Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Xóa bỏ lao động cưỡng bức trong các công ước quốc tế và nội luật hóa trong pháp luật lao động việt nam 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (811.98 KB, 87 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN TH THANH VN

XóA Bỏ LAO ĐộNG CƯỡNG BứC
TRONG CáC CÔNG ƯớC QUốC Tế Và NộI LUậT HóA
TRONG PHáP LUậT LAO ĐộNG VIệT NAM

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2020


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN TH THANH VN

XóA Bỏ LAO ĐộNG CƯỡNG BứC
TRONG CáC CÔNG ƯớC QUốC Tế Và NộI LUậT HóA
TRONG PHáP LUậT LAO ĐộNG VIệT NAM
Chuyờn ngnh: Lut Kinh t
Mó s: 8380101.05

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: TS. LU BèNH NHNG

H NI - 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Thanh Vân


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: LAO ĐỘNG CƢỠNG BỨC VÀ XÓA BỎ LAO ĐỘNG
CƢỠNG BỨC TRONG CÁC CÔNG ƢỚC QUỐC TẾ.................. 9
1.1.

Khái quát chung về xóa bỏ lao động cƣỡng bức và sự cần thiết
xóa bỏ lao động cƣỡng bức ................................................................. 9

1.1.1. Nguồn gốc của lao động cƣỡng bức ..................................................... 9
1.1.2. Khái niệm lao động cƣỡng bức ........................................................... 10

1.1.3. Đặc điểm lao động cƣỡng bức ............................................................ 12
1.2.

Mục đích và ý nghĩa của việc xóa bỏ lao động cƣỡng bức ............ 14

1.3.

Các quy định về xóa bỏ loại lao động cƣỡng bức trong các công
ƣớc quốc tế ......................................................................................... 17

1.3.1. Các Công ƣớc quốc tế về xóa bỏ lao động cƣỡng bức ....................... 17
1.3.2. Nội dung cơ bản của Công ƣớc số 29 và Nghị định thƣ bổ sung 2014 ....... 18
1.3.3. Nội dung cơ bản của Công ƣớc số 105 ............................................... 21
1.3.4. Các Hiệp định thƣơng mại tự do liên quan đến lao động cƣỡng bức ........ 22
1.4.

Kinh nghiệm một số quốc gia về nội luật hóa pháp luật về xóa
bỏ lao động cƣỡng bức và bài học cho Việt Nam ................................ 27

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................ 33
CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN NỘI LUẬT HÓA CÁC QUY ĐỊNH VỀ
XÓA BỎ LAO ĐỘNG CƢỠNG BỨC TRONG CÁC CÔNG
ƢỚC QUỐC TẾ VÀO PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM .......34
2.1.

Quy định của pháp luật hiện hành về xoá bỏ lao động cƣỡng bức ....... 34


2.1.1. Quy định về xóa bỏ “lao động cƣỡng bức”......................................... 34
2.1.2. Các hình thức biểu hiện của lao động cƣỡng bức ............................... 36

2.1.3. Các trƣờng hợp ngoại lệ của tình trạng lao động cƣỡng bức .............. 42
2.1.4. Các chế tài pháp lý đối với hành vi cƣỡng bức lao động.................... 47
2.1.5. Đánh giá mức độ nội luật hóa các quy định về xóa bỏ lao động cƣỡng
bức trong các công ƣớc quốc tế vào pháp luật lao động Việt Nam ........... 50
2.2.

Thực tiễn thi hành pháp luật về xóa bỏ lao động cƣỡng bức
tại Việt Nam ....................................................................................... 56

2.2.1. Thực trạng lao động cƣỡng bức tại Việt Nam .................................... 56
2.2.2. Thanh tra, xử lý vi phạm đối với lao động cƣỡng bức ....................... 59
2.2.3. Đánh giá chung ................................................................................... 62
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................ 66
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT LAO ĐỘNG VỀ XOÁ BỎ LAO ĐỘNG CƢỠNG BỨC
VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ XOÁ BỎ LAO ĐỘNG CƢỠNG
BỨC TẠI VIỆT NAM .................................................................................67
3.1.

