Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Người kể chuyện trong truyện ngắn nguyễn thị thu huệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 102 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------------

NGUYỄN THỊ NHÀN

NGƢỜI KỂ CHUYỆN TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN THỊ THU HUỆ

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Hà Nội - 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------------

NGUYỄN THỊ NHÀN

NGƢỜI KỂ CHUYỆN TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN THỊ THU HUỆ

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8229030.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Đoàn Đức Phƣơng

Hà Nội - 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là kết quả của quá trình nghiên cứu trung
thực và nghiêm túc của tôi. Trong quá trình nghiên cứu, triển khai đề tài, tôi
có sử dụng các tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Tuy nhiên, đó chỉ là
những gợi ý khoa học cần thiết để tôi tham khảo, phát triển ý tưởng của mình.
Những tư liệu được sử dụng trong luận văn đều được trích dẫn nguồn rõ ràng,
cụ thể.
Hà Nội, ngày 20 tháng 2 năm 2020
Học viên

Nguyễn Thị Nhàn


LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian vừa qua, được sự giúp đỡ của các thầy, cô giáo cùng
gia đình và bạn bè, tôi đã hoàn thành luận văn với đề tài “Người kể chuyện
trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong Ban Giám Hiệu,
Phòng đào tạo sau đại học cùng toàn thể các thầy giáo, cô giáo trong khoa
Văn học trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã chỉ bảo tận tình và
tạo điều kiện tốt nhất cho tôi học tập và nghiên cứu tại trường.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến PGS.TS
Đoàn Đức Phương, người đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ và tạo điều kiện
thuận lợi để tôi có thể hoàn thiện luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình và bạn bè - những người đã luôn bên
cạnh hỗ trợ, động viên để tôi có thể hoàn thành việc học tập và thực hiện tốt
đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 20 tháng 2 năm 2020

Học viên

Nguyễn Thị Nhàn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Đối tượng, mục đích, phạm vi nghiên cứu .................................................... 6
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 6
5. Cấu trúc của luận văn .................................................................................... 7
Chương 1. KHÁI LƯỢC VỀ NGƯỜI KỂ CHUYỆN VÀ HÀNH TRÌNH
SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN THỊ THU HUỆ ................................................. 8
1.1. Khái lược về người kể chuyện ................................................................... 8
1.1.1. Khái niệm người kể chuyện ..................................................................... 8
1.1.2. Chức năng của người kể chuyện ........................................................... 13
1.2. Hành trình sáng tác của Nguyễn Thị Thu Huệ ........................................ 15
1.2.1. Vài nét về tiểu sử ................................................................................... 15
1.2.2. Sự nghiệp văn chương ........................................................................... 17
Chương 2. CÁC DẠNG THỨC NGHỆ THUẬT CỦA NGƯỜI KỂ CHUYỆN
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN THỊ THU HUỆ ................................. 21
2.1. Ngôi kể ..................................................................................................... 21
2.1.1. Khái niệm và phân loại ......................................................................... 21
2.1.2. Các hình thức ngôi kể trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ ........... 23
2.1.2.1. Người kể chuyện ở ngôi thứ nhất, cái tôi tự kể về mình .................... 25
2.1.2.2. Người kể chuyện ở ngôi thứ nhất, cái tôi kể chuyện người khác ....... 30
2.1.2.3. Người kể chuyện ở ngôi thứ ba .......................................................... 36
2.1.2.4. Sự đánh tráo ngôi kể .......................................................................... 38
2.2. Điểm nhìn ................................................................................................. 44

2.2.1. Khái niệm điểm nhìn và cách phân loại điểm nhìn ............................... 44
2.1.1.1. Khái niệm ........................................................................................... 44
2.1.1.2. Cách phân loại điểm nhìn .................................................................. 44


2.2.2. Điểm nhìn trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ ............................. 45
2.2.2.1. Điểm nhìn bên trong........................................................................... 45
2.2.2.2. Điểm nhìn bên ngoài .......................................................................... 50
2.2.2.3. Sự dịch chuyển điểm nhìn .................................................................. 52
Chương 3. NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN THỊ THU HUỆ ................................................ 65
3.1. Ngôn ngữ người kể chuyện ...................................................................... 65
3.1.1. Ngôn ngữ đời thường sắc sảo, góc cạnh ............................................... 66
3.1.2. Ngôn ngữ đằm thắm, dịu dàng .............................................................. 69
3.2. Giọng điệu người kể chuyện .................................................................... 73
3.2.1. Giọng điệu triết lí, suy tư ...................................................................... 74
3.2.2. Giọng điệu đay đả, tự vấn ..................................................................... 78
3.2.4. Giọng điệu lạnh lùng, khách quan ........................................................ 82
3.2.5. Giọng giễu nhại, mỉa mai ...................................................................... 85
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 92


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Người kể chuyện có một vị trí đặc biệt quan trọng trong tác phẩm tự sự.
Bởi bất cứ một câu chuyện nào, dù dài hay ngắn, dù đơn giản hay phức tạp, cũng
đều được kể bởi một “người” nào đó. Hơn thế nữa, cùng một câu chuyện nhưng
được kể bởi những người kể khác nhau thì sẽ mang bộ mặt và ý nghĩa khác
nhau. Bởi vậy sử dụng kiểu người kể chuyện nào để kể không phải là sự lựa

chọn ngẫu nhiên của tác giả mà hoàn toàn mang tính quan niệm nhằm mục đích
thể hiện nội dung, tư tưởng một cách hiệu quả và thuyết phục nhất. Nghiên cứu
vấn đề người kể chuyện một mặt sẽ mở ra một cánh cửa đi sâu khám phá thế
giới nghệ thuật của tác phẩm, mặt khác nó giúp ta thấy được cách thức tiếp cận,
lí giải hiện thực đầy tính cá nhân của tác giả. Nói như GS. Lê Ngọc Trà thì việc
nghiên cứu, tìm hiểu người kể chuyện vừa tạo điều kiện để “nhận thức quá trình
cá thể hóa và cá nhân hóa” [58, tr.155] trong hoạt động sáng tạo văn học của
người nghệ sĩ, vừa giúp chúng ta tiếp cận được với “sự thể hiện của ý thức nghệ
thuật, với cái nhìn của nhà văn trong tác phẩm” [58, tr.155].
Từ sau năm 1986, trong xu thế và không khí chung của văn học thời kỳ
đổi mới, truyện ngắn Việt Nam đã có bước phát triển mạnh mẽ và đạt được
nhiều thành tựu đáng khích lệ, trong đó phải đặc biệt kể đến những nỗ lực và
sự đóng góp của các nhà văn nữ. Với một đội ngũ khá đông đảo cùng với
những ưu thế riêng của giới mình, các nhà văn nữ Việt Nam từ 1986 đến 2000
đã đóng góp vào bức tranh đời sống văn học Việt Nam đương đại những màu
sắc và đường nét rất riêng. Trong bức tranh đa sắc đó, Nguyễn Thị Thu Huệ
nổi lên như một hiện tượng lạ, một phong cách độc đáo không thể trộn lẫn.
Gây ấn tượng ngay từ những tác phẩm đầu tiên dự thi cuộc thi truyện ngắn
của tạp chí Văn nghệ Quân đội, truyện ngắn của Thu Huệ luôn chiếm được sự
chú ý của độc giả và giới nghiên cứu. Tác phẩm của chị không chỉ hấp dẫn
độc giả ở khả năng phát hiện ra những bất ổn trong đời sống con người,
1


