Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

tiểu luận kinh tế học quốc tế những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với kinh tế thương mại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.75 KB, 13 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay là một xu thế khách quan. Trong hơn một thập kỷ lại đây,
xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới có gia tăng mạnh mẽ gắn liền với sự phát triển của khoa
học-công nghệ, sự gia tăng hàng loạt các vấn đề toàn cầu như môi trường, dân số, … Sự gia tăng
mạnh mẽ của toàn cầu hóa kinh tế đặt ra yêu cầu khách quan đòi hỏi các quốc gia phải có chiến
lược hội nhập phù hợp vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Trong bối cảnh này, một quốc gia
không thể phát triển nếu như không mở cửa hội nhập với nền kinh tế chung.
Sau hơn 30 năm chuyển từ cơ chế kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành tựu to lớn. Hội nhập kinh tế quốc tế đã
có tác động không nhỏ đối với nền kinh tế Việt Nam kể từ khi đổi mới đến nay. Hội nhập kinh tế
quốc tế đã khiến dòng vốn đầu tư nước ngoài bao gồm đầu tư trực tiếp và gián tiếp đã cung cấp
cho Việt Nam một nguồn lực kinh tế to lớn cùng với các hoạt động chuyển giao công nghệ, kinh
nghiệm sản xuất kinh doanh của thế giới góp phần giúp Việt Nam thoát khỏi nền kinh tế lạc hậu,
dần phát triển theo kịp các nền kinh tế tiên tiến trên thế giới…
Tuy nhiên, hội nhập kinh tế quốc tế mang lại nhiều lợi ích nhưng cũng có những tác động
kép theo nhiều chiều hướng tích cực và tiêu cực. Nhằm nâng cao tư duy hiểu biết về vấn đề kinh
tế trên, nên chúng em đã chọn đề tài: “Những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với
kinh tế thương mại Việt Nam”.
Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành vẫn còn rất nhiều thiếu sót, chúng em mong
nhận được sự góp ý của thầy cô để tiểu luận này được hoàn chỉnh hơn.

4


Chương 1. Một số vấn đề lý luận về Hội nhập kinh tế quốc tế
1.1.Khái niệm
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gắn bó một cách hữu cơ nền kinh tế quốc gia với
nền kinh tế thế giới góp phần khai thác các nguồn lực bên trong một cách có hiệu quả.
1.2.Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế
• Nguyên tắc của hội nhập kinh tế quốc tế:
Bất kì một quốc gia nào khi tham gia vào các tổ chức kinh tế trong khu vực cũng như trên thế


giới đều phải tuân thủ theo những nguyên tắc của các tổ chức đó nói riêng và nguyên tắc của hội
nhập kinh tế quốc tế nói chung. Sau đây là một số nguyên tắc cơ bản của hội nhập: Không phân
biệt đối xử giữa các quốc gia; tiếp cận thị trường các nước, cạnh tranh công bằng, áp dụng các
hành động khẩn cấp trong trường hợp cần thiết, dành ưu đãi cho các nước đang và chậm phát
triển. Đối với từng tổ chức có nguyên tắc cụ thể riêng biệt.
• Nội dung của hội nhập (chủ yếu là nội dung hội nhập WTO):
Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế là mở cửa thị trường cho nhau, thực hiện thuận lợi hoá, tự
do hoá thương mại và đầu tư:
- Về thương mại hàng hoá: các nước cam kết bãi bỏ hàng rào phi thuế quan như QUOTA,
giấy phép xuất khẩu..., biểu thuế nhập khẩu được giữ hiện hành và giảm dần theo lịch trình
thoả thuận...
- Về thương mại dịch vụ, các nước mở cửa thị trường cho nhau với cả bốn phương thức: cung
cấp qua biên giới, sử dụng dịch vụ ngoài lãnh thổ, thông qua liên doanh, hiện diện
- Về thị trường đầu tư: không áp dụng đối với đầu tư nước ngoài yêu cầu về tỉ lệ nội địa hóa,
cân bằng xuất nhập khẩu và hạn chế tiếp cận nguồn ngoại tệ, khuyến khích tự do hóa đầu
tư…

Chương 2. Tổng quan về tình hình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam từ khi mở cửa
đến nay
Trong sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước, nhất là từ khi Việt Nam chính thức gia
nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng
với khu vực và thế giới.
Chính vì vậy, việc mở cửa nền kinh tế đã trở thành động lực quan trọng thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, góp phần không nhỏ để duy trì tốc độ tăng trưởng cao hàng năm của nền kinh tế
Việt Nam.
Thống kê cho thấy, đến nay Việt Nam đã tham gia ký kết 13 Hiệp định thương mại tự do
(FTA) gồm 7 FTA ký kết với tư cách là thành viên ASEAN và 6 FTA ký kết với tư cách là một
bên độc lập và hiện đang đàm phán 3 FTA gồm Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực
(RCEP), FTA với Khối thương mại tự do châu Âu (EFTA), FTA Việt Nam-Israel.
Chia sẻ về quá trình tham gia hội nhập, ông Lương Hoàng Thái, Vụ trưởng Vụ Chính

sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương) cho biết gia nhập ASEAN từ năm 1995, Việt Nam
đã chính thức mở cửa hội nhập và bắt đầu tham gia các FTA. Tuy nhiên, ban đầu mới chỉ tham
gia FTA với tư cách là thành viên khối ASEAN.