Yêu cầu về hoàn thiện pháp luật về xoá bỏ lao động cƣỡng bức....... 67

3.2.

Một số kiến nghị về hoàn thiện pháp luật về xóa bỏ lao động
cƣỡng bức ........................................................................................... 69

3.3.

Một số kiến nghị về nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về
xóa bỏ lao động cƣỡng bức tai Việt Nam ........................................ 71


KẾT LUẬN CHƢƠNG 3................................................................................ 74
KẾT LUẬN CHUNG .................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 77


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BHXH

Bảo hiểm xã hội

BLLĐ

Bộ luật lao động

CPTPP

Hiệp định Đối tác Toàn diện và tiến bộ xuyên Thái
Bình Dƣơng

EVFTA Hiệp định thƣơng mại tự do Việt Nam – Châu Âu
FTAs

Các Hiệp định thƣơng mại tự do

HĐLĐ

Hợp đồng lao động


ILO

Tổ chức lao động quốc tế

IPA

Hiệp định Bảo hộ đầu tƣ

LĐCB

Lao động cƣỡng bức

NLĐ

Ngƣời lao động

NSDLĐ Ngƣời sử dụng lao động
PLLĐ

Pháp luật lao động

QHLĐ

Quan hệ lao động

TCLĐ

Tranh chấp lao động

TPP


Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dƣơng

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Đối với một con ngƣời, sự tự do từ tình trạng nô lệ, nô dịch, lao động
ép buộc và các dạng lao động bắt buộc là một phần của các quyền tự do cơ
bản và đƣơng nhiên của con ngƣời [65, tr.125]. Quyền này đƣợc thể hiện
trong Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948 [10, Điều 1, 2, 3, 4,
5, 13, 23], trong khi đó, lao động cƣỡng bức (LĐCB) lại đi ngƣợc lại với
quyền tự do này [47, tr.39]. Chính vì thế, các quy định của pháp luật quốc tế
về phòng, chống lại LĐCB & lao động bắt buộc gắn với lịch sử đấu tranh
chống lại ách nô lệ.
Các quy định quốc tế về LĐCB đầu tiên đƣợc thông qua bởi Hội quốc
liên (tiền thân của Liên hiệp quốc) cùng với Công ƣớc giải phóng Nô lệ năm
1926 [7]. Vào năm 1930, Tổ chức lao động quốc tế (ILO) thông qua Công
ƣớc LĐCB năm 1930 (Công ƣớc số 29) [74]. Sau Chiến tranh thế giới lần thứ
II, Liên hiệp quốc và ILO đã thành lập một Ủy ban lâm thời về LĐCB, Ủy
ban đƣợc uỷ thác thực hiện việc điều tra các cáo buộc liên quan đến các dạng
LĐCB đang tồn tại. Kết quả làm việc của Ủy ban này cho thấy sự tồn tại của
một hệ thống hành vi cƣỡng bức lao động trên thế giới có tính chất nghiêm
trọng, là hệ quả của sự ép buộc về chính trị hoặc cho các mục đích kinh tế đòi
hỏi phải có giải pháp pháp lý quốc tế [66, tr.109]. Điều này, dẫn đến việc ILO
thông qua Công ƣớc xoá bỏ LĐCB vào năm 1957 (Công ƣớc số 105).
Việt Nam phê chuẩn Công ƣớc số 29 (1930) vào ngày 05 tháng 3 năm

2007 và Công ƣớc số 105 (1957) vào ngày 08 tháng 6 năm 2020. Cả hai Công
ƣớc số 29 và 105 đã đƣợc nghiên cứu với mục đích phê chuẩn từ năm 2005
của Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội. Trƣớc đây, việc phê chuẩn cả hai
Công ƣớc đã đƣợc trình lên Chủ tịch nƣớc phê duyệt nhƣng chỉ có Công ƣớc

