Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

Luận văn thực tiễn thi hành pháp luật về khấu trừ và hoàn thuế giá trị gia tăng tại chi cục thuế huyện thuận thành tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (467.97 KB, 97 trang )

Thực tiễn thi hành pháp luật về khấu trừ và hoàn thuế giá trị gia tăng tại
Chi cục Thuế huyện Thuận Thành - tỉnh Bắc Ninh
PHẦN MỞ ĐẦU
1.
Tính cấp thiết của đề tài
Luật Thuế giá trị gia tăng (GTGT) là một trong những đạo luật thuế có ảnh
hưởng sâu rộng đến đời sống kinh tế và tiêu dùng của xã hội. Từ khi Luật thuế GTGT
ra đời đã khắc phục được những nhược điểm của thuế doanh thu trước đây. Điểm nổi
bật của thuế GTGT là khắc phục được nhược điểm thu trùng lắp, chồng chéo qua
nhiều khâu của thuế doanh thu, nó chỉ đánh vào giá trị tăng thêm (được thể hiện bằng
tiền lương, tiền công, lợi nhuận, lợi tức và các khoản chi phí tài chính khác) của các
sản phẩm, dịch vụ tại mỗi công đoạn sản xuất và lưu thông, làm sao để đến cuối chu
kỳ sản xuất, kinh doanh hoặc cung cấp dịch vụ thì tổng số thuế thu được ở các công
đoạn sẽ khớp với số thuế tính theo giá bán cho người cuối cùng.
Khấu trừ và hoàn thuế là một đặc trưng cơ bản của thuế GTGT. Hoàn thuế
GTGT là biện pháp tạo điều kiện cho doanh nghiệp thu hồi được số vốn đã ứng trước.
Đây là một chế định rất tiến bộ của Luật thuế GTGT, tuy nhiên, trên thực tế, nhiều
doanh nghiệp đã lợi dụng cơ chế này để trục lợi và chiếm đoạt tiền của Nhà nước.
Tại chi cục thuế huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, thực trạng thực thi pháp luật
thuế GTGT vẫn còn nhiều vướng mắc xuất phát từ sự thiếu hiểu biết pháp luật cũng
như vi phạm các quy định pháp luật. Chính vì vậy, tôi mạnh dạn thực hiện đề tài:
“Thực tiễn thi hành pháp luật về khấu trừ và hoàn thuế giá trị gia tăng tại Chi cục
Thuế huyện Thuận Thành - tỉnh Bắc Ninh”. Với đề tài này, tôi hi vọng có thể
nghiên cứu pháp luật về khấu trừ, hoàn thuế GTGT, áp dụng vào thực trạng tại Thuận
Thành - Bắc Ninh, từ đó đưa ra nhận định cá nhân và các giải pháp nhằm làm rõ chính
sách thuế GTGT của Chính phủ.
2.

Tình hình nghiên cứu

1




Có khá nhiều nghiên cứu đề cập đến pháp luật và thực thi pháp luật khấu trừ và
hoàn thuế GTGT ở Việt Nam, có thể kể đến như: Luận văn Thạc sĩ Đào Thị Ngọc Ánh
(2011), “Pháp luật về khấu trừ và hoàn thuế Giá trị gia tăng tại Việt Nam”; Nguyễn
Thị Thanh Bình (2015), “Thực tiễn thi hành Pháp luật về Khấu trừ, hoàn thuế Giá trị
gia tăng tại chi cục thuế Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng”...
Luận văn “Thực tiễn thi hành pháp luật về khấu trừ và hoàn thuế giá trị gia
tăng tại Chi cục Thuế huyện Thuận Thành - tỉnh Bắc Ninh” sẽ là một trong những
đề tài tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu chuyên sâu về thực trạng vấn đề khấu trừ thuế,
hoàn thuế GTGT ở Việt Nam. Đặc biệt, luận văn đưa ra cái nhìn rõ nét hơn về thực
trạng tại một địa bàn cụ thể: chi cục thuế huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
3.
Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ bài luận văn, tôi tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật,
các quan điểm, chính sách liên quan đến khấu trừ và hoàn thuế GTGT ở Việt Nam. Từ
các lý luận đó, tôi áp dụng vào thực trạng cụ thể tại Chi cục thuế huyện Thuận Thành,
tỉnh Bắc Ninh.
Nghiên cứu này chủ yếu được nhìn nhận dưới góc độ Luật học, có tham khảo và
sử dụng một số kiến thức và kết quả nghiên cứu Kinh tế học.
4.
Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật về khấu trừ thuế và hoàn thuế
tại chi cục thuế huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, đối chiếu với các quy định của
pháp luật trong lĩnh vực này, đưa ra những đánh giá cá nhân và chỉ ra những hạn chế,
bất cập của pháp luật. Từ đó, tôi đưa ra các kiến nghị và giải pháp để hoàn thiện quy
định của pháp luật, khắc phục những hạn chế, bất cập trên.
Mục tiêu cụ thể:
Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về khấu trừ và hoàn thuế GTGT
Đánh giá thực trạng khấu trừ, hoàn thuế GTGT trên địa bàn huyện Thuận

Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Đề xuất giải pháp hoàn thiện quản lý thuế trên địa bàn huyện Thuận
Thành, và hoàn thiện Pháp luật liên quan đến khấu trừ, hoàn thuế GTGT.
5.
Cơ sở khoa học của đề tài
5.1. Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.

2


5.2.

Cơ sở thực tiễn: Luận văn dựa trên thực tiễn thi hành pháp luật về khấu trừ

và hoàn thuế giá trị gia tăng tại Việt Nam nói chung và chi cục thuế huyện Thuận
Thành, tỉnh Bắc Ninh nói riêng với các số liệu cụ thể. Ngoài ra, luận văn còn dựa trên
các công trình nghiên cứu của các nhà luật học và kinh tế học, cũng như các quy định
của pháp luật Việt Nam về lĩnh vực này.
6.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở
phương pháp biện chứng khoa học kết hợp với các phương pháp:
Phương pháp thống kê, tổng hợp
Phương pháp phân tích
Phương pháp đối chiếu, so sánh
Phương pháp quan sát thực tiễn
7.
Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, kết cấu của Luận văn được trình bày theo
3 phần như sau:

Chương 1: Những vấn đề cơ bản về khấu trừ và hoàn thuế GTGT
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về khấu trừ thuế
và hoàn thuế giá trị gia tăng tại chi cục thuế huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Chương 3: Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về khấu trừ
thuế và hoàn thuế giá trị gia tăng tại chi cục thuế huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.

3


PHẦN MỞ ĐẦU..........................................................................................1
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về khấu trừ và hoàn thuế GTGT.