5


Hơn nữa, giai đoạn này chủ yếu Việt Nam tham gia là các FTA thế hệ cũ, tập trung biện
pháp ở biên giới, ít đi sâu vào quy định trong khuôn khổ chính sách quốc gia.
Không những thế, Việt Nam tham gia vào các FTA này đều ở góc độ bị động bởi tất cả
quy định của ASEAN đều có sẵn, Việt Nam không được đàm phán bất kỳ quy định nào và lợi ích
khi đó hầu như không có, bởi các đối tác trên đều là đối tượng cạnh tranh sát sườn.
Thế nhưng, với chủ trương đúng đắn của Đảng và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị,
đến nay Việt Nam tham gia ở thế chủ động hơn trong việc lựa chọn đối tác.
Đặc biệt, Việt Nam có sự chuyển đổi về chất trong quá trình hội nhập nền kinh tế toàn
cầu, tham gia FTA thế hệ mới với tiêu chuẩn cao hơn.
Theo ông Lương Hoàng Thái, Hiệp định đầu tiên manh nha là FTA Việt Nam-Nhật Bản,
tiếp theo đó là FTA Việt Nam-Chile và gần đây là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên
Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam với Liên minh châu
Âu (EVFTA).
Nhận định về vấn đề này, Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh khẳng định: Việc
Việt Nam ký kết các FTA song phương và đa phương đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp của
Việt Nam mở rộng thị trường, tiếp cận được thị trường khu vực và thị trường toàn cầu cũng như
được tiếp cận thị trường dịch vụ của các nước đối tác thuận lợi hơn.
Theo Bộ trưởng Trần Tuấn Anh, phần lớn các rào cản và điều kiện trong buôn bán đã được
cam kết dỡ bỏ chủ yếu là các hàng rào thuế quan (hầu hết về 0% hoặc dưới 5%) đã mang lại một lợi
thế cạnh tranh lớn và một triển vọng tươi sáng cho nhiều ngành sản xuất hàng hóa trong nước.
Đặc biệt, năm 2019 là năm bản lề trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế khi
chuyển sang giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế mới, Việt Nam đã chính thức ký kết và tham gia
hai FTA thế hệ mới.

Cụ thể, Việt Nam chính thức đưa vào thực thi Hiệp định CPTPP vào ngày 14 tháng 1 năm
2019 và ký kết Hiệp định Thương mại tự do EVFTA và Hiệp định Bảo hộ Đầu tư (EVIPA) giữa
Việt Nam và Liên minh châu Âu vào ngày 30 tháng 6 năm 2019.
Đây là thành quả tích cực sau nhiều năm Việt Nam kiên trì tham gia đàm phán với các
đối tác thương mại hàng đầu thế giới.
Điều này cũng thể hiện quyết tâm và ý chí chính trị của Việt Nam trong tiến trình hội
nhập kinh tế khu vực và quốc tế, được các nước đánh giá cao, nhất là trong bối cảnh bức tranh
kinh tế của thế giới chưa có nhiều biến chuyển tích cực.
“Các kết quả này đã thể hiện tính đúng đắn và kết quả thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TW
của Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về “Thực hiện có hiệu quả tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh Việt Nam tham gia
các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới" - Bộ trưởng Trần Tuấn Anh nhấn mạnh.

Chương 3. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với kinh tế Việt Nam
3.1. Tác động tích cực
Trong thời gian tới, khi các cam kết Hiệp định thương mại tự do (FTA) bước vào giai
đoạn cắt giảm thuế sâu, đặc biệt các FTA với Hoa Kỳ, EU có hiệu lực, sẽ thúc đẩy xuất khẩu
mạnh hơn, đem đến nhiều cơ hội mở rộng thị trường cho hàng hóa của Việt Nam, đồng thời giúp
đa dạng hóa thị trường nhập khẩu, tránh phụ thuộc vào các thị trường nguyên liệu truyền thống.

6


Hiện nay, phạm vi đối tác FTA của Việt Nam đã khá rộng và toàn diện, trong 3 - 5 năm
tới sẽ chạm đến các dấu mốc quan trọng của nhiều Hiệp định và dần tiến đến tự do hóa thuế quan
hầu hết các mặt hàng nhập khẩu với các đối tác thương mại chính. Ngoài ra, việc ký kết 2 Hiệp
định và tuyên bố kết thúc 2 Hiệp định quan trọng TPP và Việt Nam - EU sẽ tác động đáng kể đến
nền kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn tới. Cụ thể:
Đối với xuất, nhập khẩu: Quá trình thực hiện các cam kết cắt giảm thuế quan trong hội
nhập kinh tế quốc tế, hoàn thiện hệ thống quản lý hải quan theo tiêu chuẩn quốc tế và cắt giảm

hàng rào thuế quan đã tạo ra tác động tích cực đến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam.