1


số 29 đã đƣợc phê duyệt. Lý do giải thích tại sao Việt Nam chƣa phê chuẩn
Công ƣớc số 105 đã đƣợc cho rằng, tại thời điểm đó, ngƣời ta lo ngại rằng
một số ngành nghề Việt Nam (đặc biệt là các vấn đề lao động của tù nhân) là
không phù hợp với các yêu cầu của Công ƣớc số 105. Mặc dù đã phê chuẩn
Công ƣớc số 29, tuy nhiên, do các quy định của Công ƣớc số 29 không đủ chi
tiết để có thể áp dụng trực tiếp, đồng thời, Công ƣớc mới chỉ chứa đựng các
quy phạm quốc tế mang tính nguyên tắc về thừa nhận các dạng LĐCB chứ
chƣa có cơ chế pháp lý “xoá bỏ” các dạng thức LĐCB đó. Vì vậy, Việt Nam
phải chuyển hoá các nội dung của Công ƣớc số 29 vào pháp luật trong nƣớc
để từ đó triển khai áp dụng chúng trong thực tiễn.
Ngoài những cam kết về việc xóa bỏ LĐCB không chỉ là cam kết của Việt
Nam theo các Công ƣớc của ILO, mà còn làm cam kết của Việt Nam trong các
Hiệp định thƣơng mại tự do thế hệ mới bao gồm: Hiệp định đối tác toàn diện và
tiến bộ xuyên Thái Bình Dƣơng (CPTPP) [4, Chƣơng 19] và Hiệp định thƣơng
mại tự do với Liên minh Châu Âu (EVFTA) [5, Chƣơng 13]. Việc vi phạm các
cam kết quốc tế về LĐCB sẽ có nguy cơ gây khó khăn cho sản phẩm, hàng
hóa của Việt Nam trong quan hệ thƣơng mại quốc tế, thậm chí có thể dẫn
đến trừng phạt thƣơng mại theo các điều kiện theo quy định của Hiệp định
CPTPP [4, Chƣơng 28].
Ở Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên hiến định việc nghiêm
cấm phân biệt đối xử, LĐCB, sử dụng nhân công dƣới độ tuổi lao động tối
thiểu. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng và là căn cứ để vừa hoàn thiện hệ

thống pháp luật vừa thể hiện nghĩa vụ của Việt Nam với cộng đồng quốc tế
trong phòng, chống và xóa bỏ LĐCB. Hệ thống các quy phạm về phòng,
chống LĐCB ở Việt Nam dần đƣợc xây dựng và đƣợc thể hiện trong nhiều
văn bản khác nhau nhƣ: Bộ luật Lao động (BLLĐ), Bộ luật Hình sự, Luật xử
lý vi phạm hành chính, Luật Thi hành án hình sự, Luật phòng, chống mua bán

2


ngƣời, Luật đƣa NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nƣớc ngoài theo hợp đồng,
Luật Việc làm...
Trong bối cảnh hệ thống pháp luật lao động đã và đang đƣợc hoàn
thiện, thông qua việc ban hành Bộ luật Lao động năm 2019, sửa đổi Luật
NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nƣớc ngoài theo hợp đồng... nhằm đáp ứng
yêu cầu trong nƣớc và quốc tế, việc nghiên cứu, đánh giá việc nội luật hóa
các quy định về xóa bỏ LĐCB trong các công ƣớc quốc tế vào pháp luật lao
động Việt Nam. Từ đó, đề xuất giải pháp về nội luật hóa nhằm hoàn thiện
pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện các quy định về
LĐCB tại Việt Nam là hết sức cần thiết.
Với lý do nhƣ vậy, Học viên chọn đề tài “Xóa bỏ lao động cưỡng bức
trong các công ước quốc tế và nội luật hóa trong pháp luật lao động Việt
Nam” làm Đề tài Luận văn Thạc sĩ cho mình.
2. Tình hình nghiên cứu
2.1. Về tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
LĐCB là vấn đề mang tính toàn cầu, không chỉ đƣợc ILO quy định
trong các văn kiện pháp lý đối với các quốc gia thành viên mà còn là đề tài
đƣợc quan tâm tiếp cận, nghiên cứu với nhiều góc độ, phƣơng diện khác nhau.
Có thể kể đến một số nghiên cứu nhƣ:
Cuốn sách “Forced Labor: Coercion and Exploitation in the Private
Economy” (2009) (LĐCB: cƣỡng bức và bóc lột trong nền kinh tế tƣ nhân)