những mặt trái của xã hội mà còn ở cách đi sâu khám phá những góc khuất,
những ẩn ức trong tâm hồn con người. Để làm được điều này, nhà văn phải có
quan điểm mới mẻ về con người, về cuộc sống, có sự táo bạo đổi mới trong
cách viết, cách kể. Cho đến thời điểm hiện tại, đã có khá nhiều tác giả nghiên
cứu về truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, nhưng đi sâu tìm hiểu vấn đề người
kể chuyện nhằm nhận diện những đặc sắc trong lối kể, cách tiếp cận, lí giải

hiện thực của cây bút tài hoa này thì vẫn còn những khoảng trống. Từ những
yêu cầu cấp thiết trên, chúng tôi lựa chọn triển khai đề tài: “Người kể chuyện
trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ”.
2. Lịch sử vấn đề
Không lựa chọn, khai thác những vấn đề nóng bỏng, giật gân của xã hội
nhưng Thu Huệ lại rất sắc sảo khi khám phá, phát hiện những bất ổn trong
bức tranh đời sống ngay ở những điều bình thường nhất. Phần lớn những nhân
vật của chị là nữ nhưng đó không phải là những bà mẹ Việt Nam anh hùng,
những người phụ nữ trung hậu đảm đang mà là những con người bình thường
luôn trăn trở trong hành trình kiếm tìm tình yêu và hạnh phúc đích thực. Lý
Hoài Thu trong bài viết của mình đã ví hành trình đó giống như “những cuộc
săn đuổi” tình yêu, hạnh phúc. Và nhà nghiên cứu cũng khẳng định rằng: từ
thân phận con người trong những cuộc săn đuổi đó, Thu Huệ đã khám phá ra
biết bao bi kịch tình yêu cũng như những biểu hiện dị thường của nó.
Trong bài viết Thế hệ thứ ba, đăng trên tạp chí Văn nghệ Quân đội số 1
(1994), nhà văn Hồ Phương đã đánh giá rất cao về vốn sống, sự trải nghiệm
trong truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ. Sự sắc sảo ở mỗi tác phẩm của
Thu Huệ đã khiến Hồ Phương ngạc nhiên đến nỗi phải thốt lên rằng: Thu Huệ
cứ như một“con mụ phù thủy lão luyện đi guốc trong bụng người khác, ruột
gan người ta có gì, chị đều biết cả” [45].
Với Bùi Việt Thắng, ông quan tâm nhiều hơn đến phương diện đời
sống được phản ánh trong truyện ngắn của Thu Huệ: “Đời sống hiện lên trên
2


từng trang sách của chị bề bộn, ngổn ngang, ấy vậy mà ngẫm kĩ nó đâu vào
đấy. Nhà văn nghiêng viết về con người trong mối mâu thuẫn vừa kết dính với
gia đình như một “hang ổ cuối cùng”, lại vừa bị nhiều ngoại lực giằng xé, lôi
kéo. Thành ra phân thân, thành ra nhiều bi hài kịch” [53, tr.7]. Và trong bức
tranh cuộc sống đa màu đó, Bùi Việt Thắng đặc biệt chú ý đến số phận những

người phụ nữ qua những trang viết của Thu Huệ. Theo ông, đó chính là những
“thiên đường” và “hậu thiên đường” mà ở đó người phụ nữ đang “ráo riết đi
tìm hạnh phúc, mà hạnh phúc thì bao giờ cũng mong manh, dễ vỡ” [53, tr.7].
Không chỉ vậy, Bùi Việt Thắng còn chỉ ra giọng điệu rất riêng trong ngòi bút
của nhà văn nữ: “chao chát và dịu dàng, thơ ngây và từng trải, đớn đau và tin
tưởng” [53, tr.7]. Tất cả cứ trộn lẫn tạo nên tính đa cực của ngòi bút nữ có
duyên trong lĩnh vực truyện ngắn.
Năm 2012, Nguyễn Thị Thu Huệ ghi dấu sự trở lại của mình bằng giải
thưởng của Hội Nhà văn với tập truyện Thành phố đi vắng. Nhận xét về tập
truyện, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã chỉ ra vị trí đặc biệt của nó trong sự
nghiệp sáng tác của Nguyễn Thị Thu Huệ: “Thành phố đi vắng‟ thực sự làm
đầy thêm hồ sơ sáng tạo truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ và đặt
chị vào vị trí những nhà văn Việt Nam đương đại viết truyện ngắn tiêu biểu.
Đọc những truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ, ta nhận thấy đôi mắt của
nhà văn nhìn xuyên thẳng vào từng con người, từng ngôi nhà trong đời sống
này. Đó là một đôi mắt tinh tường không khoan nhượng, một đôi mắt sắc
lạnh, một đôi mắt nổi giận nhưng ứa lệ trước những điều đau buồn đang xảy
ra [54]. Đồng thời ông cũng nhấn mạnh sự cảnh báo về một xã hội hiện đại
vô cảm, ích kỉ và khả năng dự báo “một tội ác kinh hoàng hơn trong tương lai
nếu lương tâm con người không được đánh thức” [54] của tác phẩm. Nhật
Tuấn trong bài viết Xã hội trơ lì trong „Thành phố đi vắng‟ đã nhận xét về
không gian đời sống được miêu tả trong tập truyện là một không gian mà ở đó
đường thẳng đã bị bẻ cong, mặt người như biến dạng và thời gian như ngưng
3


đọng. Đồng thời nhà văn cũng khẳng định Thành phố đi vắng là “một tín hiệu
đáng mừng, một thành tựu mới” [57] trong văn xuôi hiện đại.
Không chỉ đề tài, nhân vật mà cách kể, ngôn ngữ trong truyện ngắn
Nguyễn Thị Thu Huệ cũng được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.