Việc thực hiện cam kết xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN và ký kết các FTA với các đối
tác khác nhau sẽ giúp thúc đẩy xuất khẩu, tháo gỡ các rào cản thương mại đối với các mặt hàng mà
Việt Nam có thế mạnh như nông lâm thủy sản, giày dép, dệt may, v.v., đẩy mạnh sản xuất các mặt
hàng có tiềm năng xuất khẩu lớn và tạo cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước tham gia vào các
chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị trong khu vực. Đây chính là một trong các nội dung
quan trọng của Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 03 tháng 01 năm 2015 của Chính phủ về những nhiệm
vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2015. Kết
quả cho thấy, nếu như năm 2007, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam là 111,3 tỷ USD
(trong đó xuất khẩu là 48,5 tỷ USD và nhập khẩu là 62,7 tỷ USD), thì tới năm 2015 tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu của Việt Nam đã tăng khoảng 3 lần đạt 328 tỷ USD (trong đó nhập khẩu là 165,6 tỷ
USD và xuất khẩu là 162,4 tỷ USD). Đến năm 2018, tổng kim ngạch xuất nhập đạt 480,17 tỷ USD
lập kỉ lục về kim ngạch xuất nhập khẩu. Cán cân thương mại của Việt Nam năm 2018 đạt thặng dư
6,8 tỷ USD, cao gấp 3,2 lần mức thặng dự năm 2017 (trong đó xuất khẩu đạt 243,48 tỷ USD, nhập
khẩu đạt 236,69 tỷ USD, tăng 11,1% (Theo vneconomy.vn).

7


Trong đó, các đối tác FTA của Việt Nam đều là các đối tác thương mại quan trọng, thể
hiện ở giá trị thương mại lớn và tỉ trọng cao trên tổng số liệu thương mại với thế giới của Việt
Nam hằng năm. Thương mại của Việt Nam với các đối tác đã và đang đàm phán luôn chiếm trên
80% tổng kim ngạch thương mại của Việt Nam.
Đối với chuyển dịch cơ cấu sản xuất hàng xuất khẩu: Hội nhập kinh tế quốc tế đã thúc
đẩy tái cấu trúc nền kinh tế, đặc biệt là chuyển dịch cơ cấu sản xuất hàng hóa xuất khẩu theo
hướng tích cực, phù hợp với chủ trương công nghiệp hóa theo hướng hiện đại, theo đó tập trung
nhiều hơn vào các mặt hàng chế biến, chế tạo có giá trị và hàm lượng công nghệ và giá trị gia
tăng cao hơn.
Năm 2015, tỷ trọng xuất khẩu các nhóm hàng sản phẩm dệt may, giày dép, nông sản có

xu hướng giảm xuống trong khi đó tỷ trọng của các nhóm sản phẩm như máy vi tính, linh kiện
điện tử, điện thoại tăng lên, chiếm tới 27,7% tổng giá trị kim ngạch hàng hóa xuất khẩu.
Đối với thu hút FDI: Việc thực hiện cam kết trong khuôn khổ Cộng đồng Kinh tế ASEAN và
các FTA cũng sẽ góp phần tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, bao gồm cả ngành
công thương. Lý do là các cam kết mở cửa, tạo thuận lợi và bảo hộ cho đầu tư sẽ có tác động trực
tiếp đến đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Ngoài ra, triển vọng thương mại và vai trò cửa ngõ của
Việt Nam trong nhiều khu vực thương mại tự do khác nhau, đặc biệt là trong Cộng đồng Kinh tế
ASEAN, sẽ gián tiếp thu hút các doanh nghiệp nước ngoài gia tăng đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất,
tiêu dùng tại Việt Nam, vừa phục vụ thị trường 90 triệu dân của Việt Nam, vừa hướng ra các thị
trường khu vực 600 triệu dân và gần 3000 tỷ USD GDP hàng năm của ASEAN và xuất khẩu sang
các thị trường Hoa Kỳ, EU, Nga, Hàn Quốc, v.v. FDI đã và sẽ tiếp tục là một nguồn tăng trưởng kinh
tế, tạo việc làm tích cực và quan trọng cho nền kinh tế Việt Nam.

Việc tham gia xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN và ký kết các FTA với các đối tác
khác nhau sẽ giúp đa dạng hóa và có khả năng tạo thế cân bằng hơn về quan hệ kinh tế, thương
mại của Việt Nam với các đối tác khu vực và thế giới, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế.
Bên cạnh đó, việc thực hiện các cam kết trong các Hiệp định thế hệ mới như TPP,
EVFTA (dỡ bỏ các biện pháp hạn chế đầu tư và dịch vụ, bảo hộ đầu tư công bằng, không phân
biệt đối xử, mở cửa thị trường mua sắm Chính phủ, dịch vụ tài chính…) sẽ khiến cho môi trường
đầu tư của Việt Nam trở nên thông thoáng hơn, minh bạch hơn, thuận lợi hơn từ đó sẽ thu hút
được nhiều vốn đầu tư hơn nữa.
Một số FTA “thế hệ mới” có sự tích lũy các kinh nghiệm, tập quán, và thông lệ thực hành tối
ưu trên thế giới về hoạt động kinh doanh, đầu tư nên sẽ hướng đến việc tạo ra các khuôn khổ mới cho
Việt Nam, phù hợp với bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Đây chính là khía cạnh
chủ động của Việt Nam trong hội nhập. Các khuôn khổ này vừa bắt buộc Việt Nam phải cải thiện
môi trường kinh doanh, môi trường đầu tư, nhưng cũng đồng thời cũng khuyến khích, thúc đẩy việc
kinh doanh và đầu tư của mọi thành phần kinh tế. Đơn cử như các quy định về tăng cường minh bạch
hóa, tạo thuận lợi, nâng cao tiêu chuẩn đối với lao động và môi trường để doanh nghiệp và nền kinh
tế Việt Nam phát triển bền vững. Điều này phù hợp với một trọng tâm điều hành mà Chính phủ đang