5

1.1........................................................Tổng quan về Thuế GTGT.
5
1.2. Những vấn đề cơ bản về khấu trừ thuế GTGT.......................13
1.3.................................Những vấn đề cơ bản về hoàn thuế GTGT
18
Chương 2:Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về
khấu trừ thuế và hoàn thuế giá trị gia tăng tại chi cục thuế huyện Thuận
Thành, tỉnh Bắc Ninh. 29
2.1. Thực trạng pháp luật về khấu trừ thuế và hoàn thuế GTGT
theo pháp luật hiện hành..........................................................................29
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về khấu trừ thuế, hoàn thuế tại
chi cục thuế huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh...................................61
3.1..Nhu cầu, phương hướng về việc hoàn thiện pháp luật về khấu
trừ thuế, hoàn thuế GTGT.......................................................................84
3.2.............................Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật cụ thể
85

3.3.Giải pháp hoàn thiện quản lý khấu trừ thuế, hoàn thuế tại Chi
cục thuế huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.........................................89
KẾT LUẬN................................................................................................93
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................94
Tài liệu Tiếng Việt 94
Tài liệu Tiếng Anh 97

4


Chương 1: Những vấn đề cơ bản về khấu trừ và hoàn thuế GTGT.
1.1. Tổng quan về Thuế GTGT.
1.1.1. Khái niệm thuế GTGT
Thuế là nguồn thu quan trọng của Ngân sách Quốc gia. Nhà nước nào cũng có
những khoản chi ngân sách hàng năm, để bù đắp cho những khoản chi đó, có 5 nguồn
tài trợ chính: bằng thuế, bằng phát hành tiền tệ, bằng cách phát hành công trái, bằng
viện trợ hoàn lại và vay, nợ của nước ngoài, bằng viện trợ không hoàn lại của nước
ngoài. Trong 5 nguồn này, thuế là nguồn thu quan trọng nhất vì thuế có sự điều tiết
chia sẻ và công bằng giữa người có thu nhập cao và người có thu nhập thấp đồng thời
nói lên sức mạnh tự chủ về tài chính của một quốc gia.
Thuế là một biện pháp kinh tế của mọi Nhà nước, được thực thi khi hoạt động
kinh tế tạo ra thu nhập hoặc sử dụng nguồn thu nhập tạo ra. Các khoản thuế đóng góp
của dân tạo thành quỹ tiền tệ của Nhà nước, Nhà nước sử dụng quỹ này để phục vụ
cho việc thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của mình.
Một số học giả đã đưa ra quan điểm về thuế, theo Selagman “Thuế là sự đóng
góp mang tính cưỡng chế của mỗi người cho chính phủ để trang trải các chi phí và lợi
ích chung không căn cứ vào lợi ích riêng được hưởng”, theo Adam Smith:“Các công
dân của mỗi nước phải đóng góp cho Chính phủ theo tỷ lệ và khả năng của mỗi
người, nghĩa là tỷ lệ với lợi tức mà họ được thụ hưởng do sự bảo vệ của Nhà nước”,
Theo K.Marx “Thuế là khoản đóng góp nghĩa vụ cần thiết để nuôi dưỡng Nhà nước

Pháp quyền, thuế là nguồn sống đối với Nhà nước pháp hành”. [14]
Thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có nghĩa vụ phải
thực hiện đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn bản pháp luật do Nhà nước
ban hành, không mang tính chất đối giá và hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp thuế.

5


Thuế không phải là một hiện tượng tự nhiên mà là một hiện tượng xã hội do chính con
người định ra và nó gắn liền với phạm trù Nhà nước và pháp luật.
Sự ra đời và tồn tại của thuế gắn liền với sự phân chia xã hội thành các giai cấp
đối kháng và sự xuất hiện của Nhà nước - pháp luật.
Thuế là một thực thể pháp lý nhân định nhưng sự ra đời và tồn tại của nó không
chỉ phụ thuộc vào ý chí con người mà còn phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế - xã hội
của từng thời kỳ lịch sử nhất định.
Sự xuất hiện của Nhà nước đòi hỏi cần phải có của cải vật chất cần thiết chi cho
hoạt động thường xuyên của bộ máy Nhà nước nhằm đảm bảo cho Nhà nước tồn tại,
duy trì quyền lực và thực hiện chức năng quản lý xã hội của mình. Trong điều kiện có
các giai cấp, tồn tại chế độ tư hữu cùng với phạm vi hoạt động của Nhà nước ngày
càng mở rộng thì chế độ đóng góp theo phương thức tự nguyện của dân cư trong chế
độ cộng sản nguyên thủy không còn phù hợp nữa. Ðể có được lượng của cải cần thiết,
Nhà nước đã sử dụng quyền lực của mình ban hành pháp luật, ấn định bắt buộc các thể
nhân và pháp nhân phải đóng góp cho Nhà nước một phần của cải mà họ làm ra và
hình thành qũy tiền tệ tập trung của Nhà nước. Ban đầu những của cải vật chất này
được thu nộp dưới hình thức hiện vật, dần dần thuế được chuyển sang hình thức tiền
tệ. Ðồng thời với việc ấn định nghĩa vụ thu nộp của cải vật chất đối với dân cư, Nhà
nước đảm bảo việc thực hiện các nghĩa vụ đó bằng bộ máy cuỡng chế của Nhà nước.
Sự xuất hiện sản phẩm thặng dư trong xã hội là cơ sở chủ yếu để thuế tồn tại và
phát triển. Như vậy, thuế là phạm trù có tính lịch sử và là một tất yếu khách quan, thuế
ra đời xuất phát từ nhu cầu đáp ứng chức năng của Nhà nước và sự tồn tại của thuế

không tách rời quyền lực Nhà nước.
Thuế do cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất ban hành. Ở các quốc gia, do vai
trò quan trọng của thuế đối với việc hình thành quỹ ngân sách nhà nước và những ảnh

6


hưởng của nó đối với đời sống kinh tế - xã hội nên thẩm quyền quy định, sửa đổi, bãi
bỏ các Luật thuế đều thuộc cơ quan lập pháp. Ðây là nguyên tắc sớm được ghi nhận
trong pháp luật của các nước. Chẳng hạn ở nước Anh đạo Luật về dân quyền năm
1688 quy định: cấm mọi sự thu thuế để dùng vào việc chi tiêu của Nhà nước nếu
không được Quốc hội chấp thuận. Ở Pháp, Quốc hội Pháp quy định: bất cứ một khoản
thuế nào nếu không được Quốc hội chấp thuận thì không được áp dụng. Hiến pháp của
nước Cộng hòa Pháp năm 1791 quy định Quốc hội Pháp có quyền biểu quyết và định
đoạt các Luật thuế. [19]
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: Quốc hội có
nhiệm vụ và quyền hạn quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các Luật thuế. Tuy vậy, do yêu
cầu điều chỉnh các quan hệ pháp luật về thuế, Quốc hội có thể giao cho Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ một số loại thuế thông qua hình
thức ban hành Pháp lệnh hoặc Nghị quyết về thuế.
Nhà nước thu thuế làm phát sinh quan hệ phân phối giữa Nhà nước với các thể
nhân và pháp nhân trong xã hội. Ðối tượng của quan hệ phân phối này là của cải vật
chất được biểu hiện dưới hình thức giá trị.
Tóm lại, Thuế ra đời gắn liền với sự ra đời, tồn tại của Nhà nước cùng sự phát
sinh, phát triển của nền kinh tế hàng hóa. Đây là khoản thu bắt buộc nhằm đáp ứng
nhu cầu chi tiêu của Nhà nước, và quản lý vĩ mô với nền kinh tế. Với bản chất này,
Nhà nước đặt ra ngày càng nhiều các sắc thuế, tùy điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của
mỗi Quốc gia mà hệ thống thuế gồm các loại thuế khác nhau.
Thuế giá trị gia tăng (sau đây gọi là thuế GTGT) ra đời từ nước Pháp với tên gọi
Taxe Sur La Valeur Ajou tée (TVA) (Tiếng Anh là Value Added Tax – VAT), sau đó

được tiếp thu và áp dụng rộng rãi ở nhiều Quốc gia trên Thế giới.

