thống thuế của từng quốc gia, hiện nay
trên thế giới tồn tại hai quy định nộp thuế TNCN.
+ Nộp thuế ngay từ đồng thu nhập đầu tiên.
Dạng này được các quốc gia phát triển (OECD) áp dụng: thuế thu nhập
cá nhân được tính trên đồng thu nhập đầu tiên nhưng lại đưa ra những quy
định về các suất miễn thu (personal relief); nghĩa là cho trừ ra khỏi thu nhập
chịu thuế các khoản thu nhập được Luật thuế TNCN cho phép như giảm trừ
gia cảnh như nuôi cha mẹ già, nuôi con cái, người tàn tật; tiền lương đóng
góp vào quỹ an sinh xã hội, tiền nộp cho quỹ hưu trí; chi phí khám chữa bệnh;
lãi tiền tiết kiệm ở số ngân hàng do Chính phủ chỉ định.
Nguyên tắc hành thu: khấu trừ tại nguồn, sau đó cuối năm người chịu
thuế sẽ tổng hợp thu nhập để quyết toán thuế.
Áp dụng thuế suất quy định từ đồng thu nhập đầu tiên tuy khá phức tạp
trong việc theo dõi và quản lý nhưng chính việc quy định các suất miễn thu lại
có ý nghĩa lớn trong bảo đảm an sinh xã hội cho người thọ thuế, việc góp phần
giải quyết chính sách xã hội, đảm bảo công bằng và bình đẳng giữa các thành
viên trong xã hội.
Hiện nay, trên thế giới có khá nhiều nước áp dụng căn cứ tính thuế này.
tuy nhiên, việc áp dụng thuế suất biên tế ở các nước là không giống nhau.


16
+ Quy định thu theo mức khởi điểm (ngưỡng chịu thuế)
Cách này được các quốc gia đang phát triển ưa chuộng hơn và do vậy
được áp dụng rộng rãi hơn trong khối này. Khi thu theo ngưỡng chịu thuế,
người nộp thuế được cho phép khấu trừ khống một khoản thu nhập, phần thu

nhập còn lại chịu thuế suất luỹ tiến từng phần.
Cách làm này có ưu điểm là dễ quản lý nhưng lại không đáp ứng được
yêu cầu về tính công bằng của thuế TNCN: không công bằng do không xét
đến gia cảnh của người chịu thuế. Nếu thuế suất được quy định thu theo mức
thu nhập khởi điểm thì những người có gia cảnh khác nhau nhưng cùng một
mức thu nhập lại phải đóng thuế TNCN như nhau.

1.1.3 Đặc điểm của thuế TNCN.
+ Thuế TNCN là một loại thuế trực thu đánh trực tiếp vào thu nhập của
mỗi cá nhân. Do là thuế trực thu nên nó phản ánh sự đồng nhất giữa đối tượng
nộp thuế và đối tượng chịu thuế. Người chịu thuế thu nhập cá nhân không có
khả năng chuyển giao gánh nặng của thuế sang cho các đối tượng khác tại thời
điểm đánh thuế, đồng thời tạo ra áp lực chịu thuế dẫn đến hiện tượng trốn
thuế.
+ Thuế TNCN có diện đánh thuế rộng, thể hiện trên hai khía cạnh: một
là đối tượng đánh thuế TNCN là toàn bộ các khoản thu nhập của cá nhân
thuộc diện đánh thuế, không phân biệt thu nhập đó có nguồn gốc phát sinh
trong nước hay ở nước ngoài; hai là đối tượng phải kê khai nộp thuế TNCN là
toàn bộ những người có thu nhập, bao gồm tất cả công dân của nước sở tại và
những người nước ngoài cư trú thường xuyên hay không thường xuyên nhưng
có số ngày có mặt, làm việc, có thu nhập theo mức độ quy định của pháp luật
thuế TNCN.
+ Thuế TNCN có góc độ kỹ thuật tính thuế khá phức tạp bởi diện đánh
thuế rộng, liên quan chặt chẽ với hoàn cảnh cá nhân, chính sách xã hội cụ thể,