đƣợc giới thiệu bởi hai chuyên gia của ILO là Beate Andrees và Patrick
Belser. Cuốn sách “Slavery, Forced labor, Debt bondage, and Human
Traficking: From Conceptional Confusion to Targeted Solutions” (2011) của
Ann Jordan. Báo cáo “How to Combat Forced Labour and Trafficking” (2009)
của tổ chức Liên đoàn công đoàn quốc tế (ITUC); Bài viết: “Compensation for
Forced during World War II in Nazi Germany”, tác giả Siefert Achim đăng

3


trên tạp chí International Journal of Comparative Labour Law and Industrial
Relation, Vol.17, Số 4/2001; Sách “A perspective plan to eliminate forced
labour in India” (Kế hoạch tổng thể để xóa bỏ LĐCB ở Ấn Độ) của Tiến sĩ L.
Mishra, 2001; Cuốn sách “Regulation and Enforcement to Tackle Foced
Labour in the UK: A Systematic Response?” (2012) của tác giả Alex Balch
thuộc tổ chức Joseph Rowntree Foundation…
Các nghiên cứu thƣờng tập trung đến nguyên tắc cấm LĐCB cũng nhƣ
chế tài xử phạt và thanh tra, xử lý vi phạm. Có thể thấy nghiên cứu về LĐCB
trên thế giới đã đƣợc quan tâm và mang tính phổ biến gắn với những nỗ lực
quyết liệt của ILO trong chƣơng trình hành động đặc biệt chống LĐCB từ
những năm 2000 và sự nâng cao về nhận thức của cộng đồng thế giới đối với
vấn nạn này. Đóng góp lớn nhất của những nghiên cứu trên thế giới là đã vẽ
lên đƣợc một bức tranh toàn cầu khá chi tiết và rõ nét về thực trạng LĐCB,
thực trạng pháp luật và thực thi pháp luật của một số quốc gia điển hình về
thành công và cả về thất bại trong cuộc chiến đấu tranh chống và xóa bỏ
LĐCB. Tuy nhiên, các nghiên cứu này chƣa đi sâu phân tích việc nội luật hóa các
quy định này vào pháp luật quốc gia.

Các công trình trong nƣớc nêu trên đã đề cập khái quát về khái niệm,
các hình thức LĐCB, nguồn gốc và sự cần thiết phải xóa bỏ LĐCB. Một số

nghiên cứu đã có sự so sánh, đối chiếu liên quan đến vấn đề xung đột pháp
luật giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế trong nội dung điều chỉnh
đối với LĐCB. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu của các công trình trên có
phạm vi rộng nên chƣa có điều kiện phân tích, đánh giá đầy đủ và chuyên sâu
về thực trạng nội dung điều chỉnh của PLLĐ Việt Nam đối với LĐCB.
2.2. Về tình hình nghiên cứu trong nước
Từ khi Việt Nam ký Công ƣớc số 29 của ILO Cho đến nay, ở nƣớc ta
chƣa có một công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ vấn đề nội luật hóa