7


Theo quan điểm của Liên minh Châu Âu, Thuế GTGT là một loại thuế tiêu thụ
được áp dụng chung, dựa trên giá trị tăng thêm của hàng hóa và dịch vụ. Nó được áp
dụng nhiều hay ít với tất cả các loại hàng hóa và dịch vụ được mua, bán để sử dụng
hoặc tiêu thụ trong toàn Liên minh Châu Âu. Do đó, hàng hóa được bán để xuất khẩu
hoặc dịch vụ được bán cho khách hàng ở nước ngoài thường không phải chịu thuế
GTGT. Ngược lại, hàng hóa nhập khẩu bị đánh thuế GTGT để giữ công bằng cho các
nhà sản xuất EU, để họ có thể cạnh tranh bình đẳng trên thị trường Châu Âu với các
nhà cung cấp nằm ngoài Liên minh. [44]
Tại Việt Nam, theo quan điểm của một số học giả, xét về bản chất, thuế GTGT là
loại thuế gián thu. Các nhà sản xuất, kinh doanh và cung cấp dịch vụ là người nộp
thuế nhưng thực chất người tiêu dùng lại là người chịu thuế thông qua giá cả hàng
hóa, dịch vụ. Điều này giúp cho cơ quan quản lý thu thuế GTGT tránh được sự phản
ánh gay gắt về thuế. Bên cạnh đó thuế GTGT cũng ảnh hưởng đến sức mua của công
chúng do phần thuế này đã được cấu thành trong giá bán của hàng hóa, cung cấp dịch
vụ cho người tiêu dùng. Những phân tích này cho thấy việc áp dụng thuế GTGT tại
các quốc gia cần phải cân nhắc tính phù hợp, những yếu tố ảnh hưởng của loại thuế
này cho nền kinh tế. [19]
Tóm lại, thuế GTGT thường được dùng để chỉ một loại thuế gián thu, đánh vào
việc sử dụng thu nhập, tức đánh vào việc tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ mà cụ thể là
đánh vào hành vi chuyển giao tài sản và cung cấp dịch vụ phát sinh trong quá trình sản
xuất, lưu thông, tiêu dùng thông qua việc mua bán, trao đổi hàng hóa và dịch vụ. Thuế
GTGT được cộng vào giá bán hàng hóa, dịch vụ, và người tiêu dùng phải chịu số thuế
đó khi mua hàng hóa, dịch vụ.
Cơ sở của thuế GTGT là khoản chênh lệch giữa các khâu mua bán, cung ứng
dịch vụ, tức là phần giá trị tăng thêm của hàng hóa trong quá trình sản xuất và tiêu

dùng. Một trong những nguyên tắc cơ bản của thuế GTGT là sản phẩm, hàng hoá dù
qua nhiều khâu hay ít khâu từ sản xuất đến tiêu dùng, đều chịu thuế như nhau.

8


Đây là một loại thuế gián thu, vì thế thuế GTGT do người tiêu dùng chịu nhưng
không phải do người tiêu dùng trực tiếp nộp mà là do người bán sản phẩm (hoặc dịch
vụ) nộp thay vào kho bạc, do trong giá bán hàng hoá (hoặc trong dịch vụ) có cả thuế
giá trị gia tăng. Vì qua từng công đoạn, thuế GTGT đã được người bán đưa vào giá
hàng hoá, dịch vụ, cho nên thuế này được chuyển toàn bộ cho người mua hàng hoá
hoặc sử dụng dịch vụ cuối cùng chịu.
Với ưu điểm của thuế GTGT là Nhà nước chỉ thu thuế đối với phần giá trị tăng
thêm của các sản phẩm ở từng khâu sản xuất, lưu thông mà không thu thuế đối với
toàn bộ doanh thu phát sinh, nếu như không có các sự kiện biến động về tài chính, tiền
tệ, sản xuất và lưu thông giảm sút, yếu kém, kinh tế suy thoái và các nguyên nhân
khác tác động thì việc áp dụng thuế GTGT thay cho thuế doanh thu sẽ không ảnh
hưởng gì đến giá cả các sản phẩm tiêu dùng, mà trái lại giá cả càng hợp lý hơn, chính
xác hơn vì tránh được thuế chồng lên thuế.
Việc áp dụng thuế GTGT đã góp phần ổn định giá cả, mở rộng lưu thông hàng
hoá, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển và đẩy mạnh xuất khẩu. Nhìn chung trong
các loại thuế gián thu, thuế GTGT được coi là phương pháp thu tiến bộ nhất hiện nay,
được đánh giá cao do đạt được các mục tiêu lớn của chính sách thuế, như tạo được
nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, đơn giản, trung lập..., cụ thể:
-

Thuế GTGT góp phần lành mạnh hóa nền kinh tế, tạo nên sự cạnh tranh

bình đẳng giữa các chủ thể khi nó bắt buộc các chủ thể phải sử dụng hệ thống hóa đơn
chứng từ.

Thuế GTGT giúp nhà nước kiểm soát được hoạt động, sản xuất, nhập
khẩu, kinh doanh hàng hóa nhờ kiểm soát được hệ thống hóa đơn, chứng từ, khắc
phục được nhược điểm của thuế doanh thu là trốn thuế. Qua đó, còn cung cấp cho
công tác nghiên cứu, thống kê những số liệu quan trọng.
Thuế GTGT góp phần bảo hộ nền sản xuất trong nước một cách hợp lý
thông qua việc đánh thuế GTGT hàng nhập khẩu ngay từ khi nó xuất hiện trên lãnh

9


thổ Việt Nam; bên cạnh đó thuế GTGT đánh vào hàng hóa xuất khẩu nhằm tạo ra thuế
GTGT đầu ra để được hoàn thuế GTGT.
1.1.2. Căn cứ tính thuế GTGT
Căn cứ tính thuế giá trị gia tăng là giá tính thuế và thuế suất.
-