Trong bài Đọc hồi ức „Bến trần gian‟ đăng trên tạp chí Văn nghệ Quân
đội, Kim Dung đã nhận xét: “Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ luôn có hai
mặt - vừa “bụi bặm” trong tả chân, vừa trữ tình đằm thắm, văn của chị vừa
táo bạo vừa thanh khiết [11]. Tất cả những yếu tố đó đã tạo nên sự không
thuần nhất, không đơn giản, thậm chí còn đối chọi nhau trong văn chương của
Thu Huệ.
Hồ Sĩ Vịnh thì lại tìm hiểu truyện ngắn của Thu Huệ trên bình diện thi
pháp và chỉ ra văn chương của Thu Huệ đã vượt ra ngoài phương thức miêu tả
thông thường. Tác phẩm của chị có sự kết hợp giữa thực và hư, trần thế và ảo
mộng, chuyện hiện tại và chuyện dĩ vãng. Tất cả nhằm tái hiện một “cuộc
sống có dung tích, khai thác chiều sâu những góc khuất uẩn khúc “thế giới
bên trong” của con người” [59].
Đoàn Hương trong bài Những ngôi sao nước mắt đăng trên báo Văn
Nghệ trẻ số 2 (1996) lại có những lời nhận xét khá dí dỏm về lối viết của
Nguyễn Thị Thu Huệ. Người viết đã nhận định lối viết văn của Thu Huệ
giống như “lên đồng”. Trong tác phẩm của Huệ, dường như không phải nhà
văn kể mà là đang “lôi” chúng ta đi theo nhân vật. Cách kể độc đáo đó đã làm
nên nét riêng, không thể trộn lẫn của Nguyễn Thị Thu Huệ.
Dương Thị Thùy Chi khi nhận xét về tập truyện Thành phố đi vắng đã
nhấn mạnh “lối viết khách quan, trung tính, tiết chế cảm xúc tối đa, mỗi truyện
ngắn như một bản tường thuật đời sống” [9] của Nguyễn Thị Thu Huệ.
Mặc dù mới xuất hiện song với chất văn mới lạ, Thu Huệ sớm trở thành
đối tượng tìm hiểu của các luận án, luận văn thạc sĩ, khóa luận tốt nghiệp,…
Có thể kể đến một vài công trình tiêu biểu như: luận án Tiến sĩ Khảo sát lời
4


độc thoại nội tâm nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn
Huy Thiệp, Nguyễn Thị Thu Huệ của Lê Thị Sao Chi (Đại học Sư phạm
Vinh); Ngôn ngữ trần thuật của truyện ngắn Việt Nam sau 1975 (trên tư liệu

truyện ngắn ba nhà văn nữ) của Hoàng Dĩ Đình (Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn); luận văn Thạc sĩ Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ của
Triệu Thị Hiệp (Đại học Thái Nguyên), Nghệ thuật trần thuật trong truyện
ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ của Tống Thị Minh (Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn), Thế giới nhân vật nữ trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ của
Nguyễn Thị Thủy (Đại học sư phạm Hà Nội 2), Nhân vật và cốt truyện trong
truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ của Phạm Thị Vân (Đại học Sư phạm Hà
Nội 2), Quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện ngắn của Nguyễn
Thị Thu Huệ nhìn từ phương diện thể loại của Vũ Thị Tố Nga, Thế giới nhân
vật trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ của Vũ Thanh Tâm, Cảm hứng
thế sự, đời tư trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ của Nguyễn Thị Thêu
(Đại học sư phạm Hà Nội),…
Điểm lại các bài viết, công trình nghiên cứu, ta thấy truyện ngắn của
Nguyễn Thị Thu Huệ không chỉ có sức hút lớn đối với độc giả mà còn cả giới
nghiên cứu. Xu hướng chung của các công trình này là ca ngợi khả năng nắm
bắt, phản ánh hiện thực nhạy bén, sâu sắc, giàu tính trải nghiệm và giọng văn
đặc biệt không thể trộn lẫn của Thu Huệ. Tuy nhiên có thể nhận thấy việc đi
sâu tìm hiểu, nghiên cứu về người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Thị
Thu Huệ thì vẫn chưa có đề tài chuyên biệt nào. Chọn đề tài này, chúng tôi
dựa vào các thành tựu nghiên cứu của những người đi trước để triển khai, làm
nổi bật các dạng thức người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu
Huệ. Trên cơ sở đó, luận văn muốn chỉ ra phong cách riêng cũng như những
đóng góp của nhà văn với thể loại truyện ngắn nói riêng và với văn xuôi Việt
Nam đương đại nói chung.

5


3. Đối tƣợng, mục đích, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: vấn đề người kể chuyện trong truyện ngắn của

Nguyễn Thị Thu Huệ.
Đề tài Người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ được
triển khai nhằm những mục đích sau:
Hệ thống những ý kiến bàn về người kể chuyện từ đó đưa ra một cách
nhìn về vấn đề này.
Vận dụng những lí thuyết về người kể chuyện để khám phá các dạng
thức nghệ thuật của người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ.
Từ đó thấy được sự thành công cũng như những đóng góp riêng của nữ nhà
văn cho nền văn học đương đại.
Phạm vi nghiên cứu: Để hoàn thành đề tài luận văn, người thực hiện đã
khảo sát và nghiên cứu tổng số 57 truyện ngắn tiêu biểu của Nguyễn Thị Thu
Huệ qua ba nguồn tài liệu sau đây:
1 - 37 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, Nhà xuất bản Hội Nhà văn
xuất bản năm 2006 và tái bản năm 2010, gồm 37 truyện ngắn tiêu biểu của
Nguyễn Thị Thu Huệ.
2 - Thành phố đi vắng, Nhà xuất bản Trẻ xuất bản năm 2012, gồm
16 truyện.
3 - Của để dành, Nhà xuất bản Trẻ xuất bản năm 2017, gồm 46 truyện.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
cơ bản sau:
- Phương pháp hệ thống: áp dụng phương pháp này vào việc tìm hiểu
những yếu tố nghệ thuật làm nên diện mạo chung của người kể chuyện trong
truyện kể và phân tích mối liên hệ giữa chúng. Ngoài ra, phương pháp này
cũng được sử dụng để nhận diện cách thức xây dựng người kể chuyện trong