chỉ đạo quyết liệt thực hiện năm 2015, cụ thể là việc cải cách

8


mạnh thủ tục hành chính, cải thiện tốt hơn môi trường kinh doanh để tạo mọi điều kiện thuận lợi
cho người dân và doanh nghiệp phát triển.
Theo số liệu từ Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính chung trong 12 tháng
năm 2015, tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm là 22,757 tỷ USD, tăng 12,5% so với cùng kỳ
năm 2014. Năm 2018 tăng gần 35,5 tỷ USD. FDI tại Việt Nam 5 tháng đầu năm 2019 đạt kỷ lục về
giá trị vốn đầu tư đăng ký so với cùng kỳ trong vòng 3 năm trở lại đây, đạt 16,74 tỷ USD.

Không chỉ là nguồn lực quan trọng góp phần đẩy nhanh sự phát triển của nền kinh tế, bổ
sung nguồn vốn đáng kể cho tăng trưởng, chuyển giao công nghệ, tăng cường khả năng xuất
khẩu, tạo thêm nhiều việc làm, FDI còn có vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp trong nước.
Đối với thu ngân sách nhà nước: Lộ trình cắt giảm thuế trong các FTA sẽ dẫn tới giảm
nguồn thu NSNN đối với hàng hóa nhập khẩu. Tuy nhiên, tác động của việc giảm thuế đối với
tổng thu NSNN về cơ bản là không lớn do:
- Mặc dù giai đoạn 2015 - 2018, các Hiệp định thương mại đã ký kết với ASEAN, Trung
Quốc, Hàn Quốc bước vào giai đoạn cắt giảm thuế và xóa bỏ thuế quan sâu và cơ cấu nhập khẩu
của Việt Nam chủ yếu là từ các nước này, song lộ trình cắt giảm thuế đã thực hiện từ nhiều năm,
nên không có ảnh hưởng đột ngột đến nguồn thu NSNN. Đối với TPP, nhập khẩu của Việt Nam
từ các nước TPP chiếm khoảng hơn 20% tổng kim ngạch nhập khẩu tuy nhiên, trong số 11 nước
thành viên TPP, Việt Nam đã ký kết FTA với 6/11 nước, đồng thời nhập khẩu từ 5 nước còn lại
chỉ chiếm khoảng hơn 5% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Vì vậy, có thể nói mức ảnh
hưởng tới thu NSNN là không nhiều.
- Việc cắt giảm thuế quan trong TPP cũng như trong các FTA sẽ khiến cho hàng hoá nhập
khẩu từ các nước đối tác chắc chắn có tăng lên và do đó, số thu từ thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu
thụ đặc biệt đối với hàng nhập khẩu đương nhiên cũng tăng theo. Ngoài ra, chi phí sản xuất của

doanh nghiệp giảm cũng sẽ tác động tích cực đến nguồn thu từ thuế thu nhập doanh nghiệp.
3.2. Áp lực đối với nền kinh tế
Xét về tổng thể, hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang đem lại nhiều cơ hội cho các doanh
nghiệp và nền kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên, với 96% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động
là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, áp lực cạnh tranh đối với nền kinh tế Việt Nam là rất lớn. Trong
đó:
Đối với lĩnh vực xuất nhập khẩu: Dù hàng rào thuế quan được dỡ bỏ, song việc có tận dụng được
các ưu đãi về thuế quan để mở rộng thị trường hay không lại phụ thuộc vào việc đáp ứng các yêu
cầu về quy tắc xuất xứ cũng như các yêu cầu khác (an toàn thực phẩm, vệ sinh dịch tễ...). Với
năng lực tự sản xuất và cung ứng nguyên phụ liệu còn hạn chế, thì những yêu cầu về quy tắc
xuất xứ hàng hóa lại đang đặt ra thách thức và mối lo ngại cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Đối với sản xuất trong nước: Việc tự do hóa thuế nhập khẩu sẽ dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng
nguồn hàng nhập khẩu từ các nước, đặc biệt là từ các nước TPP, EU vào Việt Nam do giá thành
rẻ hơn, chất lượng và mẫu mã đa dạng, phong phú hơn sẽ tác động đến lĩnh vực sản xuất trong
nước.