17
có áp dụng phương pháp luỹ tiến. Có như vậy mới đảm bảo công bằng xã hội,
người có thu nhập cao nộp thuế nhiều hơn người có thu nhập thấp.
+ Chi phí hành thu của thuế TNCN thường rất cao, điều này làm cơ sở

để áp dụng biện pháp khấu trừ thuế tại nguồn (Witholding at source), đây là
một biện pháp để giảm chi phí hành thu.
1.1.4 Vai trò của thuế TNCN trong nền kinh tế.
+ Là nguồn thu quan trọng, góp phần ổn định ngân sách quốc gia.
Dù không phải là mục tiêu chủ yếu, song thực hiện phát triển chính
sách thuế trực thu nói chung, thuế TNCN nói riêng chính là việc tạo lập và
phát triển nguồn thu vững chắc cho ngân sách nhà nước. Cùng với xu hướng
tăng trưởng kinh tế ngày càng cao, hội nhập và phát triển, thu nhập quốc dân
đầu người ngày càng lớn thì khả năng huy động nguồn thu cho NSNN thông
qua thuế TNCN sẽ ngày càng tăng và sẽ ngày một dồi dào.
Thực tế tỷ trọng thu thuế TNCN trong tổng thu ngân sách của nhiều
quốc gia đã phản ánh tiến trình đó, tại các nước khối ASEAN: 5-10%, các
nước phát triển có tỷ trọng 15-16% có nước đạt tới tỷ trọng 30- 40% như Anh,
Mỹ. Tại Việt Nam, mới tiếp cận chính sách thu và còn phân tán ở nhiều sắc
thuế nhưng cũng đã có kết quả tăng trưởng thu khá lớn trong những năm gần
đây: năm 1991 thu theo chính sách thuế thu nhập đối với người có thu nhập
cao là 62 tỷ đồng, đến năm 2000 thu được 1.831 tỷ đồng, năm 2005 số thu đã
đạt 4.400 tỷ đồng và tính đến năm 2011 con số này đạt 36.940 tỷ đồng. Tuy
vậy tỷ trọng thu cũng mới chỉ đạt khoảng 5% tổng thu ngân sách.
+ Là công cụ cần thiết để thực hiện việc kiểm soát thu nhập của các
tầng lớp dân cư.
Để kiểm soát thu nhập dân cư, nhà nước phải sử dụng đồng thời cả hai
cơ chế quản lý quỹ tiền lương, tiền công, chế độ báo cáo quyết toán kinh
doanh…và cơ chế kê khai nộp thuế TNCN, tuy ban đầu có thể chưa chính xác,
nhưng sẽ là căn cứ để thống kê thu nhập dân cư phục vụ chương trình mục
tiêu nghiên cứu quốc gia, hoạch định chính sách phát triển phù hợp khi tính
tuân thủ pháp luật, pháp chế xã hội được nâng lên.


18

+ Góp phần thu hẹp chênh lệch giàu nghèo, đảm bảo công bằng xã
hội.
Thông thường, thuế thu nhập cá nhân chỉ đánh vào thu nhập cao hơn
mức khởi điểm thu nhập chịu thuế, không đánh thuế vào những cá nhân có thu
nhập vừa đủ nuôi sống bản thân và gia đình ở mức cần thiết. Thêm vào đó khi
thu nhập cá nhân tăng lên thì tỷ lệ thu thuế cũng tăng thêm.Ở nước ta hiện
nay, thu nhập của các tầng lớp dân cư có sự chênh lệch nhau, số đông dân cư
có thu nhập còn thấp, nhưng cũng có một số cá nhân được tuyển dụng trong
môi trường hấp dẫn, có thu nhập khá cao, nhất là những cá nhân làm việc
trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trong khu chế xuất hoặc có
một số cá nhân người nước ngoài làm việc tại Việt Nam.
Bên cạnh đó, thu nhập của mỗi cá nhân phụ thuộc chủ yếu vào các yếu
tố như khả năng, trình độ lao động, vị trí công tác, quyền sở hữu về tài sản của
cá nhân đó. Tuy nhiên, các yếu tố nói trên của mỗi cá nhân thường không
giống nhau nên đã tạo ra sự khác nhau về thu nhập của mỗi người. Chính sự
khác nhau ấy là nguồn gốc tạo ra sự phân hoá giàu nghèo, là sự bất bình đẳng
trong xã hội. Để giải quyết vấn đề này, các nước đã dùng nhiều hình thức và
biện pháp khác nhau trong đó thuế TNCN được xem như một công cụ hữu
hiệu để điều tiết bớt thu nhập của những người có thu nhập cao, góp phần thu
hẹp chênh lệch giàu nghèo, đảm bảo công bằng xã hội.
+ Góp phần quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Thông qua các cơ chế và công cụ quản lý Nhà nước sẽ có giải pháp
tăng cường hoặc giảm bớt điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư làm cho
tổng cầu xã hội giảm hoặc tăng, từ đó có tác dụng co hẹp hay kích thích kinh
tế phát triển. Đó chính là vai trò quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế mà chính
sách thuế TNCN góp phần tác dụng đáng kể.
1.1.5 Mối quan hệ giữa thuế TNCN và thuế TNDN.
Thuế TNCN và thuế TNDN cùng là thuế trực thu đánh vào thu nhập.
Tuy đánh trên các căn cứ tính thuế khác nhau nhưng hai loại thuế này có mối
quan hệ mật thiết với nhau, về cơ bản thu nhập làm căn cứ tính thuế của hai