Giá tính thuế giá trị gia tăng: Giá tính thuế được xác định tuỳ theo loại

hàng hoá, dịch vụ theo quy định của pháp luật từng quốc gia.
Tham khảo kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới cho thấy giá tính thuế
GTGT là giá cuối cùng bao gồm tất cả các các loại thuế gián thu, các khoản phí, lệ phí
thu vào hàng hóa và dịch vụ đó do người mua phải trả mà chưa bao gồm thuế GTGT.
Theo đó, đối với hàng sản xuất trong nước là giá hàng hóa bán ra (chưa bao gồm
thuế GTGT). Ví dụ ở Thái Lan, ô tô nhập khẩu phải chịu thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ
đặc biệt và một loại thuế địa phương có tên gọi là interior tax (áp dụng ở mức tương
đương 10% số thuế TTĐB phải nộp), khi đó giá tính thuế GTGT là giá nhập khẩu
cộng với tất cả các loại thuế này. Tương tự, ở Đài Loan, giá tính thuế GTGT đối với
thuốc lá bao gồm thuế tiêu tiêu thụ đặc biệt và khoản phụ thu sức khỏe và phúc lợi
đánh vào thuốc lá (health and wealfare surcharges).
Đối với những quốc gia có áp dụng thuế môi trường, giá tính thuế GTGT đối với

những mặt hàng chịu thuế môi trường là giá đã có thuế môi trường, ví dụ ở Nam Phi,
kể từ năm 2010, khi phí khí thải CO2 được áp dụng, giá tính thuế được quy định có
bao gồm cả mức phí này. Các nước trong khu vực EU có áp dụng quy định tương tự,
giá tính thuế GTGT đối với hàng hóa chịu thuế môi trường là giá có bao gồm thuế môi
trường.
-

Thuế suất thuế giá trị gia tăng: Thuế suất là mức thuế phải nộp trên một

đơn vị khối lượng chịu thuế. Định mức thu thuế (tỉ lệ %) tính trên khối lượng thu nhập
hoặc giá trị tài sản chịu thuế.

10


Khi ban hành luật thuế GTGT, các nước thường lựa chọn thực hiện chế độ nhiều
mức thuế suất hoặc chế độ một thuế suất (không tính mức thuế suất 0% áp dụng đối
với hàng xuất khẩu). Khi ban hành thuế suất thuế GTGT thường dựa trên những tiêu
chí cơ bản: thứ nhất, mức thuế suất được ban hành phải tạo nguồn thu ổn định và
chiếm tỉ trọng mong muốn trong tổng thu ngân sách Nhà nước. Thứ hai, là loại thuế
tiêu dùng, mức thuế suất phải có khả năng định hướng tiêu dùng trong dân cư. Thứ ba,
qua các mức thuế suất áp dụng cho các hàng hóa thuộc diện chịu thuế, Nhà nước thực
hiện một số chính sách khuyến khích, thay đổi đầu tư trong nền kinh tế.
Hiện nay các nước áp dụng thuế GTGT có sự khác nhau trong việc thiết kế mức
thuế suất và số lượng thuế suất trong đạo luật thuế giá trị gia tăng.
Một số nước thực hiện cơ cấu một mức thuế suất như Ðan Mạch (22 %), Nhật
Bản, Singapore (3%), Italia (38%)... Một số nước khác thực hiện cơ cấu nhiều thuế
suất như: Bỉ, Colombia (6 mức thuế suất), Pháp (5 mức thuế suất)... Theo thông lệ
chung, Luật thuế gía trị gia tăng của các nước thường áp dụng thuế suất 0% đối với
hàng hóa xuất khẩu và một số hàng hoá thiết yếu đối với đời sống của dân cư.

1.1.3. Phương pháp tính thuế giá trị gia tăng:
a. Phương pháp khấu trừ thuế:
Phương pháp khấu trừ thuế áp dụng đối với cơ sở kinh doanh thực hiện đầy đủ
chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật về kế toán, hoá đơn,
chứng từ và đăng ký nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế.
Số thuế giá trị gia tăng phải nộp bằng (=) thuế giá trị gia tăng đầu ra trừ (-)
thuế giá trị gia tăng đầu vào được khấu trừ.
Thuế giá trị gia tăng đầu ra bằng (=) giá tính thuế của hàng hoá, dịch vụ chịu
thuế bán ra nhân (x) với thuế suất thuế giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ đó.

11


Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng tính thuế theo phương pháp này phải tính
và thu thuế giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ bán ra. Khi lập hoá đơn bán hàng
hoá, cung cấp dịch vụ cơ sở kinh doanh phải ghi rõ giá bán chưa có thuế, thuế giá trị
gia tăng và số tiền người mua phải thanh toán. Trường hợp hoá đơn chỉ ghi giá thanh
toán, không ghi giá chưa có thuế và thuế giá trị gia tăng thì thuế giá trị gia tăng của
hàng hoá, dịch vụ bán ra phải tính trên giá thanh toán ghi trên hoá đơn, chứng từ.
- Thuế giá trị gia tăng đầu vào bằng tổng số thuế giá trị gia tăng ghi trên hoá đơn
giá trị gia tăng mua hàng hoá, dịch vụ hoặc chứng từ nộp thuế giá trị gia tăng hàng
hoá nhập khẩu dùng vào sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế giá trị gia
tăng.
Thuế giá trị gia tăng đầu vào được tính khấu trừ quy định như sau:
- Thuế đầu vào của hàng hoá, dịch vụ dùng vào sản xuất, kinh doanh hàng hoá,
dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng thì được khấu trừ.
- Thuế đầu vào của hàng hoá, dịch vụ được khấu trừ phát sinh trong tháng nào
được kê khai khấu trừ khi xác định thuế phải nộp của tháng đó không phân biệt đã
xuất dùng hay còn để trong kho.
Phương pháp khấu trừ thuế áp dụng chung cho các tổ chức kinh doanh trừ các

đối tượng áp dụng tinh thuế theo phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng.
b. Phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng:
Phương pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT áp dụng cho cơ sở kinh doanh và tổ
chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh không có cơ sở thường trú tại Việt Nam nhưng
có thu nhập phát sinh tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, hoá đơn,
chứng từ; Hoạt động mua bán vàng, bạc, đá quý.

12


Theo phương pháp này, số thuế giá trị gia tăng phải nộp bằng giá trị gia tăng
của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế nhân (x) với thuế suất thuế giá trị gia tăng của loại
hàng hoá, dịch vụ đó.
Giá trị gia tăng bằng giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ bán ra trừ giá thanh
toán của hàng hoá, dịch vụ mua vào tương ứng.
1.2. Những vấn đề cơ bản về khấu trừ thuế GTGT
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm khấu trừ thuế GTGT
Theo quan điểm của các học giả Pháp, đối với phần thuế GTGT phải trả trong
quá trình mua hàng hóa và dịch vụ nhằm mục đích trung gian tiêu thụ, hình thành số
vốn cố định hoặc để bán lại, nhà sản xuất được phép khấu trừ trách nhiệm thuế GTGT
của mình cho Chính phủ đối với thuế GTGT ghi trên hóa đơn của khách hàng của
mình. [43]
Quyền khấu trừ thuế GTGT là quyền của người nộp thuế trong yêu cầu được các
cơ quan thuế hoàn lại số tiền thuế GTGT đã trả khi hàng hóa, dịch vụ được mua lại.
Thuế GTGT được khấu trừ bằng cách trừ đi số tiền được khấu trừ từ thuế GTGT phải
nộp trong số thuế GTGT phải nộp thường xuyên của chủ thể đó.[44]
Từ phương pháp tính thuế bằng khấu trừ thuế GTGT đầu vào, doanh nghiệp
được phép lấy phần thuế giá trị gia tăng đầu ra trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào được
khấu trừ. Nếu kết quả là số dương thì đó chính là số thuế giá trị gia tăng phải nộp cho
Ngân sách nhà nước trong tháng hoặc quý. Nếu kết quả là một số âm thì được chuyển