6


truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ trong tương quan với nghệ thuật xây dựng

hình tượng này của thời kì văn học đổi mới.
- Phương pháp so sánh: được sử dụng trong sự liên hệ với hình tượng
người kể chuyện trong truyện ngắn của các tác giả nữ và các tác giả nam cùng
thời để tìm ra nét đặc trưng của người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn
Thị Thu Huệ.
- Phương pháp thống kê: sử dụng phương pháp này để thống kê các
dạng thức ngôi kể và điểm nhìn làm cơ sở cho việc phân tích các đặc điểm
của người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: phân tích hình tượng người kể
chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ trên các phương diện: ngôi kể,
điểm nhìn, ngôn ngữ và giọng điệu. Từ đó, tổng hợp đánh giá về những đặc
điểm nổi bật của hình tượng người kể chuyện trong truyện ngắn của Thu Huệ.
- Phương pháp loại hình: bao quát đặc trưng thể loại truyện ngắn từ các
phương diện biểu hiện cụ thể trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ.
- Phương pháp tiếp cận từ lí thuyết tự sự học: sử dụng các lí thuyết tự
sự học như người kể chuyện, điểm nhìn, ngôi kể, giọng điệu,… để vận dụng
tìm hiểu người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ.
5. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính
của luận văn gồm 3 chương như sau:
- Chương 1. Khái lược về người kể chuyện và hành trình sáng tác của
Nguyễn Thị Thu Huệ.
- Chương 2. Các dạng thức nghệ thuật của người kể chuyện trong
truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ.
- Chương 3. Ngôn ngữ và giọng điệu người kể chuyện trong truyện
ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ.

7



Chƣơng 1
KHÁI LƢỢC VỀ NGƢỜI KỂ CHUYỆN
VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN THỊ THU HUỆ
1.1. Khái lƣợc về ngƣời kể chuyện
1.1.1. Khái niệm người kể chuyện
Người kể chuyện là một trong những vấn đề được chú ý đặc biệt trong
thi pháp văn xuôi hiện đại. Tuy nhiên cho đến nay khái niệm về người kể
chuyện vẫn chưa được các nhà lí luận văn học thống nhất hoàn toàn. Đặt nền
móng cho những cơ sở ban đầu về lí thuyết người kể chuyện là trường phái
hình thức Nga với các tên tuổi như I. Gruzdev, A. Veksler, B. Eikhembaum,
V.Shklovski,... Song phải đến những đại diện tiêu biểu của chủ nghĩa cấu trúc
như R. Barthes, Tz. Todorov, G. Genette, S. Chatman,... những quan niệm về
người kể chuyện mới được đưa ra một cách tương đối rõ ràng. Chúng tôi xin
trích dẫn một vài quan niệm tiêu biểu về người kể chuyện:
Theo quan niệm của G.N. Pospelov, người kể chuyện vừa là“người môi
giới giữa các hiện tượng được mô tả và người nghe (người đọc)” cũng vừa là
“người chứng kiến, cắt nghĩa các sự việc xảy ra” [51, tr.196].
Với W. Kayser, người kể chuyện là “một hình hài được sáng tạo ra
thuộc về toàn thể chỉnh thể tác phẩm văn học [51, tr.196]. Bên cạnh đó, nhà lí
luận còn chỉ ra mối quan hệ giữa người kể chuyện và tác giả thực ngoài đời khi
khẳng định rằng người kể chuyện “không bao giờ là vị tác giả đã hay chưa nổi
danh nhưng là cái vai mà tác giả bịa ra và đã chấp nhận” [51, tr.196].
Tz. Todorov lại đặc biệt đề cao vai trò của người kể chuyện trong tác
phẩm tự sự khi ông cho rằng nó là “một nhân tố chủ động” trong việc xây
dựng nên thế giới nghệ thuật. Và “không thể có trần thuật nếu thiếu người kể
chuyện” [51, tr.196-197].
Ở Việt Nam, một trong những người đầu tiên quan tâm đến vấn đề
người kể chuyện là giáo sư Trần Đình Sử. Trong quan niệm của mình, ông đã
8



đồng nhất hai khái niệm “người trần thuật” và “người kể chuyện” làm một.
Thế nhưng các tác giả của cuốn Từ điển thuật ngữ văn học lại có sự phân biệt
rạch ròi hai thuật ngữ này. Trong đó, người kể chuyện được giải thích là
“hình tượng ước lệ về người trần thuật trong tác phẩm văn học, chỉ xuất hiện
khi nào câu chuyện được kể bởi một nhân vật cụ thể trong tác phẩm” [22,
tr.221]. Và người kể chuyện khác với người trần thuật bởi người trần thuật là
“một nhân vật hư cấu hoặc có thật mà văn bản tự sự là do hành vi ngôn ngữ
của anh ta tạo thành” [22, tr.221]. Nhìn chung cả hai quan điểm của giáo sư
Trần Đình Sử và nhóm tác giả cuốn Từ điển thuật ngữ văn học về bản chất
đều giải thích về một đối tượng với vai trò, đặc điểm giống nhau. Có khác
chăng chỉ là mức độ lộ diện hay ẩn tàng của đối tượng đó trong tác phẩm mà
thôi. Trong luận văn này chúng tôi sử dụng đồng nhất hai khái niệm “người
kể chuyện” và “người trần thuật”.
Tổng hợp các ý kiến chúng ta thấy rằng hầu hết các nhà nghiên cứu đều
tập trung nghiên cứu người kể chuyện ở một số phương diện như vị trí, vai trò
và mối quan hệ với tác giả. Từ việc tổng hợp và kế thừa những quan điểm về
người kể chuyện của các nhà nghiên cứu trên, chúng tôi bước đầu xác lập
khái niệm người kể chuyện như sau:
Thứ nhất, người kể chuyện là một sản phẩm do nhà văn hư cấu, sáng
tạo ra. Anh ta thực chất là “sinh thể” trên giấy, tồn tại trong thế giới hư cấu,
tưởng tượng và chịu sự chi phối sâu sắc của tác giả. Tất cả các yếu tố của
người kể chuyện như vị trí, vai trò trong câu chuyện, thậm chí cả những yếu
tố cá nhân như tên tuổi, quê quán, nhân hình, nhân dạng, tư tưởng, tình cảm
đều không phải ngẫu nhiên mà đã được tác giả lựa chọn theo chủ ý của riêng
mình. Trong tác phẩm tự sự, người kể chuyện được trao quyền năng dẫn dắt
người đọc, tổ chức, kiểm soát câu chuyện và có nhiệm vụ trình bày quan
điểm, tư tưởng của nhà văn. Khác với những người kể chuyện trong cuộc
sống thực tế, những con người cụ thể, bằng xương bằng thịt, có thể điểu
9