19
loại thuế này đều do sức lao động, tiền vốn của từng cá nhân tạo ra và có mối
quan hệ về lợi ích của từng người.
Trước đây hộ kinh doanh phải đóng thuế thu nhập doanh nghiệp với
mức thuế suất là 28%. Khi thuế thu nhập cá nhân ra đời đã chuyển nhóm đối
tượng này sang đóng thuế thu nhập cá nhân với mức thuế phải đóng tính trên
biểu thuế luỹ tiến từng phần, điều này là hoàn toàn phù hợp bởi vì: trên thực tế
hộ kinh doanh chỉ là cá nhân hoặc nhóm cá nhân kinh doanh nhỏ lẻ, vì vậy
việc đưa đối tượng này vào diện điều chỉnh tại Luật thuế TNCN nhằm đảm
bảo sự bình đẳng về chính sách thuế đối với thu nhập cá nhân và cũng phù
hợp với quy định của pháp luật thương mại về đăng ký kinh doanh. Mặt khác,
nếu tiếp tục thu thuế thu nhập doanh nghiệp đối với đối tượng này sẽ không
phù hợp vì hộ kinh không phải là một loại hình doanh nghiệp.
1.2 Sự cần thiết ban hành, sửa đổi chính sách thuế TNCN tại Việt Nam.
+ Ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân là cần thiết để thể chế hóa
đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà Nước.
Nghị Quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã đề ra:
“Áp dụng thuế thu nhập cá nhân thống nhất và thuận lợi cho mọi đối tượng
chịu thuế, đảm bảo công bằng xã hội và tạo động lực phát triển”. Nghị Quyết
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục khẳng định: “Hoàn
thiện hệ thống pháp luật về thuế theo nguyên tắc công bằng, thống nhất và
đồng bộ… Điều chỉnh chính sách thuế theo hướng giảm và ổn định thuế suất,
mở rộng đối tượng thu, điều tiết hợp lý thu nhập”. Thực hiện các Nghị quyết
của Đảng, Bộ Chính trị đã thông qua chiến lược cải cách hệ thống thuế giai
đoạn 2011 - 2020, trong đó đặt ra yêu cầu: “Xây dựng hệ thống chính sách
thuế đồng bộ, thống nhất, công bằng, hiệu quả, phù hợp với thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mức động viên hợp lý nhằm tạo điều
kiện thúc đẩy sản xuất trong nước và là một trong những công cụ quản lý kinh

tế vĩ mô có hiệu quả, hiệu lực của Đảng và Nhà nước”.
+ Ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân nhằm thực hiện công bằng
xã hội, tăng cường kiểm tra, kiểm soát thu nhập và điều tiết, phân phối lại