4


quy định của Công ƣớc và đánh giá việc tổ chức triển khai thực hiện. Số
lƣợng công trình nhiên cứu khoa học về LĐCB cũng còn tƣơng đối hạn chế.
Các công trình nhƣ luận án, luận văn và các đề tài nghiên cứu khoa học liên
quan đến vấn đề này cũng chƣa đủ để đáp ứng đƣợc yêu cầu thực tiễn đòi hỏi.
Một số công trình cơ bản nghiên cứu về LĐCB nhƣ: Luận văn Thạc sỹ:
“Pháp luật Quốc tế và pháp luật Việt Nam về xóa bỏ LĐCB hoặc bắt buộc”
(2012) của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Yến; Luận văn Thạc sỹ: “Pháp luật Việt
Nam với vấn đề LĐCB – Thực trạng và một số kiến nghị” (2015) của tác giả
Nguyễn Tiến Dũng; Bài viết, “Nhận diện Nhận diện về LĐCB trong pháp luật
lao động Việt Nam hiện hành” (2015) đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật và
Luận án Tiến sĩ về “Điều chỉnh pháp luật lao động Việt Nam đối với LĐCB” của
tác giả Phan Thị Thanh Huyền; Luận án Tiến sĩ về "Pháp luật về chống LĐCB
nhìn từ góc độ phát triển toàn diện" của Tác giả Phan Thị Nhật Tài. Bài viết
“Những quy định cơ bản của tổ chức lao động quốc tế về xóa bỏ LĐCB (lao
động bắt buộc) và các cam kết quốc tế của Việt Nam” của tác giả Lê Thị Hoài
Thu đăng trên Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật số 12/2012; Sách “Một số vấn
đề liên quan đến LĐCB và xoá bỏ LĐCB” (2007) của Vụ pháp chế, Bộ lao
động - Thƣơng binh - Xã hội; sách “Hỏi đáp về công ước số 29 về LĐCB

hoặc bắt buộc của tổ chức lao động quốc tế” (2007) do Vụ pháp chế, Bộ lao
động - thƣơng bình và xã hội; Tập sách “Đấu tranh chống LĐCB - Sổ tay
dành cho NSDLĐ và doanh nghiệp” (2008) do Tổ chức lao động Quốc tế và
Phòng Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam phối hợp soạn thảo.
Các công trình trong nƣớc nêu trên đã đề cập khái quát về khái niệm,
các hình thức LĐCB, nguồn gốc và sự cần thiết phải xóa bỏ LĐCB. Một số
nghiên cứu đã có sự so sánh, đối chiếu liên quan đến vấn đề xung đột pháp
luật giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế trong nội dung điều chỉnh

5


đối với LĐCB. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu của luận văn rộng nên chƣa
có điều kiện phân tích, đánh giá đầy đủ và chuyên sâu về thực trạng nội dung
điều chỉnh của PLLĐ Việt Nam đối với LĐCB. Nhìn chung, vấn đề LĐCB đã
đƣợc các nhà nghiên cứu tiếp cận trên một số phƣơng diện khác nhau. Tuy
nhiên, trong các công trình nghiên cứu trong nƣớc nêu trên, chƣa có công trình
nào nghiên cứu dƣới góc độ nội luật hóa các quy định về xóa bỏ LĐCB trong
các công ƣớc quốc tế (gồm cả công ƣớc của ILO và của Liên hợp quốc) và các
FTAs vào hệ thống pháp luật Việt Nam. Chƣa có công trình nào nghiên cứu, đề
xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về phòng chống LĐCB trong bối cảnh
Việt Nam phải thực thi các cam kết về lao động trong CPTPP và EVFTA.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là nhằm nghiên cứu, đánh giá việc nội
luật hóa các quy định về xóa bỏ LĐCB trong các công ƣớc quốc tế vào pháp
luật lao động Việt Nam. Từ đó, đề xuất giải pháp về nội luật hóa nhằm hoàn
thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện các quy định
về LĐCB tại Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt đƣợc mục tiêu nêu trên, Luận văn tập trung vào giải quyết các
nhiệm vụ cơ bản nhƣ sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về LĐCB.
- Hệ thống hóa và phân tích các quy định về xóa bỏ LĐCB trong các
công ƣớc quốc tế.
- Phân tích việc nội luật hóa các quy định về xóa bỏ LĐCB trong các
công ƣớc quốc tế vào pháp luật Việt Nam nói chung, trong đó, tập trung đánh
giá việc nội luật hóa và pháp luật lao động Việt Nam.