bù trừ vào số thuế giá trị gia tăng phải nộp của tháng hoặc quý tiếp theo hay đề nghị
cơ quan thuế hoàn lại theo quy định của pháp luật. Xác định nghĩa vụ thuế theo
phương pháp khấu trừ hoàn toàn loại trừ khả năng tính thuế chồng lên thuế. Bởi lẽ,
cách tính thuế dựa vào hóa đơn đảm bảo xác định thuế có cơ sở và căn cứ để kiểm tra
thuế do giá tính thuế, thuế suất cũng như số thuế phải nộp được thể hiện rõ ràng trên

13


hóa đơn. Như vậy, có thể hiểu Khấu trừ thuế GTGT là việc xác định số thuế giá trị gia
tăng phải nộp trong kỳ tính thuế trên cơ sở thuế GTGT đầu ra và đầu vào của doanh
nghiệp/ cơ sở kinh doanh.
Đặc điểm khấu trừ thuế giá trị gia tăng được thể hiện:
Thứ nhất, phần thuế giá trị gia tăng được khấu trừ là số thuế được xác định một
cách trực tiếp, là hiệu số thuế của các khâu trong quá trình sản xuất lưu thông mà
không phải phần giá trị gia tăng được xác định trực tiếp qua các khâu. Trên nguyên
tắc, không phải bất cứ thuế giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ mua vào nào cũng
được khấu trừ mà chỉ có thuế giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho hoạt
động SXKD hàng hóa, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng mới được khấu trừ.
Thứ hai, căn cứ để xác định số thuế giá trị gia tăng đầu vào được khấu trừ là số
thuế giá trị gia tăng ghi trên hóa đơn giá trị gia tăng khi mua hàng hóa, dịch vụ hoặc
chứng từ nộp thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa nhập khẩu hoặc chứng từ nộp thuế
giá trị gia tăng thay cho phía nước ngoài theo hướng dẫn của Bộ Tài chính áp dụng đối
với các tổ chức nước ngoài không có tư cách pháp nhân Việt Nam và cá nhân nước
ngoài kinh doanh hoặc có thu nhập phát sinh tại Việt Nam. Trường hợp hàng hóa, dịch
vụ mua vào không có hóa đơn giá trị gia tăng hoặc hóa đơn giá trị gia tăng không
đúng theo quy định của pháp luật thì cơ sở kinh doanh không được khấu trừ thuế. Như
vậy, khấu trừ thuế giá trị gia tăng chỉ áp dụng đối với cơ sở kinh doanh nộp thuế giá trị
gia tăng theo phương pháp khấu trừ và có hóa đơn giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch
vụ mua vào phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Cơ sở kinh doanh nộp thuế

giá trị gia tăng theo phương pháp trực tiếp trên giá trị gia tăng hoặc cơ sở kinh doanh
nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ nhưng mua hàng hóa, dịch vụ của
cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp trực tiếp trên giá trị gia tăng (hóa đơn
bán hàng thông thường) thì không được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào.

14


Việc khấu trừ thuế GTGT có vai trò vô cùng quan trọng, thể hiện bước tiến bộ
của Luật thuế GTGT so với luật thuế doanh thu trước đây:
-

Chống thất thu thuế cho Nhà nước, do xác định đúng số thuế phải nộp ở

từng khâu
-

Đơn giản hóa quá trình quản lý và thu thuế, do số thuế phát sinh ở các

khâu được thể hiện rõ ràng qua hóa đơn, chứng từ.
-

Thúc đẩy các tổ chức kinh tế hạch toán theo chuẩn mực pháp luật.

1.2.2. Nguyên tắc khấu trừ thuế GTGT
Thuế GTGT đầu vào của hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT được khấu trừ toàn bộ.
Trường hợp hàng hóa có hao hụt tự nhiên do tính chất lý hóa trong quá trình vận
chuyển, bơm rót như xăng, dầu… thì được kê khai, khấu trừ số thuế GTGT đầu vào
của số lượng hàng hóa thực tế hao hụt tự nhiên không vượt quá định mức hao hụt theo

quy định. Số thuế GTGT đầu vào của số lượng hàng hóa hao hụt vượt định mức không
được khấu trừ, hoàn thuế.
Thuế GTGT đầu vào của hàng hóa, dịch vụ hình thành tài sản cố định là nhà ăn
ca, nhà nghỉ giữa ca, phòng thay quần áo, nhà để xe, nhà vệ sinh, bể nước phục vụ cho
người lao động trong khu vực sản xuất, kinh doanh và nhà ở, trạm y tế cho công nhân
làm việc trong các khu công nghiệp được khấu trừ toàn bộ.
-

Thuế GTGT đầu vào của hàng hóa, dịch vụ (kể cả tài sản cố định) sử dụng

đồng thời cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế và không chịu thuế
GTGT thì chỉ được khấu trừ số thuế GTGT đầu vào của hàng hóa, dịch vụ dùng cho
sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT. Cơ sở kinh doanh phải hạch
toán riêng thuế GTGT đầu vào được khấu trừ và không được khấu trừ; trường hợp
không hạch toán riêng được thì thuế đầu vào được khấu trừ tính theo tỷ lệ (%) giữa

15


doanh thu chịu thuế GTGT so với tổng doanh thu của hàng hóa, dịch vụ bán ra không
hạch toán riêng được.
Cơ sở kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế và không chịu thuế GTGT hàng
tháng tạm phân bổ số thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ, tài sản cố định mua vào được
khấu trừ trong tháng, cuối năm cơ sở kinh doanh thực hiện tính phân bổ số thuế GTGT
đầu vào được khấu trừ của năm để kê khai điều chỉnh thuế GTGT đầu vào đã tạm
phân bổ khấu trừ theo tháng.
-

Thuế GTGT đầu vào của hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh


hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế GTGT thì không được khấu trừ.
Thuế GTGT đầu vào của tài sản cố định, máy móc, thiết bị, kể cả thuế
GTGT đầu vào của hoạt động đi thuê những tài sản, máy móc, thiết bị này và thuế
GTGT đầu vào khác liên quan đến tài sản, máy móc, thiết bị như bảo hành, sửa chữa
trong các trường hợp sau đây không được khấu trừ mà tính vào nguyên giá của tài sản
cố định hoặc chi phí được trừ theo quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và
các văn bản hướng dẫn thi hành:
+ Tài sản cố định chuyên dùng phục vụ sản xuất vũ khí, khí tài nguyên phục vụ
quốc phòng, an ninh; tài sản cố định, máy móc, thiết bị của các tổ chức tín dụng,
doanh nghiệp kinh doanh tái bảo hiểm, bảo hiểm nhân thọ, kinh doanh chứng khoán,
cơ sở khám, chữa bệnh, cơ sở đào tạo; tàu bay dân dụng, du thuyền không sử dụng
cho mục đích kinh doanh vận chuyển hàng hóa, hành khách, kinh doanh du lịch,
khách sạn.
+ Tài sản cố định là ô tô chở người từ 9 chỗ ngồi trở xuống (trừ ô tô sử dụng vào
kinh doanh vận chuyển hàng hóa, hành khách, kinh doanh du lịch, khách sạn) có trị
giá vượt trên 1,6 tỷ đồng (giá chưa có thuế GTGT) thì số thuế GTGT đầu vào tương
ứng với phần trị giá vượt trên 1,6 tỷ đồng không được khấu trừ.