20
thu nhập, thu hẹp hợp lý sự chênh lệch về thu nhập giữa các tầng lớp dân
cư, đảm bảo sự phát triển ổn định của nền kinh tế.
Khác với thuế gián thu (thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt…)
động viên thu nhập xã hội thông qua tiêu dùng của các tổ chức và cá nhân,
khác với thuế thu nhập doanh nghiệp, điều tiết vào thu nhập của doanh
nghiệp, thuế thu nhập cá nhân động viên một phần thu nhập của cá nhân, thể
hiện nghĩa vụ cụ thể của công dân đối với đất nước. Công dân được hưởng
những thành quả của đất nước: cơ sở hạ tầng, phúc lợi xã hội, an ninh trật tự,
… thì đồng thời có nghĩa vụ đóng góp một phần thu nhập của mình cho xã hội
thông qua việc nộp thuế. Thuế thu nhập cá nhân được xây dựng trên nguyên
tắc “công bằng” và “khả năng nộp thuế”, được thể hiện: người có thu nhập
thấp thì chưa nộp thuế, người có thu nhập cao thì nộp thuế nhiều hơn, người
có thu nhập như nhau nhưng có hoàn cảnh khác nhau thì mức nộp thuế cũng
khác nhau. Thực hiện nộp thuế thu nhập cá nhân góp phần làm giảm hợp lý
khoảng cách chênh lệch giữa các tầng lớp dân cư.
Chính vì vậy mà thuế thu nhập cá nhân đã được nhiều nước áp dụng từ
rất sớm, ngay từ khi nền kinh tế chưa phát triển, thu nhập của dân cư cũng
chưa cao, điều kiện kiểm soát thu nhập còn hạn chế. Đến nay, đã có trên 180
nước trên thế giới áp dụng loại thuế này.
+ Sửa đổi Luật thuế thu nhập cá nhân góp phần hoàn thiện hệ thống
chính sách thuế, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập
kinh tế quốc tế.
Hiện nay, Luật thuế TNCN của chúng ta vẫn còn bộc lộ nhiều khuyết
điểm, hạn chế chưa phù hợp với thực tế cuộc sống. Vì thế chúng ta cần hoàn

thiện hơn về chính sách thuế TNCN để chính sách thuế đi vào thực tế đời sống
giúp cải thiện đời sống cuả người lao động cũng như đảm bảo được nguồn thu
của NSNN.
Do vậy, việc sửa đổi Luật thuế thu nhập cá nhân là để hoàn thiện một
bước hệ thống chính sách thuế của nước ta, góp phần khuyến khích cá nhân
tích cực lao động, đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, làm giàu chính đáng


21
và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ổn định, bền vững tiến đến hội nhập
kinh tế quốc tế.
1.3 Bài học về xây dựng, thực hiện chính sách thuế TNCN của một số
nước trên thế giới và kinh nghiệm áp dụng ở Việt Nam.
Thuế thu nhập cá nhân đã có lịch sử hàng trăm năm và hiện nay đã trở
thành loại thuế phổ biến trên thế giới. Có thể nói đối với hầu hết các quốc gia
thuế thu nhập cá nhân được xem như là “vua” của các loại thuế. Không chỉ
bởi nguồn thu khổng lồ của nó trong tổng ngân sách để phục vụ cho việc vận
hành bộ máy hành chính Nhà nước, đảm bảo an ninh quốc gia, chính sách xã
mà sự ra đời của sắc thuế TNCN còn góp phần quan trọng trong việc điều tiết
phân phối lại thu nhập trong xã hội trên cơ sở xem xét đến hoàn cảnh cụ thể
của người nộp thuế.
Cho đến nay trên khắp Thế giới đã có khoảng 180 nước áp dụng thuế
thu nhập cá nhân. Trong đó, quốc gia đầu tiên áp dụng thuế thu nhập cá nhân
là Hà Lan năm 1797, sau đó là Anh vào năm 1799, Phổ vào năm 1808. Mỹ bắt
đầu áp dụng thuế TNCN vào năm 1864. Các nước Châu Âu như Úc, Niu
Dilân, và Nhật Bản áp dụng các loại thuế thu nhập thường xuyên vào nửa cuối
Thế kỷ 19. Tại các nước Châu Á: Thái Lan bắt đầu áp dụng năm 1939,
Philippin năm 1945, Hàn quốc năm 1948, Indonesia năm 1949, Trung quốc
năm 1984; Các nước Đông Âu mới áp dụng như Rumani năm 1990, Nga năm
1991, Ba lan năm 1992. Ở Việt Nam thuế TNCN chính thức có hiệu lực thi