chỉnh, sửa chữa câu chuyện theo thái độ của người nghe thì trong tác phẩm tự
sự, người kể chuyện phải đảm bảo mục đích truyền đạt của tác giả mà không
thể tùy ý thêm bớt hay sửa chữa.
Thứ hai, người kể chuyện là một “nhân vật đặc biệt” trong tác phẩm tự
sự. Nó không chỉ là nhân vật tham gia vào tác phẩm như các nhân vật khác
mà còn có chức năng tổ chức, đánh giá về nhân vật khác. Trong truyện ngắn
Lão Hạc của nhà văn Nam Cao, nhân vật ông giáo là người kể chuyện đồng
thời cũng chính là nhân vật tham gia vào diễn biến câu chuyện. Mọi nhân vật,
sự kiện đều được tái hiện dưới giọng kể của ông giáo. Không chỉ vậy, xuyên
suốt truyện ngắn, nhân vật này đã không ít lần trực tiếp thể hiện sự đánh giá
của mình đối với lão Hạc. Có khi là đau buồn, trách móc do hiểu lầm: “Hỡi ơi
lão Hạc! Thì ra đến lúc cùng lão cũng có thể làm liều như ai hết... Một người
đã khóc vì trót lừa một con chó!... Một người nhịn ăn để tiền lại làm ma bởi
không muốn liên lụy đến hàng xóm, láng giềng. Con người đáng kính ấy bây
giờ cũng theo gót Binh Tư để có ăn ư?” [8, tr.102-103]. Cũng có khi là sự
đồng cảm, khâm phục tấm lòng của một người cha thà chết cũng không chịu
ăn phạm vào một đồng tiền vườn của con: “Lão Hạc ơi! Lão hãy yên lòng mà
nhắm mắt! Lão đừng lo gì cho cái vườn của lão. Tôi sẽ cố giữ gìn cho lão.
Đến khi con trai lão về, tôi sẽ trao lại cho hắn và bảo hắn: “Đây là cái vườn
mà ông cụ thân sinh ra anh đã cố để lại cho anh trọn vẹn. Cụ thà chết chứ
không chịu bán đi một sào” [8, tr.103].
Vị trí của người kể chuyện thay đổi khá linh hoạt, tùy thuộc vào mục
đích và thái độ của tác giả. Trong một số trường hợp, người kể chuyện có thể
kể chuyện theo kiểu “khách quan hóa” với ngôi kể thứ ba. Ở trường hợp này
người kể chuyện không lộ diện, không can dự trực tiếp vào biến cố của cốt
truyện nhưng lại thường xuyên xuất hiện trong chính câu chuyện của anh ta
đang kể bằng những “lưu ý trần thuật”. Sự ẩn giấu của ngôi kể thứ ba khiến
nó gần như vô nhân xưng, người kể và câu chuyện được kể có sự độc lập

10


tương đối. Trong một số trường hợp khác, người kể chuyện kể diễn biến sự
việc theo kiểu “chủ quan hóa” với ngôi kể thứ nhất. Với trường hợp này,
người kể chuyện xuất hiện tường minh trong tác phẩm với tư cách là một
nhân vật trong tác phẩm, đứng cùng bình diện với các nhân vật khác. Người
kể chuyện lộ diện có thể được tác giả miêu tả cụ thể về tên tuổi, quên quán,
nghề nghiệp, hình dạng hay tính cách,…
Thứ ba, người kể chuyện và tác giả không phải là một. Bàn về điều
này, R. Barthers đã khẳng định: “Người kể chuyện và những nhân vật của
anh ta “bản chất là những thực thể trên mặt giấy”; tác giả (thực tế) của văn
bản không có điểm gì chung với người kể chuyện” [49, tr.106]. Tz. Todorov
cũng đồng tình khi cho rằng: “Người kể chuyện không thể được gọi tên; nếu
anh ta có tên thì sau cái tên đó không có ai cả” [49, tr.106]. Tất nhiên, ta
không hoàn toàn đồng ý với R. Barthers và Tz. Todorov khi cắt đứt hoàn toàn
mối quan hệ giữa nhà văn và người kể chuyện bởi là người kể chuyện là sản
phẩm hư cấu của nhà văn, được sáng tạo với mục đích thay mặt nhà văn trình
bày tư tưởng, quan điểm về cuộc sống, con người. Do vậy, nó luôn có sự
thống nhất với nhà văn. Đọc Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, qua giọng điệu của
người kể chuyện, ta nhận ra thái độ mỉa mai, châm biếm của tác giả với xã hội
tư sản thành thị lố lăng, rởm đời lúc bấy giờ. Hay như khi đọc những truyện
ngắn viết về đề tài người trí thức nghèo của Nam Cao, người đọc luôn thấy
đâu đó ẩn sau những Thứ, những Hộ là hình ảnh anh giáo khổ trường tư Trần
Hữu Tri đương dằn vặt, đau đớn với tấn bi kịch tinh thần phải “sống mòn”,
sống như một kẻ vô ích, một người thừa. Có thể khẳng định rằng, tất cả
những cảm xúc, tình cảm, tư tưởng của người kể chuyện mà chúng ta cảm
nhận được như niềm vui sướng, nỗi sợ hãi, sự cô đơn, đau buồn hay bế tắc,...
đều được quy định bởi hệ thống ngôn từ do nhà văn tạo ra, mang bóng dáng
của nhà văn.


11


Tuy nhiên ta không thể đồng nhất người kể chuyện trong tác phẩm với
tác giả thực tế ngoài đời. Nói về điều này giáo sư Lê Ngọc Trà đã nhấn
mạnh:“Không nên đồng nhất người kể chuyện với tác giả, ngay cả khi tác giả
xưng “tôi” đứng ra trần thuật câu chuyện và hoàn toàn đứng ngoài sự vận
động của các sự kiện, tình tiết” [58, tr.153]. Điều này có nghĩa là ở nghệ thuật
kể, “người kể chuyện không bao giờ là vị tác giả đã hay chưa nổi danh” (W.
Kayser) ngay cả khi tác giả đã hòa nhập vào nhân vật đến mức quên cả bản
thân. Thậm chí trong những tác phẩm tự truyện, mặc dù câu chuyện được kể
lại chính là câu chuyện của cuộc đời nhà văn nhưng người kể chuyện và tác
giả cũng không phải là một. Những ngày thơ ấu là cuốn tự truyện viết về tuổi
thơ đầy khắc nghiệt và đau khổ của chính tác giả Nguyên Hồng. Những cay
đắng, tủi cực, bất hạnh mà chú bé Hồng đã trải qua cũng là những gì nhà văn
Nguyên Hồng từng nếm trải song rõ ràng giữa hai đối tượng có khoảng cách
cả về thời gian và không gian. Những hành động, tâm trạng, cảm giác mà
nhân vật chú bé Hồng kể lại trong tác phẩm có thể là của nhà văn nhưng đó
lại là hành động, tâm trạng và cảm giác xảy ra trong quá khứ. Khi hồi tưởng
lại, người kể chuyện có thể nhớ lại sự việc nhưng không thể đảm bảo chắc
chắn rằng có thể nhớ chính xác đến từng chi tiết, đặc biệt là những cảm giác,
tâm trạng của tác giả trước những sự việc ấy. Không chỉ vậy, trong tác phẩm
tự sự, tác giả lựa chọn người kể, vị trí kể, cách kể nhưng chính tác giả cũng bị
ràng buộc bởi cái logic của sự lựa chọn của mình, bởi vậy tư tưởng tác giả
luôn rộng lớn hơn, khái quát hơn tư tưởng của người kể chuyện. Chẳng hạn
trong Nhật kí người điên của Lỗ Tấn, cái mà nhân vật “tôi”, người kể chuyện,
gọi là “ăn thịt người” chỉ là ăn thịt về xác thịt, còn hàm ý “ăn thịt người” mà
Lỗ Tấn muốn gửi gắm là sự ăn thịt về mặt tinh thần. Những kẻ ăn thịt người
mà “tôi” nói đến là những con người cụ thể (ông Triệu, ông Cố Cửu,...) còn