9


Ngoài ra, khi hàng rào thuế quan được gỡ bỏ nhưng các hàng rào kỹ thuật không hiệu quả, Việt
Nam sẽ trở thành thị trường tiêu thụ các sản phẩm chất lượng kém, ảnh hưởng tới sức khỏe
người tiêu dùng trong khi lại không bảo vệ được sản xuất trong nước.
Đặc biệt, sản phẩm nông nghiệp và các doanh nghiệp, nông dân Việt Nam đứng trước sự
cạnh tranh gay gắt, trong khi đó hàng hóa nông sản và nông dân là những đối tượng dễ bị tổn
thương nhất trong hội nhập.
Việc phối hợp hội nhập kinh tế quốc tế với hội nhập trong các lĩnh vực khác chưa chặt
chẽ để phát huy tổng lực và hạn chế rủi ro. Chưa tạo được sự đan xen chặt chẽ lợi ích chiến lược,
lâu dài với các đối tác, nhất là các đối tác quan trọng. Việc ứng phó với những biến động và xử
lý những tác động từ môi trường khu vực và quốc tế còn bị động, lúng túng và chưa đồng bộ.
Khả năng nhận định, đánh giá và dự báo xu thế hội nhập kinh tế quốc tế chưa cao. Các

vấn đề về xây dựng cơ chế nhận biết, cảnh báo sớm tác động trong các lĩnh vực hội nhập kinh tế
trong bối cảnh Việt Nam đã hội nhập sâu với nền kinh tế thế giới nhìn chung còn yếu. Công tác
tham mưu, tư vấn chính sách vẫn còn hạn chế trong việc phân tích, định hướng và dự báo những
vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế phát sinh.
Nền kinh tế vẫn mang tính gia công,chưa tạo ra các thương hiệu Việt Nam có uy tín trên
thị trường thế giới. Xuất khẩu tăng nhanh nhưng chưa thực sự vững chắc, chất lượng tăng trưởng
và hiệu quả xuất khẩu còn thấp, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu vẫn còn phụ thuộc nhiều vào doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua phát triển chưa bền vững. Giá trị gia
tăng của hàng hóa xuất khẩu còn thấp do chủ yếu dựa vào khai thác các yếu tố về điều kiện tự
nhiên và nguồn lao động rẻ; hàng hóa thô và sơ chế, bao gồm cả dầu thô, chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu của các mặt hàng dựa vào tài nguyên chiếm dưới
10% tổng kim ngạch xuất khẩu, và tỷ lệ này gần như không thay đổi. Giá trị gia tăng của hàng
hóa xuất khẩu thấp. Hàng hóa xuất khẩu ngoài khoáng sản, nhiên liệu thô thì hàng hóa nông
nghiệp 90% là sản phẩm thô và sơ chế. Hàng công nghiệp chế biến chủ yếu là gia công, lắp ráp
dựa trên việc nhập khẩu nguyên liệu, phụ tùng, linh kiện, chi tiết máy, bán thành phẩm, điều đó
phản ánh một nền kinh tế trình độ thấp, chủ yếu khai thác tài nguyên và lao động rẻ.
Thị trường xuất khẩu hàng hóa Việt Nam được mở rộng, tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu
lớn,những mặt hàng xuất khẩu chủ lực vẫn còn phụ thuộc vào một vài thị trường trọng điểm nên
tiềm ẩn rủi ro lớn khi các thị trường này có biến động. (Cao su và rau quả phụ thuộc vào thị
trường Trung Quốc, thủy sản phụ thuộc vào thị trường Hoa Kỳ và Nhật Bản, gạo phụ thuộc thị
trường Đông Nam Á, dệt may chủ yếu xuất sang thị trường Hoa Kỳ, da giày phụ thuộc chủ yếu
vào thị trường EU. Xuất khẩu cà phê nhân phụ thuộc vào vài tập đoàn đa quốc gia có văn phòng
đại diện hoặc chi nhánh tại Việt Nam). Chính sách đẩy mạnh xuất khẩu mới chỉ chú trọng đến bề
rộng, chưa chú trọng đến nâng cao khả năng cạnh tranh và thương hiệu sản phẩm, những ngành
mang lại giá trị gia tăng lớn. Vẫn còn hạn chế trong việc đa dạng hóa các sản phẩm xuất khẩu và
chuyển dịch lên trên chuỗi giá trị toàn cầu, chưa thực sự quan tâm đến bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng và quyền sở hữu trí tuệ;còn nhiều lúng túng và bị động trong ứng phó với các rào cản
thương mại mới của nước ngoài (tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, môi trường, dư lượng
kháng sinh, nhất là các vụ kiện chống bán phá giá).


10


Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và các sản phẩm chủ lực còn thấp và chịu
sức ép cạnh tranh với các doanh nghiệp và sản phẩm nước ngoài ngay trên thị trường nội địa.

Tác động lan tỏa về công nghệ, kỹ năng của khu vực FDI ở Việt Nam còn yếu. Một số
lĩnh vực sản xuất được bảo hộ quá lâu, hạn chế cạnh tranh và cả sự tham gia trong mạng sản xuất
và chuỗi giá trị toàn cầu. Các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ phát triển chưa mạnh, công
nghiệp phụ trợ chưa phát triển, vì vậy, khả năng tiếp nhận hiệu ứng lan tỏa tích cực từ FDI còn
rất hạn chế, đang có dấu hiệu giảm dần.

Chương 4. Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh cho nền kinh tế trước sức ép hội nhập
4.1. Đối với cơ quan quản lí nhà nước
Nâng cao năng lực giám sát thị trường tài chính nhằm kịp thời đối phó với những biến
động của dòng vốn, những ảnh hưởng lây lan từ khủng hoảng tài chính của một nước trong khu
vực. Đồng thời tăng cường tuyên truyền cho các doanh nghiệp các thông tin về lộ trình và các
cam kết hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ hợp lý để thúc đẩy phát triển những ngành có lợi
thế so sánh, nhằm tăng năng suất và tăng sức cạnh tranh của hàng hóa trong nước và đẩy mạnh
xuất khẩu.
Việt Nam có thể tận dụng tối đa các ưu đãi thuế quan, Nhà nước cần hỗ trợ doanh nghiệp đáp
ứng tốt các điều kiện về xuất xứ, rào cản kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ từ các thị trường nhập khẩu.
Khi tham gia FTA thế hệ mới, Việt Nam cần phải điều chỉnh cả những yếu tố không phải
yếu tố thương mại như những nội dung liên quan tới lao động, quyền sở hữu trí tuệ... Do đó, việc
thực hiện các cam kết trong FTA thế hệ mới đòi hỏi những thay đổi về chính sách và luật pháp
trong nước.