hành từ ngày 01/01/2009.
Thời gian đầu khi mới ban hành Luật thuế TNCN, các Chính phủ ở một
số nước áp dụng luật thuế TNCN thường chọn đánh thuế vào những đối tượng
dễ đo lường được như đất đai, tài sản, hàng hoá hữu hình… Tuy nhiên cho
đến nay sau nhiều lần sửa đổi, bổ sung, thay thế những chế định quan trọng
trong Luật thuế TNCN đã có nhiều biến đổi. Có thể nói khác với các loại thuế
khác, thuế TNCN có diện điều chỉnh rộng với tất cả các cá nhân có thu nhập
từ tiền lương, tiền công; thu nhập từ kinh doanh; từ đầu tư gián tiếp như mua,
bán cổ phần, trái phiếu, cổ phiếu… Thuế TNCN điều chỉnh không chỉ cá nhân


22
trong nước mà cả cá nhân nước ngoài nếu làm việc có thu nhập tại nước sở
tại. Các khoản thu nhập chịu thuế cũng có diện rộng bao gồm tất cả các khoản
thu nhập của cá nhân. Tuy nhiên, thực hiện chính sách xã hội và mục tiêu
công bằng của thuế TNCN, luật thuế cũng qui định cụ thể một số khoản thu
nhập không chịu thuế, miễn thuế.
1.3.1 Luật thuế TNCN tại Trung Quốc.
Luật thuế TNCN ở Trung Quốc có quy định các đối tượng nộp thuế thu
nhập cá nhân là các cá nhân có chỗ ở hoặc không có chỗ ở trong nước Trung
Quốc, mà cư trú tại Trung Quốc đủ 1 năm, thì phải nộp thuế đối với toàn bộ
thu nhập của người đó nhận được từ trong và ngoài nước Trung Quốc. Cá
nhân không có chỗ ở tại Trung Quốc mà cư trú dưới 1 năm, thì phải nộp thuế
đối với thu nhập phát sinh từ Trung Quốc.
Theo Luật thuế TNCN Trung Quốc, thu nhập chịu thuế thu nhập cá
nhân bao gồm các khoản: Thu nhập từ tiền công, tiền lương; Thu nhập từ sản
xuất kinh doanh; Thu nhập về cho thuê tài sản; Thu nhập về chuyển nhượng
tài sản; Thu nhập từ kinh doanh chứng khoán; Thù lao dịch vụ; Thu nhập từ
nhuận bút; Thu nhập về chi phí sử dụng quyền đặc biệt; Thu nhập về lãi cho
vay, cổ tức, hoa hồng; Thu nhập ngẫu nhiên; Thu nhập khác.

Ngoài ra ở Trung Quốc cũng quy định rất rõ các khoản thu nhập không
phải chịu thuế thu nhập cá nhân đó là: Tiền thưởng, lợi tức tiền gửi tiết kiệm,
lợi tức trái phiếu do Bộ Tài chính cho phép phát hành và trái phiếu tín dụng do
Quốc vụ viện cho phép phát hành. Tiền phụ cấp, trợ cấp được chính quyền
phát cho theo quy định của Quốc vụ viện và tiền phụ cấp, trợ cấp được Quốc
vụ viện quy định miễn thuế. Tiền phúc lợi, tiền dưỡng lão, tiền cứu tế. Tiền
bồi thường bảo hiểm. Tiền chuyển ngành, tiền phục viên của quân nhân. Tiền
được Nhà nước quy định thống nhất phát cho cán bộ viên chức về ổn định chỗ
ở, thôi việc, lương hưu. Thu nhập của các đại diện ngoại giao, nhân viên lãnh
sự và các nhân viên khác thuộc các đại sứ quán, lãnh sự quán tại Trung Quốc,
được miễn thuế theo Luật pháp hữu quan quy định. Thu nhập được quy định