“kẻ ăn thịt người” mà tác giả muốn ám chỉ lại là cả chế độ phong kiến với
những lễ giáo cổ hủ, hà khắc.
12


1.1.2. Chức năng của người kể chuyện
Người kể chuyện là sản phẩm của sự sáng tạo nghệ thuật, là công cụ do
nhà văn hư cấu nên để kể chuyện. Trong tác phẩm tự sự, nó có một vị trí, vai
trò đặc biệt quan trọng. Việc nhà văn lựa chọn ai kể, kể theo hình thức nào sẽ
quyết định trực tiếp đến sự hấp dẫn, thuyết phục cũng như thành công của tác
phẩm. Nói như Tz. Todorov thì người kể chuyện chính là “yếu tố tích cực
trong việc kiến tạo thế giới tưởng tượng” và “Không thể có trần thuật nếu
thiếu người kể chuyện” [49, tr.105].
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, người kể chuyện có những chức năng
sau: “1) chức năng kể chuyện, trần thuật; 2) chức năng truyền đạt, đóng vai
một yếu tố của tổ chức tự sự; 3) chức năng chỉ dẫn thuộc phương pháp trần
thuật; 4) chức năng bình luận; 5) chức năng nhân vật hóa” [22, tr.223].
Trong 150 thuật ngữ văn học, tác giả Lại Nguyên Ân cũng đưa ra quan
niệm của mình về chức năng của người kể chuyện trong trần thuật tự sự:
“Trần thuật tự sự được dẫn dắt bởi một ngôi được gọi là người trần thuật một loại trung giới giữa cái được miêu tả và thính giả (độc giả), loại người
chứng kiến và giải thích về những gì đã xảy ra” [4, tr.456]. Trong ý kiến này,
tác giả biên soạn đã đặc biệt chú ý đến vai trò cầu nối, dẫn dắt giữa hiện thực
được miêu tả và người nghe của người kể chuyện đồng thời cũng đề cao vai
trò lí giải của hình tượng này.
Nghiên cứu người kể chuyện trong mối quan hệ giữa nhà văn, tác phẩm
và bạn đọc, tác giả Nguyễn Thị Hải Phương trong bài viết Người kể chuyện nhân vật mang tính chức năng trong tác phẩm tự sự đã chỉ ra ba chức năng
quan trọng của người kể chuyện:
Một là chức năng tổ chức kết cấu tác phẩm. Mỗi một tác phẩm văn học
có thể có nhiều cách kết cấu mà mỗi kiểu kết cấu lại phù hợp với một quá
trình khái quát nghệ thuật của người nghệ sĩ. Do vậy, nhiệm vụ của người kể

chuyện là phải thay mặt nhà văn tìm cho mình một kết cấu tối ưu nhất để câu
13


chuyện có thể thu hút, hấp dẫn được người đọc, người nghe. Và ở mỗi cách
kể, mỗi cách xuất hiện của người kể chuyện, ta sẽ có các dạng cốt truyện khác
nhau như cốt truyện tuyến tính, cốt truyện tâm lí, cốt truyện “truyện lồng
truyện”,... Có truyện chỉ có một người kể và chỉ kể một câu chuyện, có truyện
cũng chỉ có một người kể nhưng lại kể nhiều câu chuyện. Ở một số tác phẩm
khác lại có nhiều người kể một câu chuyện hay nhiều người kể nhiều câu
chuyện khác nhau,...
Hai là chức năng môi giới, dẫn dắt người đọc, người nghe thâm nhập,
khám phá thế giới nghệ thuật. Người kể chuyện chính là người gợi mở, dẫn dắt
người đọc tiếp cận với nhân vật, hiểu được hoàn cảnh, tính cách thậm chí cả
những động cơ thầm kín trong hành động của nhân vật, rút ngắn khoảng cách
giữa nhân vật với mình. Không những thế, người kể chuyện còn hướng người
đọc cùng suy ngẫm, cùng đồng cảm với những chiêm nghiệm, những suy nghĩ
của mình trong tác phẩm. Thậm chí, trong nhiều trường hợp, người kể chuyện
khơi gợi sự đối thoại, tranh luận từ phía người đọc để cùng nhau kiếm tìm,
khám phá chân lí cuộc sống. Đó có thể là những đối thoại ngầm ẩn sau lớp
ngôn ngữ của người kể chuyện. Đó cũng có thể là những câu hỏi hướng đích
danh đến người đọc buộc họ phải nhập cuộc, đồng tình hoặc phản đối.
Cuối cùng, người kể chuyện còn giúp nhà văn trình bày những quan
điểm về cuộc sống, con người hay văn chương nghệ thuật. Mỗi một nhà văn
khi sáng tác một tác phẩm văn chương đều mong muốn gửi gắm vào đó một
quan niệm, tư tưởng. Tuy nhiên, họ không trình bày những tư tưởng ấy bằng
những lời phát biểu trực tiếp như các nhà tư tưởng mà trình bày một cách
nghệ thuật thông qua các hình tượng do mình hư cấu nên, trong đó có hình
tượng người kể chuyện.
Như vậy, có thể khẳng định rằng trong tác phẩm tự sự, người kể chuyện

giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Nó vừa có chức năng tổ chức kết cấu tác
phẩm vừa dẫn dắt, định hướng độc giả thâm nhập vào thế giới nghệ thuật.
14