16


- Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp
khấu trừ thuế được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào. Việc khấu trừ thuế giá trị gia
tăng đầu vào được quy định như sau:
+ Thuế đầu vào của hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá,
dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng thì được khấu trừ toàn bộ.
+ Thuế đầu vào của hàng hoá, dịch vụ dùng đồng thời cho sản xuất, kinh doanh
hàng hoá, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng và không chịu thuế giá trị gia tăng thì chỉ
được khấu trừ số thuế đầu vào của hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh
hàng hoá, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng.

+ Cơ sở kinh doanh phải hạch toán riêng thuế đầu vào được khấu trừ và không
được khấu trừ; trường hợp không hạch toán riêng thuế đầu vào được khấu trừ theo tỷ
lệ (%) giữa doanh số chịu thuế giá trị gia tăng so với tổ số doanh số bán ra.
+ Thuế đầu vào được khấu trừ phát sinh trong tháng nào được kê khai, khấu trừ
xác định số thuế phải nộp của tháng đó. Riêng thuế đầu vào của tài sản cố định được
khấu trừ lớn thì thực hiện khấu trừ dần hoặc được hoàn thuế.
+ Trường hợp cơ sở sản xuất, chế biến mua nông sản, lâm sản, thuỷ sản chưa qua
chế biến của người sản xuất mà không có hoá đơn giá trị gia tăng thì được tính khấu
trừ thuế đầu vào theo một tỷ lệ (%) tính trên gía trị hàng hoá mua vào như sau:
 Tỷ lệ 5% đối với sản phẩm trồng trọt thuộc các loại cây lấy nhựa,
lấy mủ, lấy dầu, miá cây, chè bắp tươi, luá, ngô, khoai, sắn; sản phẩm chăn
nuôi là gia súc, gia cầm; cá, tôm và các loại thuỷ sản khác.
 Tỷ lệ 3% đối với các loại sản phẩm là nông sản, lâm sản không quy
định trong nhóm được khấu trừ 5% trên đây.

17


Việc tính khấu trừ thuế hoặc hoàn thuế đầu vào đối với nông sản, lâm sản, thuỷ
sản mua vào quy định trên đây không áp dụng đối với trường hợp các sản phẩm này
được làm nguyên liệu sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu.
+ Trường hợp cơ sở kinh doanh mua hàng hoá, sử dụng dịch vụ có tính đặc thù
được dùng loại chứng từ ghi giá thanh toán là giá đã có thuế giá trị gia tăng thì căn cứ
vào giá đã có thuế và cách xác định giá không có thuế.
- Căn cứ để xác định số thuế đầu vào được khấu trừ quy định trên đây là:
+ Ðối với hàng hoá, dịch vụ mua vào là số tiền thuế giá trị gia tăng ghi trên hoá
đơn giá trị gia tăng mua hàng hoá dịch vụ.
+ Ðối với hàng hoá nhập khẩu là số tiền thuế giá trị gia tăng đã nộp ghi trên
chứng từ nộp thuế giá trị gia tăng hàng hoá nhập khẩu.
+ Ðối với hàng hoá là nông sản, lâm sản, thuỷ sản chưa qua chế biến mua của

người sản xuất được tính khấu trừ theo tỷ lệ (%) trên giá trị hàng hoá mua vào là giá
thực tế mua vào được kê vào bản kê hàng hoá mua vào do cơ quan thuế hướng dẫn.
+ Ðối với hàng hoá, dịch vụ mua vào là loại có tính đặc thù được dùng loại
chứng từ ghi giá thanh toán là giá đã có thuế giá trị gia tăng thì được căn cứ vào chứng
từ đó để tính số thuế đầu vào được khấu trừ.
1.3. Những vấn đề cơ bản về hoàn thuế GTGT
1.3.1. Khái niệm, đặc điểm hoàn thuế GTGT
Luật thuế GTGT năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2016 không đưa ra định nghĩa
khái niệm hoàn thuế GTGT. Tuy nhiên có thể xem xét khái niệm hoàn thuế GTGT
dưới nhiều góc độ khác nhau. Đứng ở địa vị nhà nước thì hoàn thuế là việc nhà nước
trả lại một số tiền cho cơ sở kinh doanh hay đối tượng nộp thuế trong một số trường

18


hợp nhất định mà đối tượng, cơ sở kinh doanh đó đã nộp tiền theo quy định của pháp
luật.
Đứng ở góc độ doanh nghiệp, hoàn thuế là việc doanh nghiệp nhận lại một số
tiền thuế nhất định theo quy định của pháp luật mà họ đã ứng trước cho nhà nước.
Đứng ở góc độ của cơ quan thuế, hoàn thuế là một công đoạn trong quy trình
quản lý thu thuế của cơ quan thuế.
Xét về bản chất, hoàn thuế giá trị gia tăng thể hiện qua các trường hợp sau:
Một là, Nhà nước trả lại cho NNT phần tiền thuế mà họ đã ứng ra khi mua hàng
hóa, dịch vụ (số tiền thuế này đã được người bán hàng nộp vào ngân sách nhà nước)
nhưng chưa được khấu trừ hết; hay nói cách khác là chưa thu lại được qua việc bán
hàng hóa, dịch vụ. Trạng thái chưa được khấu trừ hết này phát sinh từ các nguyên
nhân sau: Do thuế suất của hàng hóa, dịch vụ bán ra thấp hơn so với hàng hóa, dịch vụ
mua vào. Điển hình là hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu với thuế suất 0% khi bán ra. Khi
đó, số thuế giá trị gia tăng đầu ra bằng không; hay nói cách khác, đối tượng nộp thuế
không thu lại được đồng thuế giá trị gia tăng nào của người mua. Trong khi đó, hầu

hết các hàng hóa, dịch vụ mua vào đều có mức thuế suất lớn hơn 0% (ở Việt Nam hiện
nay là 5% và 10%). Lúc này, số thuế phải nộp của DN là số âm, thể hiện số thuế đã trả
thay cho người tiêu dùng khi mua hàng hóa, dịch vụ không thu lại được từ người mua
hàng. Lý do không thu lại được là do Nhà nước thực hiện theo đánh thuế theo điểm
đến - không thu thuế giá trị gia tăng đầu ra đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu. Do
vậy, trong trường hợp này, việc Nhà nước hoàn thuế cho cơ sở có hàng hóa xuất khẩu
là đương nhiên. Đó chính là việc Nhà nước trả lại số tiền thuế mà đối tượng nộp thuế
đã ứng ra khi mua hàng để nộp thay cho người tiêu dùng, song người tiêu dùng lại
không phải trả thuế.