23
miễn thuế trong các công ước quốc tế, các hiệp định ký kết mà Chính phủ
Trung Quốc tham gia. Thu nhập được ngành tài chính cho phép miễn thuế.
Hiện ở Trung Quốc biểu thuế luỹ tiến từng phần (biểu tháng) chia làm 9
bậc với mức thuế suất thấp nhất là 5%, cao nhất là 45%. Nếu tính ra thì thu
nhập chịu thuế ở Trung Quốc rơi vào khoảng 500 đến 100.000 NDT (tức
khoảng 60 đến 12.000 USD).
1.3.2 Luật thuế TNCN tại Nhật Bản.
Đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân là: những cá nhân cư trú và không
cư trú tại Nhật Bản: Cá nhân cư trú tại Nhật Bản là những người đã sống từ
lâu hay đã và đang định cư tại Nhật trong một thời gian dài liên tục từ một
năm trở lên. Cá nhân không cư trú tại Nhật Bản là người có thời gian cư trú tại
Nhật dưới một năm.
Các khoản thu nhập nằm trong diện nộp thuế của Nhật Bản gồm 10
khoản chính: Thu nhập từ công việc lao động; Thu nhập từ hoạt động kinh
doanh; Thu nhập do buôn bán bất động sản; Thu nhập từ tiền lãi cổ phần; Thu
nhập từ lợi tức; Thu nhập từ các khoản hưu trí; Thu nhập từ buôn bán gỗ; Thu

nhập từ các khoản vốn; Thu nhập bất thường; Thu nhập khác.
Thuế thu nhập cá nhân của Nhật bản kê khai nộp theo hai phương pháp:
phương pháp khấu trừ tại nơi trả thu nhập và thuế thu nhập cá nhân kê khai.
Các khoản thu nhập áp dụng thuế khấu trừ tại nơi trả thu nhập là: Tiền lương;
Trợ cấp thôi việc; Tiền lương hưu; Lãi tiền gửi, lãi tiền cho vay; Lợi tức cổ
phần; Tiền thù lao; Các khoản khác.
Trong luật thuế TNCN của Nhật Bản biểu thuế luỹ tiến từng phần chỉ
quy định chia làm 3 mức. Với thuế suất thấp nhất là 5%, cao nhất là 37%. Như
vậy thu nhập chịu thuế sẽ rơi vào khoảng 3.300.000JPY đến mức cao nhất là
trên18.000.000JPY.
1.3.3 Luật thuế TNCN tại Thái Lan.
Đối tượng nộp thuế Luật quy định mọi cá nhân là đối tượng
cư trú và không cư trú nếu có thu nhập chịu thuế phát sinh tại Thái Lan đều
là đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân tại Thái Lan. Các đối tượng cư trú là
người Thái Lan có thu nhập từ lao động, từ kinh doanh có nguồn gốc nước


24
ngoài cũng là đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân, dù các khoản thu nhập này
không chịu thuế tại Thái Lan.
Thu nhập chịu thuế là thu nhập ròng chịu thuế tổng hợp từ các nguồn
của cá nhân. Thu nhập chịu thuế được xác định bằng cách lấy toàn bộ các
khoản thu nhập (thu nhập gộp) mà cá nhân nhận được trong năm tính thuế,
không kể các thu nhập được miễn thuế, trừ đi các khoản khấu trừ cơ bản và
suất miễn thu theo quy định cho từng loại thu nhập. Thu nhập chịu thuế bao
gồm các loại chủ yếu sau: Thu nhập từ lao động, thu nhập từ kinh doanh và từ
hành nghề độc lập (tự do), thu nhập từ đầu tư, thu nhập từ chuyển nhượng tài
sản, thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản và thu nhập khác.
Để xác định thu nhập ròng, Luật cho phép các đối tượng nộp thuế, dù
là đối tượng cư trú hay không cư trú, được trừ vào tổng thu nhập (thu nhập