Ngoài ra, người kể chuyện còn là một điểm tựa để nhà văn có thể trình bày
những quan điểm của mình về cuộc sống, con người và nghệ thuật. Đi sâu tìm
hiểu người kể chuyện trong tác phẩm tự sự, một mặt ta có thể mở ra cánh cửa
vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm, nhận ra được những tầng lớp ý nghĩa
sâu xa ẩn sau hệ thống ngôn từ, mặt khác ta cũng thấy được sự độc đáo cũng
như những đóng góp của nhà văn đối với nền văn học.
1.2. Hành trình sáng tác của Nguyễn Thị Thu Huệ
1.2.1. Vài nét về tiểu sử
Nguyễn Thị Thu Huệ sinh ngày 12/8/1966 tại Khe Hùm, phường Hà
Phong, thành phố Quảng Ninh. Chị là con của nhà văn, nhà báo nổi tiếng
Nguyễn Thị Ngọc Tú và Nguyễn Ngọc Chánh. Có cả bố và mẹ đều hoạt động
trong lĩnh vực văn chương nghệ thuật bởi vậy cái chất văn đã ngấm vào tâm
hồn cô bé Huệ ngay từ nhỏ. Thu Huệ đọc rất nhiều sách. Có những cuốn dày
đến hàng trăm trang. Tác phẩm của mẹ chị thì chị đã đọc ngay khi bước vào
cấp hai vì chính chị là người đánh máy cho những trang bản thảo được viết
bằng tay. Đối với Nguyễn Thị Thu Huệ, mẹ chính là người có ảnh hưởng sâu
sắc nhất. Mỗi lần nhắc tới mẹ, Thu Huệ luôn bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới
những điều lớn lao mà bà đã làm được cho riêng bản thân chị và cho gia đình,
con cháu. Chị từng chia sẻ rằng những việc làm của mẹ đã ảnh hưởng đến suy
nghĩ và cách sống của chị sau này như một sự cố nhiên.
Thu Huệ là một người đa cảm, tinh tế, đầy mộng mơ. Chị vẫn tự nhận
mình hay buồn và hay bị xốn xang. Dẫu bây giờ đã có hai con trai rồi nhưng
nếu như hôm nào có trăng sáng mà không đi lang thang đâu đó hay lên ban
công ngắm trăng là chị cảm thấy như mất một cái gì đó. Có lẽ chính sự đa
cảm, tinh tế đó đã giúp Thu Huệ có thể thâm nhập vào từng ngõ ngách trong

tâm hồn con người để phát hiện ra những bi kịch, những rạn vỡ của xã hội
hiện đại.

15


Sớm bộc lộ năng khiếu và niềm đam mê với văn chương và hội họa
nhưng Thu Huệ lại mê hội họa và muốn trở thành họa sĩ. Song có lẽ cái duyên
với nghề cũng như niềm đam mê đã đưa chị đến với văn chương. Khi nộp đơn
thi đại học, Thu Huệ nộp cả vào hai trường đại học Mỹ thuật và Tổng hợp văn
nhưng cuối cùng chị đã chọn Tổng hợp Văn.
Năm 1989, Thu Huệ tốt nghiệp khoa Ngữ văn trường Đại học Tổng
hợp. Chị đã đăng hai truyện ngắn Mưa trái mùa và Mùa hoa sấu rụng trên
báo Văn Nghệ khiến văn đàn xôn xao một thời. Tuy nhiên con đường văn
chương bị ngắt quãng khi chị lập gia đình. Thu Huệ quyết định vào làm biên
tập viên sân khấu tại tạp chí Văn hóa Nghệ thuật và dành hầu hết thời gian
của mình cho gia đình, tận tụy với thiên chức làm mẹ, làm vợ. Cho đến một
lần, Thu Huệ bắt gặp mẹ rất buồn vì cụ thấy nhiều người bằng tuổi con mình
đã có tiếng tăm còn con mình dường như đã quên hẳn văn chương. Hiểu được
tâm tư, sự kì vọng của mẹ, Thu Huệ tiếp tục viết, viết như lên đồng, ý tưởng
tuôn trào không kịp nghĩ. Cứ mỗi chiều, sau khi cơm xong chị lại lạch cạch
đạp xe lên cơ quan mượn chiếc máy đánh chữ và gõ lạch cạch đến tận đêm
khuya. Năm truyện ngắn Hậu thiên đường, Biển ấm, Bảy ngày trong đời, Tình
yêu ơi ở đâu?, Minu xinh đẹp được gửi đi dự thi và đã đạt giải nhất cuộc thi
viết truyện ngắn do tạp chí Văn nghệ Quân đội tổ chức. Sau đó, Thu Huệ viết
nhiều hơn. Những tác phẩm của chị đạt được nhiều giải thưởng và những lời
khen ngợi, đánh giá cao của hội đồng chấm.
Không chỉ thành công trong văn chương, ở lĩnh vực truyền hình chị
cũng gặt hái được nhiều thành công. Một số truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu
Huệ được chuyển thể thành phim và gây được tiếng vang lớn như Của để

dành, Nước mắt đàn ông, Xin hãy tin em,... Chị chuyển sang làm việc ở hãng
phim truyền hình Việt Nam với vai trò biên tập. Sau sáu tháng làm việc ở đây,
chị đã được đề bạt làm xưởng trưởng xưởng II, rồi giám đốc kênh truyền hình
VTC9.
16


Năm 2012, tập truyện Thành phố đi vắng ra đời, đánh dấu sự trở lại cũng
như sự trưởng thành trong lối viết của Thu Huệ. Với sự nỗ lực không mệt mỏi,
Nguyễn Thị Thu Huệ ngày càng khẳng định vị trí của mình trên văn đàn Việt
Nam. Năm 2017, chị được bầu chọn làm Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội.
1.2.2. Sự nghiệp văn chương
Thu Huệ là nhà văn có ý thức rất rõ về nghề nghiệp, ngòi bút của mình.
Với chị, viết không chỉ để thỏa mãn niềm đam mê mà quan trọng hơn, có ý
nghĩa hơn là những tác phẩm ấy nhận được sự đồng cảm, yêu mến của người
đọc. Và đó chính là sự đền bù to lớn nhất đối với người cầm bút: “Viết văn,
viết kịch, làm phim, đọc sách làm cho cuộc sống của tôi phong phú. Nhưng
điều quan trọng hơn là những tác phẩm của tôi được độc giả tiếp nhận và yêu
thích, đó là một sự đền bù vô giá” [39].
Chị còn đề cao yếu tố cảm xúc trong sáng tác cũng như kiến thức, kinh
nghiệm sống của người viết: “Trong sáng tác, tôi không tự thần thánh mình
dù đã có những thành tựu nhất định. Tôi viết theo hướng bất chợt, không bao
giờ cố ép mình để viết”; “Tôi cho rằng, làm bất cứ nghề gì cũng cần phải có
tài, dù là ít. Riêng với những người làm nghệ thuật thì yếu tố tài năng rất cần
thiết. Bên cạnh đó một thứ bắt buộc phải có là kiến thức trang bị về nghề
nghiệp của mình. Tuy nhiên, có tài mà không có học thì đến một lúc nào đó
cũng sẽ hết tài, hoặc những sản phẩm tinh thần của họ sẽ chỉ là sự lấp lánh
của bản năng mà thôi. Tài năng cần được nuôi dưỡng bởi kiến thức học hỏi
và kinh nghiệm cuộc sống” [44].
Có lẽ chính những quan điểm nghệ thuật đúng đắn kết hợp với tài năng