11



4.2. Đối với lĩnh vực đầu tư
Việc gia tăng dòng vốn
nước ngoài vào Việt Nam cũng đặt
ra yêu cầu về tăng cường năng lực
của cơ quan quản lý trong việc
giám sát dòng vốn ra vào, tránh
nguy cơ bong bóng hoặc rút vốn ồ
ạt, để nền kinh tế có thể hấp thụ
vốn đầu tư hiệu quả.
Đang có những chuyển dịch
đáng kể trong dòng vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt
Nam, từ hình thức, đối tác đầu tư…
Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam
đang cần những chuyển dịch bám
vào chiến lược mới về thu hút FDI.

4.3. Đối với doanh nghiệp
Chủ động tìm hiểu và nghiên cứu về thông tin, kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế, pháp
luật quốc tế. Thực tế cho thấy, mặc dù Việt Nam đã ký kết không ít các hiệp định thương mại tự
do với các nước và khu vực, song sự hiểu biết của doanh nghiệp trong nước về các FTAs là khá
hạn chế, trong khi đó các doanh nghiệp FDI lại rất chủ động và chuẩn bị khá kỹ để đón đầu và
tận dụng ưu đãi từ các FTAs. Do vậy, việc nghiên cứu tìm hiểu về TPP cũng như các FTAs là
việc cần thiết các doanh nghiệp nếu muốn đứng vững trong cạnh tranh. Bên cạnh đó cũng cần có
sự hỗ trợ từ phía Chính phủ và các hiệp hội để doanh nghiệp có thể tiếp cận các thông tin từ TPP,
FTAs một cách nhanh nhất và đầy đủ nhất.
Chủ động đầu tư và đổi mới trạng thiết bị công nghệ theo chiều sâu nhằm nâng cao chất
lượng sản phẩm, bởi nếu không đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế thì sản phẩm của doanh

nghiệp không thể cạnh tranh với các nước khác. Như vậy, dù hiệp định có mở ra cơ hội, doanh
nghiệp cũng không thể tiếp cận thị trường và tham gia vào chuỗi cung ứng.
Chủ động lựa chọn và thay đổi nguồn nguyên liệu đầu vào. Việc loại bỏ thuế quan cho các
đối tác trong TPP chỉ áp dụng đối với các sản phẩm hàng hóa có nguồn gốc xuất xứ nội khối.
Trên thực tế, với các FTA đã ký kết, cũng chỉ có khoảng 30% doanh nghiệp đã tận dụng được các
ưu đãi thuế quan. Do đó, doanh nghiệp cần phải chủ động trong việc lựa chọn nguồn gốc của các
nguyên phụ liệu, đáp ứng các tiêu chuẩn về nguồn gốc xuất xứ. Đồng thời, phải thực hiện tốt như
các yêu cầu khác (vệ sinh, kiểm dịch động thực vật, hàng rào kỹ thuật…).
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là lao động có tay nghề và nhân lực trình độ
cao. Bên cạnh đó, cần chủ động tạo sự liên kết gắn bó giữa các doanh nghiệp, cùng xây dựng
chiến lược phát triển thị trường nội địa và nước ngoài.
Các hàng rào kỹ thuật và hệ thống vệ sinh và kiểm dịch thực vật khắt khe có thể là những
rào cản khiến hàng hóa Việt Nam khó vào thị trường các nước đối tác FTA. Thách thức đối với
doanh nghiệp Việt Nam chính là áp lực cạnh tranh với hàng hóa giá rẻ, dịch vụ chất lượng tốt từ

12


các nước đối tác trên chính thị trường nội địa. Qua việc phân tích, làm rõ những cơ hội, thách
thức đối với Việt Nam trong quá trình tham gia vào các hiệp định FTA thế hệ mới.

Chương 5. Việt Nam - chủ động đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế toàn diện
Trong hơn 30 năm đổi mới, các chủ trương cơ bản về hội nhập kinh tế quốc tế (HNKTQT)
được đề cập tại nhiều nghị quyết, chỉ thị quan trọng của Đảng và Nhà nước, cụ thể tại Nghị quyết số
22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị (khóa XI) về hội nhập quốc tế (trong đó xác định
HNKTQT là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế) và
Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 5/11/2016 của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa XII) về thực hiện có hiệu quả tiến trình HNKTQT, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong
bối cảnh Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới.
Trên cơ sở đó, các bộ, ngành, địa phương đã xây dựng và ban hành các chương trình, hành

động phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và đặc thù của từng bộ, ngành, địa phương và được triển
khai rộng rãi với nhiều hình thức phong phú; Tăng cường thực thi hiệu quả các FTA mà Việt
Nam đã ký kết, góp phần đưa kinh tế Việt Nam phát triển nhanh và bền vững.
Theo Báo cáo của Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế, công tác HNKTQT
của Việt Nam đang phải đối diện với không ít khó khăn, thách thức. Chủ nghĩa bảo hộ ngày càng
nổi lên rõ nét hơn. Mất cân đối thương mại toàn cầu vẫn chưa được cải thiện, làm gia tăng xung
đột thương mại, cạnh tranh chiến lược và cọ sát kinh tế, đặc biệt giữa các nền kinh tế chủ chốt…
Mặc dù, tình hình kinh tế thế giới, khu vực có những diễn biến phức tạp, khó lường, nhưng Việt
Nam vẫn kiên trì chủ trương HNKTQT toàn diện với trọng tâm là HNKTQT, coi HNKTQT và tự
do hóa thương mại là xu thế tất yếu khách quan. Một số thành tựu của tiến trình HNKTQT toàn
diện của Việt Nam gồm:
Một là, HNKTQT đã góp phần gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia. Nền kinh tế Việt
Nam từng bước được cơ cấu lại gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, hệ thống kết cấu hạ tầng
kinh tế được tăng cường, nguồn nhân lực để cung ứng cho phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH)
ngày càng phát triển. Môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện, minh bạch, bình đẳng hơn,
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên.
Việt Nam được nhiều tổ chức quốc tế đánh giá là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh
nhất trong khu vực cũng như trên thế giới và có triển vọng tốt nhờ kinh tế vĩ mô tiếp tục được
duy trì ổn định, các cân đối lớn được bảo đảm, lạm phát được kiểm soát, tạo môi trường, động
lực thúc đẩy kinh tế phát triển. Quy mô kinh tế Việt Nam năm 2019 dự báo đạt 5,5 triệu tỷ đồng,
tương đương 240,5 tỷ USD, gấp trên 1,3 lần so với năm 2015, hiện đứng thứ 44 trên thế giới
theo GDP danh nghĩa và thứ 34 theo sức mua tương đương.
Hai là, HNKTQT tác động mạnh đến tăng trưởng, góp phần thúc đẩy phát triển KT-XH. GDP
bình quân đầu người tăng từ 2.109 USD (năm 2015) lên 2.587 USD (năm 2018), khoảng 7.650 USD
theo sức mua tương đương. Đặc biệt, sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt
Nam đã duy trì tốc độ tăng trưởng cao, trong năm 2007, tăng trưởng GDP đạt 8,46% (mức cao nhất
trong vòng 11 năm trước đó). Tuy nhiên, 4 năm sau đó, do ảnh hưởng từ những biến động của kinh tế
thế giới, nên tăng trưởng GDP trong giai đoạn 2011 - 2013 giảm xuống còn

13



5,6%. Đáng chú ý những năm
tiếp theo, kinh tế khởi sắc hơn.
Cụ thể, năm 2014 đạt 5,98%,
năm 2015 đạt 6,68%; 2016 đạt
6,1%, năm 2017 GDP đạt
6,81%, năm 2018 đạt 7%, quy
mô nền kinh tế đạt khoảng 240
tỷ USD, bình quân đầu người
đạt 2.540 USD, mức tăng
trưởng cao nhất trong vòng 10
năm qua (2008-2018).
Ba là, HNKTQT thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam phát triển mạnh giúp
gia tăng kim ngạch xuất nhập khẩu (XNK), mở rộng thị trường đa dạng các loại hàng hóa tham gia
XNK. Việt Nam đã trở thành một bộ phận của nền kinh tế toàn cầu với tổng kim ngạch xuất khẩu,
nhập khẩu đạt gần 480 tỷ USD, gấp gần 2 lần GDP. Từ chỗ thường xuyên nhập siêu, Việt Nam đã
chuyển sang cân bằng XNK, thậm chí là xuất siêu. Việt Nam hiện đã có quan hệ thương mại với trên
200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Là thành viên của WTO, Việt Nam đã được 71 đối tác công nhận là
nền kinh tế thị trường, nhiều sản phẩm dần có chỗ đứng và khả năng cạnh tranh trên nhiều thị trường
có yêu cầu cao về chất lượng như Liên minh châu Âu, Nhật Bản, Mỹ...
Bốn là, HNKTQT sâu rộng hơn góp phần đưa Việt Nam trở thành một “mắt xích” quan
trọng trong mạng lưới các liên kết kinh tế với các nền kinh tế hàng đầu thế giới (gồm 12 FTA đã
ký và đang thực thi; 2 Hiệp định đã ký kết, 4 FTA đang đàm phán bảo đảm cho kết nối thương
mại tư do, ưu đãi cao với 60 nền kinh tế, chiếm 90% kim ngạch thương mại của Việt Nam); đồng
thời, tạo động lực mới và cả “sức ép” mới để thúc đẩy mạnh mẽ hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế.
Môi trường pháp lý, chính sách kinh tế, cơ chế quản lý trong nước được cải cách theo hướng
ngày càng phù hợp với các cam kết tiêu chuẩn cao trong các FTA và ngày càng minh bạch hơn,
tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh trong nước ngày càng thông thoáng hơn, tiệm cận với các

chuẩn mực quốc tế cao của khu vực và thế giới.
Năm là, thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam đạt được nhiều kết quả ấn tượng. Hội
nghị Liên Hợp quốc về thương mại và phát triển đánh giá, Việt Nam nằm trong 12 quốc gia
thành công nhất về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Hiện nay, có gần 26.000 doanh
nghiệp (DN) FDI đang hoạt động ở Việt Nam, với số vốn cam kết đầu tư trên 330 tỷ USD đến từ
gần 130 quốc gia và đối tác. Vốn FDI vào Việt Nam chiếm 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Các
đối tác đã cam kết viện trợ hơn 3 tỷ USD cho Việt Nam trong giai đoạn 2018-2020. Việt Nam
từng bước trở thành một trong những công xưởng của thế giới về cung ứng hàng điện tử, dệt
may, da giầy, điện thoại di động…