6


- Phân tích, đánh giá thực trạng việc thực hiện các quy phạm pháp luật
lao động Việt Nam về xóa bỏ LĐCB.
- Trên cơ sở thực trạng quy định của pháp luật lao động Việt Nam về
LĐCB và thực tiện thực hiện, đề xuất giải pháp về nội luật hóa nhằm hoàn
thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện các quy định
về LĐCB tại Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn xác định đối tƣợng nghiên cứu gồm những vấn đề lý luận cơ
bản về điều chỉnh pháp luật lao động đối với LĐCB; Các quy định về xóa bỏ
LĐCB trong các công ƣớc quốc tế và việc nội luật hóa trong pháp luật lao
động ở Việt Nam hiện nay; thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp
luật về xóa bỏ lao động cƣỡng bức tại Việt Nam, từ đó đề xuất các giải pháp
về hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về xóa bỏ
LĐCB tại Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận văn nghiên cứu về xóa bỏ LĐCB trong các công
ƣớc quốc tế, các FTAs mà Việt Nam là thành viên và trong pháp luật lao động

ở Việt Nam
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu về xóa bỏ LĐCB từ khi Bộ luật Lao
động năm 2012 có hiệu lực đến nay (tháng 5/2013 đến nay).
5. Tính mới và những đóng góp của đề tài
- Về mặt khoa học: Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm các vấn đề lý
luận về nội luật hóa các quy định của công ƣớc quốc tế vào hệ thống pháp
luật lao động của Việt Nam phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam và
yêu cầu hội nhập, nhất là việc thực hiện các cam kết về lao động trong các
FTAs thế hệ mới nhƣ CPTPP, EVFTA. Kết quả nghiên cứu của Luận văn

7


góp phần xây dựng cơ sở lý luận cho việc hoàn thiện pháp luật về xóa bỏ
LĐCB ở Việt Nam.
- Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể đƣợc sử
dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy cũng nhƣ thực tiễn
thi hành pháp luật về xóa bỏ LĐCB. Những kiến nghị cụ thể của Luận văn
có thể đƣợc cân nhắc, xem xét trong quá trình hoàn thiện Pháp luật Lao động
hiện nay.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của Luận văn đƣợc kết cấu thành ba chƣơng:
Chƣơng 1: Lao động cƣỡng bức và xóa bỏ lao động cƣỡng bức trong
các công ƣớc quốc tế.
Chƣơng 2: Thực tiễn nội luật hóa các quy định về xóa bỏ lao động
cƣỡng bức trong các công ƣớc quốc tế vào pháp luật lao động Việt Nam.
Chƣơng 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật lao động về
cƣỡng bức và nâng cao hiệu quả xóa bỏ lao động cƣỡng bức tại Việt Nam.


8


CHƢƠNG 1
LAO ĐỘNG CƢỠNG BỨC VÀ XÓA BỎ LAO ĐỘNG CƢỠNG BỨC
TRONG CÁC CÔNG ƢỚC QUỐC TẾ
1.1. Khái quát chung về xóa bỏ lao động cƣỡng bức và sự cần thiết
xóa bỏ lao động cƣỡng bức
1.1.1. Nguồn gốc của lao động cưỡng bức
LĐCB có nguồn gốc sâu xa, bắt nguồn từ xã hội chiếm hữu nô lệ. Nô lệ
là những lao động bần cùng trong xã hội. Họ bị xã hội và pháp luật đặt trong
tình trạng “vô quyền”, đƣợc coi nhƣ những công cụ lao động biết nói, một
loại tài sản mà giới chủ đồn điền có thể sở hữu và tự do mua bán, trao đổi. Họ
bị ép buộc làm việc quần quật trên các đồn điền, công xƣởng, bị đánh đập,
thậm chí bị giết nếu không thực hiện các công việc mà chủ đồn điền yêu cầu.
LĐCB kiểu mới với các hành vi tƣơng tự nhƣ nô lệ đã ngày càng trở thành
một vấn đề rõ ràng tại một châu lục có lịch sử gắn với chế độ lao động nô lệ
nhƣ ở châu Phi hay Brazil và tại đây cũng có những bản báo cáo nói về các
mô hình phân biệt đối xử với những ngƣời có nguồn gốc nô lệ [34, tr.34].
Cùng với sự phát triển của xã hội, khi mà cộng đồng ý thức đƣợc
rằng con ngƣời sinh ra có những quyền tự do, độc lập và quyền đó là bất
khả xâm phạm, luật pháp quốc tế và pháp luật các quốc gia đều cấm mọi
hình thức chiếm hữu, buôn bán và sử dụng nô lệ. Việc ép buộc một ngƣời
phải làm việc ngoài sự tự nguyện của họ cho ngƣời khác đƣợc coi là vi
phạm quyền cơ bản của con ngƣời. Tuy nhiên, trên thực tế vì nhiều lý do
khác nhau mà không phải lúc nào sự tự do và các quyền cơ bản ấy cũng
đƣợc thực thi. Ngay ở thời kỳ đƣơng đại, trong xu thế dân chủ và công
bằng, tình trạng LĐCB vẫn còn tồn tại và hơn thế nữa có xu hƣớng gia
tăng. Một số NSDLĐ với mục đích tối đa hóa lợi nhuận đã không ngần