và tâm huyết của nhà văn đã tạo nên sức sống lâu bền cho những tác phẩm
của Thu Huệ. Chị đã để lại một “gia tài” văn chương không chỉ đồ sộ về khối
lượng mà còn cả chất lượng, tiêu biểu như: Cát đợi (1992), Hậu thiên đường
(1993), Phù thuỷ (1995), 21 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ (2001), Nào, ta
cùng lãng quên (2003), 37 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ (2010), Thành
17


phố đi vắng (tập truyện ngắn 2012) và gần đây nhất là Của để dành (tuyển tập
truyện ngắn 2017). Những truyện ngắn của chị không chỉ gây được sự chú ý
của dư luận mà còn dành được nhiều giải cao trong các cuộc thi quy mô lớn
như: giải nhì cuộc thi truyện ngắn Hội văn học Hà Nội (1986), giải nhì cuộc
thi viết truyện ngắn Tác phẩm tuổi xanh báo Tiền phong (1993), giải A cuộc
thi viết về đề tài Hà Nội của Hội Nhà văn. Năm 1994, chùm 5 tác phẩm gồm
Hậu thiên đường, Biển ấm, Minu xinh đẹp, Tình yêu ơi ở đâu?, Bảy ngày
trong đời đã đạt giải nhất cuộc thi viết truyện ngắn do tạp chí Văn nghệ Quân
đội tổ chức. Năm 2013, Thu Huệ đạt giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam
với tác phẩm Thành phố đi vắng.
Trong các sáng tác của Nguyễn Thị Thu Huệ, nổi bật và làm nên nét
riêng của chị là mảng sáng tác về đề tài tình yêu, hôn nhân và gia đình. Viết
về đề tài này, đối tượng chủ yếu Thu Huệ quan tâm nhất là những người phụ
nữ. Những nhân vật nữ trong sáng tác của Thu Huệ dù ở độ tuổi nào, già hay
trẻ, dù đang yên ấm gia đình hay đổ vỡ đều có một điểm chung. Đó là luôn
khát yêu, tất tả trên hành trình tìm kiếm tình yêu, dâng hiến hết mình, thậm
chí hi sinh cho tình yêu đến kiệt cùng tuổi trẻ. Tuy nhiên trong hành trình ấy,
bằng trái tim nhạy cảm của người phụ nữ, Thu Huệ cũng nhận ra những “hậu
thiên đường” trong tình yêu và trong mỗi gia đình hiện đại. Mỗi một cuộc
tình, mỗi gia đình nhỏ tựa như con thuyền tròng trành trong giông bão, có thể
bị lật úp, có thể rạn vỡ và tan tác mà rất ít khả năng giữ được nguyên lành.
Năm 2012, tập truyện ngắn Thành phố đi vắng ra đời đã ghi dấu những

đổi thay rõ nét trong đề tài và lối viết của chị. Không còn là những cuộc hành
trình tìm kiếm tìm yêu, trong tập truyện ngắn này vấn đề mà tác giả quan tâm
nhiều nhiều nhất chính là tình người ngày một thiếu vắng thậm chí biến mất
trong đô thị hiện đại. Chị chia sẻ: “Tôi viết truyện ngắn này sau một chuyến
đi xa trở về. Bước xuống sân bay chợt thấy thời gian, không gian chẳng còn ý
nghĩa gì nữa. Tôi tự hỏi đây có phải là nơi chốn của mình không hay của ai
18


khác? Tất cả trôi qua trong nháy mắt. Âm thanh vẫn còn đây mà không phải
là âm thanh quen thuộc ngày nào. Mùi con người đây mà không phải là mùi
con người ngày nào”. Bằng con mắt sắc sảo, Thu Huệ đã xuyên qua lớp vỏ
bọc của hiện tượng để khám phá ra những dị thường ẩn sau sự hào nhoáng, no
đủ của đô thị hiện đại; lột đến tận cùng cái chất “con” trong mỗi con người.
Nếu ở chặng sáng tác trước là lối viết đằm thắm, nồng nàn hơi ấm nữ tính thì
đến Thành phố đi vắng giọng điệu trở nên khách quan, trung tính, tiết chế cảm
xúc tối đa. Mỗi truyện ngắn trong tập sách giống như một bản tường thuật đời
sống. Song dù là giọng điệu đằm thắm, trữ tình hay lạnh lùng khách quan,
truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ đều thu hút độc giả bởi lối viết có
duyên, giàu chất trải nghiệm và những khám phá về thân phận con người, về
tình đời, tình người trong cuộc sống hiện đại.
Tiểu kết chƣơng 1
Trong tác phẩm tự sự, người kể chuyện là một nhân vật đặc biệt. Nó là
sản phẩm do nhà văn hư cấu, sáng tạo ra nhằm mục đích tổ chức kết cấu tác
phẩm; dẫn dắt, định hướng người đọc và thay mặt nhà văn trình bày tư tưởng,
quan điểm về cuộc sống, con người. Bởi vậy, người kể chuyện không chỉ là
một nhân vật tham gia trong các tác phẩm như các nhân vật khác mà còn có
chức năng tổ chức các nhân vật khác, đánh giá về nhân vật khác. Mang tư
tưởng của nhà văn, thay mặt nhà văn trình bày quan điểm về cuộc sống, người
kể chuyện thống nhất nhưng không đồng nhất với tác giả. Vị trí của người kể

chuyện có thể thay đổi linh hoạt, hoặc lộ diện hoặc ẩn tàng, tùy thuộc vào
động cơ và thái độ của tác giả. Nghiên cứu vấn đề người kể chuyện một mặt
sẽ giúp ta đi sâu khám phá thế giới nghệ thuật của tác phẩm, mặt khác giúp ta
thấy được sự sáng tạo, phong cách văn chương của người nghệ sĩ.
Truyện ngắn thời kì Đổi mới, nhất là từ sau năm 1986, đã trở về với
cuộc sống đời thường, thể hiện cái nhìn nhân sinh đầy trăn trở với số phận của
cá nhân. Với sự thay đổi tích cực này, thể loại truyện ngắn đã xuất hiện hàng
19


×