gộp) các khoản khấu trừ cơ bản tính theo tỷ lệ nhất định trên thu nhập gộp
nhận được tối đa là 40% trên tổng thu nhập gộp, nhưng không quá 60.000
baht/năm.
Sau khi áp dụng mức khấu trừ cơ bản cho từng loại thu nhập để xác
định mức thu nhập ròng, mỗi đối tượng nộp thuế sẽ được tiếp tục trừ khỏi thu
nhập ròng các suất miễn thu cá nhân tuỳ theo tình trạng hôn nhân, tính chất
đối tượng nộp thuế hay căn cứ vào các khoản đóng góp xã hội của từng cá
nhân. Kết quả tính được sẽ là thu nhập ròng chịu thuế tương ứng của loại thu
nhập đó.
Hiện nay Thái Lan có 6 bậc thuế thấp nhất là 0%, cao nhất là 37%
đánh vào khoản thu nhập ròng chịu thuế theo đó khoản thu nhập từ 4.000.000
baht trở lên nộp theo mức thuế suất 37%.
1.3.4 Luật thuế TNCN tại Pháp.
Các thể nhân là đối tượng cư trú thuế tại Pháp hoặc không là đối tượng
cư trú thuế tại Pháp nhưng có nhận được thu nhập tại Pháp đều là đối tượng
phải nộp thuế thu nhập cá nhân. Cá nhân là đối tượng cư trú phải nộp thuế thu
nhập cá nhân trên toàn bộ thu nhập, không phân biệt nguồn phát sinh thu nhập
ở trong nước hay ở nước ngoài. Cá nhân là đối tượng cư trú tại Pháp chỉ phải
nộp thuế cho phần thu nhập có được tại Pháp hoặc trên thu nhập khoán bằng 3


25
lần giá trị cho thuê tài sản thuộc sở hữu của cá nhân đó nếu thu nhập phát sinh
tại Pháp nhỏ hơn mức khoản trên.
Thu nhập chịu thuế có 8 loại. Thu nhập ròng làm căn cứ tính thuế là
tổng hợp thu nhập ròng của từng loại thu nhập mà mỗi đối tượng nộp thuế có
được trong năm bao gồm: thu nhập từ tiền lương, thu nhập từ kinh doanh, thu
nhập từ nông nghiệp, thu nhập từ hành nghề độc lập và từ các dịch vụ tư vấn
nghề nghiệp, thu nhập từ đầu tư chứng khoán, thu nhập từ cho thuê bất động
sản (nhà, đất), thu nhập từ chuyển nhượng tài sản, thù lao của những

người điều hành công ty.
Tổng thu nhập chịu thuế của hộ nộp thuế bằng tổng các khoản thu nhập
ròng từ mọi nguồn thu nhập của đối tượng nộp thuế cộng với tổng thu nhập
của vợ (hoặc chồng) và của các con sáp nhập vào hộ (nếu có) sau khi trừ các
khoản lỗ của từng loại thu nhập. Ngoài ra, hộ nộp thuế còn được trừ khỏi tổng
thu nhập chịu thuế một khoản chi phí (nếu thỏa mãn các điều kiện quy định)
như: trợ cấp đời sống bắt buộc theo phán quyết của tòa đối với vợ (chồng)
đã ly thân hay ly dị cho mỗi người con tối đa là 30.330 FR, chi nuôi dưỡng
người già trên 75 tuổi tối đa 17.680 FR… và khoản lỗ chưa trừ hết trong 5
năm trước.
Thuế thu nhập cá nhân áp dụng biểu luỹ tiến từng phần gồm 7 bậc (0%,
8,25%, 21,75%, 31,75%, 41,25% và 53,25%) trong đó, thuế suất thấp nhất 0%
cho mức thu nhập 26.600 FR, cao nhất 53,25% cho mức thu nhập vượt trên
299.200 FR.
Tóm lại:
Chính sách thuế TNCN của các nước có những điểm như sau:
- Đa số các nước đánh thuế theo nguyên tắc “cư trú” đối với đối tượng
cư trú tại nước mình và phải chịu thuế TNCN trên thu nhập toàn cầu, không
phân biệt nguồn thu nhập phát sinh trong nước hay ở nước ngoài, đánh thuế
theo nguyên tắc “nguồn phát sinh thu nhập” đối với đối tượng không cư trú,
đối tượng này chỉ phải nộp thuế cho phần thu nhập có được phát sinh trong
nước. Tuy nhiên mỗi nước qui định đối tượng cư trú và không cư trú là không
giống nhau.


×