19


Do trong kỳ kinh doanh, số lượng hàng hóa, dịch vụ bán ra ít hơn so với số
lượng hàng hóa, dịch vụ mua vào nhiều. Theo luật thuế giá trị gia tăng, thuế giá trị gia
tăng đầu vào phát sinh tháng nào được kê khai, khấu trừ hết trong tháng đó, không kể
hàng hóa đã xuất dùng hay còn để tồn kho. Lúc này, số thuế giá trị gia tăng đầu vào
mà cơ sở kinh doanh đã ứng ra khi mua hàng hóa, dịch vụ nhưng chưa thu lại được
qua việc bán hàng hóa, dịch vụ. Do vậy, việc Nhà nước hoàn thuế giá trị gia tăng cho
đối tượng nộp thuế thể hiện việc trả lại phần thuế đã ứng trước, giúp cơ sở kinh doanh
không bị ứ đọng vốn. Do giá bán hàng hóa của cơ sở kinh doanh thấp hơn giá mua
vào của hàng hóa vì một lí do nào đó. Khi bán hàng hóa, dịch vụ, cơ sở kinh doanh chỉ
thu lại được một phần tiền thuế đã ứng ra khi mua hàng hóa, dịch vụ. Còn một phần
tiền thuế giá trị gia tăng tương ứng với phần bán lỗ không thu lại được. Khi đó, Nhà
nước hoàn thuế lại cho DN thể hiện thuế giá trị gia tăng chỉ tính trên phần giá trị gia
tăng của hàng hóa, dịch vụ; phần thuế đã trả quá giá trị gia tăng ở khâu mua hàng
được trả lại cho cơ sở kinh doanh.
Hai là, Nhà nước trả lại cho đối tượng nộp thuế số thuế giá trị gia tăng đã nộp
thừa vì những lí do nhất định, chẳng hạn như tính toán nhầm lẫn, kê khai sai hay kết
thúc hoạt động kinh doanh (giải thể, phá sản, chia tách, sáp nhập...). Trong trường hợp

này, cơ sở kinh doanh đã nộp thuế nhiều hơn số thuế phải nộp theo luật định nên họ có
quyền yêu cầu hoàn lại số thuế nộp thừa.
Ba là, Nhà nước trả lại cho tổ chức, cá nhân mua hàng với số thuế giá trị gia tăng
đã trả khi mua hàng hóa, dịch vụ trong trường hợp việc tiêu dùng của cá nhân, tổ chức
không thuộc diện chịu thuế hoặc hưởng ưu đãi (như người nước ngoài mang hộ chiếu
hoặc giấy tờ nhập cảnh do cơ quan có thẩm quyền nước ngoài cấp được hoàn thuế đối
với hàng hoá mua tại Việt Nam mang theo người khi xuất cảnh). Trường hợp này thể
hiện việc Nhà nước không thu thuế giá trị gia tăng một đối tượng tiêu dùng nào đó.
Nếu việc không thu thuế vào những đối tượng này thực hiện thông qua việc không thu
vào người bán hàng để người bán hàng bán cho người mua hàng với giá không có thuế

20


giá trị gia tăng thì rất khó quản lý. Để đảm bảo đúng đối tượng không thu thuế giá trị
gia tăng, Nhà nước thực hiện hoàn thuế theo số thuế ghi trên hóa đơn giá trị gia tăng
khi mua hàng hóa, dịch vụ. Như vậy, hoàn thuế giá trị gia tăng là hệ quả của số thuế
giá trị gia tăng đầu vào chưa được khấu trừ hết hoặc số thuế đã nộp thừa trong một
hay nhiều kỳ tính thuế. Nhà nước sẽ thực hiện hoàn trả số thuế giá trị gia tăng đã nộp
vượt quá của chủ thể nộp thuế nhưng trên cơ sở đề nghị của các tổ chức, cá nhân. Tổ
chức, cá nhân để được hoàn thuế phải xác định số tiền thuế được hoàn theo từng
trường hợp và thực hiện các thủ tục hoàn thuế theo quy định của Luật thuế giá trị gia
tăng và Luật quản lý thuế.
Tóm lại, hoàn thuế GTGT là “Việc cơ quan thuế ra quyết định trả lại số tiền thuế
GTGT đã nộp vượt quá của chủ thể nộp thuế”. Nói cách khác, trong một số trường
hợp luật định, Nhà nước hoàn lại số thuế mà chủ thể nộp thuế đã nộp vào ngân sách
Nhà nước. Các trường hợp được hoàn thuế được quy định cụ thể theo Pháp luật của
từng Quốc gia.
1.3.2. Vai trò và ý nghĩa của hoàn thuế GTGT
Hoàn thuế GTGT có ý nghĩa rất lớn không chỉ đối với các cơ quan, tổ chức,

doanh nghiệp, mà còn có ý nghĩa trong sự phát triển chung của nền kinh tế. Có thể
thấy vai trò của việc hoàn thuế GTGT thể hiện như sau:
Đầu tiên, Hoàn thuế GTGT giúp phát huy tính tự giác của các doanh nghiệp. Bởi
điều kiện để được hoàn thuế GTGT là DN bắt buộc phải thực hiện đầy đủ chế độ hóa
đơn chứng từ, ghi rõ thuế đầu vào, đầu ra để cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm căn
cứ xét hoàn thuế. Do đó, Hoàn thuế GTGT đã góp phần hoàn thiện đội ngũ kế toán
cho DN, thúc đẩy các DN tự giác thực hiện đầy đủ các yêu cầu, thủ tục về thuế với cơ
quan có thẩm quyền.

21


Thứ hai, Hoàn thuế GTGT còn có thể tạm thời giúp đỡ các doanh nghiệp về mặt
tài chính khi họ gặp khó khăn, nhất là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thường
xuyên gặp khó khăn về tài chính.
Thứ ba, Hoàn thuế GTGT góp phần khuyến khích hoạt động xuất khẩu phát
triển. Việc hoàn thuế đầu vào tức là hàng hóa xuất khẩu được hưởng thuế 0%, việc
này giúp tạo điều kiện để các doanh nghiệp trong nước có thể cạnh tranh với hàng hóa
trên thị trường quốc tế.
Thứ tư, Hoàn thuế GTGT còn có ý nghĩa rất lớn đối với các doanh nghiệp sử
dụng vốn ODA, góp phần thúc đẩy thu hút đầu tư nước ngoài, giải quyết khó khăn cho
các doanh nghiệp. Việc đẩy mạnh thu hút vốn đã thể hiện vai trò của hoàn thuế GTGT
nói riêng, thuế GTGT nói chung trong tiến trình hội nhập thế giới.
1.3.3. Phương thức giải quyết tranh chấp trong hoàn thuế GTGT
1.3.3.1.