14


KẾT LUẬN
Ngày nay, hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu, khách quan trong quá trình toàn
cầu hóa, quốc tế hóa, nó không những có mối liên hệ chặt chẽ với tăng trưởng và phát triển kinh
tế mà còn vừa là kết quả, vừa là yếu tố cực kỳ quan trọng để thúc đẩy kinh tế - xã hội của đất
nước lên một trình độ mới.
Thời gian qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong hội nhập, đã trở thành quốc
gia có vị trí cao trong khu vực, đã tham gia vào tất cả các tổ chức quốc tế lớn: Liên Hợp Quốc và
các định chế của nó; WTO; ASEAN, ASEM, APEC và tham gia ký kết hàng hoạt các Hiệp định
thương mại tự do song phương với các đối tác trong khu vực và trên thế giới. Trong từng lĩnh
vực cụ thể của kinh tế đối ngoại như thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế, v.v… cũng đạt được
nhiều thành tựu đáng khích lệ, mặc dù vẫn còn nhiều hạn chế phải khắc phục. Trong xu thế hội
nhập quốc tế sâu rộng trong thời gian tới, Việt Nam xác định quan điểm tiếp tục thực hiện chính
sách nhằm chủ động hội nhập một cách có hiệu quả nhất.
Trong quá trình chủ động hội nhập, Việt Nam sẽ phải tận dụng mọi lợi thế do hội nhập tạo ra
và hạn chế đến mức thấp nhất các thách thức mà hội nhập quốc tế đặt ra, nâng cao năng lực cạnh
tranh của Việt Nam trên các lĩnh vực hoạt động, tập trung phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng
xã hội, tập trung thực hiện các chương trình thích nghi với hội nhập, cần đổi mới môi trường kinh

doanh, đầu tư theo hướng đẩy mạnh cải cách hành chính, pháp lý, tăng cường sự hợp tác và hỗ trợ
giữa chính quyền và doanh nghiệp, nhất là hỗ trợ các doanh nghiệp hoạt động kinh tế đối ngoại.
Trong xu thế hội nhập, Việt Nam cũng cần tạo thế chủ động, tự tin hội nhập cho tất cả các tầng lớp
dân cư và các giới doanh nhân bằng cách tích cực thực hiện các chương trình tuyên truyền hội nhập,
tạo sự thích ứng hội nhập của các quan chức chính quyền các cấp, tạo những quy tắc ứng xử phù hợp
thông lệ quốc tế trong các hoạt động của đời sống kinh tế - xã hội.

Trong khuôn khổ kiến thức và thời gian, nên bài tiểu luận còn nhiều hạn chế và thiếu sót.
Do vậy, chúng em rất mong được cô đóng góp ý kiến để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn cô!

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay (29/09/2019), Tạp chí Tài
chính, />2.
Hội nhập kinh tế quốc tế, cơ hội và thách thức cho Doanh nghiệp Việt Nam, IPCS,
/>3.
Những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với kinh tế thương mại Việt Nam
(30/07/2019), Tạp chí Công thương, />4.
Một số vấn đề về hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam (02/05/2019), Tạp chí Tổ chức
Nhà nước, />5.
Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế;
6.
Chỉ thị số 25-CT/TW về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030;
7.
Quyết định số 596/QĐ-TTg ngày 23/4/2014 của Thủ tướng Chính phủ thành lập Ban Chỉ
đạo quốc gia về hội nhập quốc tế;

8.
Quyết định số 27/QĐ-BCĐHNQT ngày 26/4/2014 của Ban Chỉ đạo quốc gia về hội
nhập quốc tế ban hành Quy chế hoạt động của Ban Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế;
9.
Quyết định số 04/QĐ-BCĐLNKT ngày 09/1/2015 của Ban Chỉ đạo liên ngành kinh
tế ban hành Quy chế tổ chức, hoạt động của Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế;
10. Vũ Văn Hiền (2018), Đổi mới tư duy về hội nhập kinh tế quốc tế, Hội đồng Lý luận
Trung ương;
11. Thanh Giang (2019), Hội nghị tăng cường hội nhập quốc tế chủ động, sáng tạo, hiệu quả
vì phát triển nhanh và bền vững, Báo Nhân dân diện tử;
12. Lê Hoài Trung (2019), Đối ngoại đa phương góp phần đẩy mạnh hội nhập quốc tế, tăng
cường sức mạnh tổng hợp của đất nước;
13. Hoàng Xuân Hòa (2019), Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế sau 5 năm nhìn lại, Văn
phòng Chính phủ.

16



×