Xung đột giữa người nộp thuế và cơ quan thuế

Xuất phát từ quan niệm cho rằng tranh chấp thuế là tranh chấp trong lĩnh vực
thuế nên tranh chấp thuế được hiểu là sự mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích giữa các

bên tham gia quan hệ pháp luật thuế, hay có thể nói tranh chấp thuế là tình trạng pháp
lý đặc biệt của quan hệ pháp luật giữa NNT với người thu thuế, trong đó các bên bày
tỏ ra bên ngoài thế giới khách quan những bất đồng, xung đột, mâu thuẫn về ý chí,
quyền và lợi ích hợp pháp của mình bằng hành vi khiếu nại hay khởi kiện theo quy
định của pháp luật.
Tranh chấp thuế phân biệt với các tranh chấp khác dựa trên những đặc điểm sau :
a. Về chủ thể của quan hệ tranh chấp về thuế
Chủ thể của quan hệ pháp luật thuế bao gồm NNT và người thu thuế. Người thu
thuế là các cơ quan quản lý thuế và các cán bộ, công chức ngành thuế, NNT là các tổ

22


chức, cá nhân có nghĩa vụ về thuế đối với nhà nước. Hai chủ thể này là hai bên trong
tranh chấp khi quyền và lợi ích của họ xung đột với nhau. Khi NNT cho rằng quyền
lợi của họ bị xâm hại bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính sai trái về thuế
của cơ quan thuế, cán bộ, công chức ngành thuế thì họ có quyền khiếu nại tới người đã
trực tiếp ra quyết định hay thực hiện hành vi này.
b. Về đối tượng của tranh chấp thuế
Đối tượng của tranh chấp chính là các quyền và lợi ích hợp pháp của NNT. Khi
những quyền đó bị xâm hại bởi cơ quan thuế, cán bộ, công chức ngành thuế thì NNT
có quyền khiếu nại hay khởi kiện về vấn đề này. Mặt khác, đối tượng của tranh chấp
thuế còn là những lợi ích liên quan đến số tiền thuế hay số tiền phạt vi phạm về thuế.
Số tiền thuế có thể được xác định theo phương pháp kê khai hay ấn định thuế. Khi cơ
quan ấn định số tiền thuế nhiều hơn số thuế thực tế phải nộp hoặc số tiền phạt vi phạm
không đúng thì có thể sẽ phát sinh tranh chấp nếu NNT phát hiện ra vi phạm.
c. Cơ sở pháp lý để làm phát sinh, áp dụng giải quyết các tranh chấp thuế
Cơ sở pháp lý chính là các văn bản pháp luật về thuế và những văn bản pháp luật
khác có liên quan như luật khiếu nại tố cáo và pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ
án hành chính đã được sửa đổi bổ sung.

Khác với tranh chấp về hợp đồng, tranh chấp thuế chỉ được giải quyết theo thủ
tục hành chính hay tố tụng tại toà, các bên không có quyền tự thoả thuận về một cơ
chế khác để giải quyết.
d. Về bản chất của tranh chấp thuế
Tranh chấp thuế là một loại tranh chấp hành chính, trong đó đối tượng của quyền
khiếu nại là các quyết định hành chính và hành vi hành chính về thuế. Loại tranh chấp
này là loại tranh chấp hành chính điển hình và khá đặc thù so với các tranh chấp khác.

23


e. Phân loại tranh chấp thuế
Hiện nay, có nhiều tiêu chí để phân loại tranh chấp thuế nhưng căn cứ vào quá
trình thu, nộp thuế của các chủ thể, đối tượng của tranh chấp trong quan hệ pháp luật
thuế, có thể phân loại tranh chấp thuế thành tranh chấp về thủ tục và tranh chấp về số
thu.
Ngoài ra, căn cứ vào chủ thể có thể phân loại tranh chấp thuế thành tranh chấp
giữa cá nhân với cơ quan quản lý thuế và tranh chấp giữa tổ chức với cơ quan quản lý
thuế. Các tổ chức này thưòng là các doanh nghiệp có hoạt động sản xuất kinh doanh
phải chịu thuế, liên quan đến thuế xuất nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập
doanh nghiệp và nhiều loại thuế khác.
f. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thuế
Cũng giống như việc giải quyết các tranh chấp khác, tranh chấp thuế được giải
quyết trên cơ sở những nguyên tắc nhất định. Các nguyên tắc này là tổng thể những
qui phạm pháp luật, là những tư tưởng chỉ đạo làm cơ sở cho việc giải quyết tranh
chấp thuế. Xét về bản chất thì tranh chấp thuế cũng là một dạng tranh chấp hành
chính, do vậy các nguyên tắc giải quyết tranh chấp hành chính cũng chính là cơ sở,
tiền đề cho việc giải quyết các tranh chấp thuế. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng các
nguyên tắc này các cơ quan nhà nước có thẩm quyền như cơ quan thuế, toà án phải
quan tâm đến những nét đặc thù của lĩnh vực thuế để áp dụng một cách phù hợp.

-

Nguyên tắc tôn trọng quyền tự vệ của NNT

-

Nguyên tắc tôn trọng pháp luật

-

Nguyên tắc tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của NNT

g. Các phương thức giải quyết tranh chấp thuế

24


Thực tiễn giải quyết tranh chấp của các nước trên thế giới hiện nay cho thấy dù
tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực nào cũng được giải quyết bằng nhiều con đường
khác nhau mà trước hết là ưu tiên giải quyết bằng cơ chế tự thương lượng hoặc hoà
giải giữa các bên, nếu không được thì tiến hành giải quyết tại toà án. Hiện nay, việc
giải quyết tranh chấp thuế ở Việt Nam cũng được thực hiện theo các phương thức đó
là giải quyết khiếu nại về thuế và giải quyết vụ án hành chính về thuế.
-

Khiếu nại về thuế

“Khiếu nại” là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ
tục do luật này quy định đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại
quyết định hành chính, hành vi hành chính khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc

hành vi hành chính đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Như vậy, khiếu nại là biểu hiện của những bất đồng xảy ra giữa cá nhân hay tổ
chức với bên kia là cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong tranh chấp thuế giữa NNT và cơ
quan quản lý thuế được thực hiện theo quy định của luật khiếu nại tố cáo. Theo cơ chế
này thì các bên bắt buộc phải tuân thủ các thủ tục đã quy định trong luật và không
được phép tự thoả thuận để thay đổi bất cứ một thủ tục nào.
+ Đối tượng bị khiếu nại là các quyết định hành chính, hành vi hành chính về
thuế của cơ quan quản lý thuế.
+ Chủ thể thực hiện quyền khiếu nại là người bị tác động bởi quyết định hành
chính, hành vi hành chính mà họ cho là sai trái. Người bị khiếu nại là cơ quan hay
người đã trực tiếp ra quyết định hành chính hay thực hiện hành vi hành chính đó.

25


×