9


ngại sử dụng LĐCB. Điều này không chỉ diễn ra ở các nƣớc nghèo, kém
phát triển mà diễn ra ngay ở các quốc gia phát triển.
Đói nghèo và khoảng cách giàu - nghèo quá lớn cũng là nguồn gốc
và nguyên nhân sâu xa đẩy không ít NLĐ rơi vào hoàn cảnh phải chấp
nhận sự áp đặt công việc và điều kiện làm việc tồi tệ từ phía NSDLĐ để
duy trì sự tồn tại của mình. Đôi khi ngƣời ta tranh luận rằng nghèo đói là
nguồn gốc cơ bản của tình trạng LĐCB và giải pháp duy nhất để có thể
khắc phục vấn đề này là xóa bỏ một cách toàn diện tình trạng đói nghèo.
Tuy nhiên ngƣợc lại, nghèo đói cũng có thể là một hậu quả trực tiếp của
LĐCB. “Không còn nghi ngờ gì nữa, nạn nhân của LĐCB thuộc số 522
triệu ngƣời nghèo ở Nam Á” [34, tr.35]
LĐCB ngày nay cũng có thể bắt nguồn từ nạn buôn bán ngƣời. Buôn
bán ngƣời nhằm mục đích bóc lột sức lao động của nạn nhân chính là một
trong những hình thức LĐCB phổ biến ngày nay, gắn với xu hƣớng di cƣ của
NLĐ và quá trình toàn cầu hóa. Cùng với nạn buôn bán ngƣời, trong một vài
trƣờng hợp, sự tồn tại dai dẳng của tình trạng LĐCB ngày nay có thể là do
hậu quả của những mô hình phân biệt đối xử kéo dài đối với những dân tộc
thiểu số và đẳng cấp trong xã hội. Châu Á là một điển hình về LĐCB nảy sinh
bắt nguồn từ sự phân chia đẳng cấp và các bộ tộc (nhƣ ở Ấn Độ), hay sự phân
biệt đối xử về dân tộc, về tôn giáo giữa các bộ lạc bản xứ (nhƣ ở miền Tây và
trong số cộng đồng phi hồi giáo ở Nepan) [9].
1.1.2. Khái niệm lao động cưỡng bức
Thoát khỏi tình trạng nô lệ, nô dịch, lao động ép buộc và các dạng lao
động bắt buộc là mục đích nhân văn của xã hội hiện đại, hƣớng tới bảo vệ các
quyền tự do cơ bản và đƣơng nhiên của con ngƣời. Theo cách hiểu chung
nhất, LĐCB hay lao động cƣỡng bách là một hình thức bắt buộc, áp lực ngƣời
khác làm việc trái với ý muốn của họ, trong những điều kiện tồi tệ, hoặc trong


10


tình trạng bị giam lỏng. LĐCB vừa là một thuật ngữ pháp luật vừa là một hiện
tƣợng kinh tế. Việc "tôn trọng, thúc đẩy và đảm bảo" nguyên tắc xoá bỏ tất cả
các dạng của LĐCB sẽ là bất khả thi nếu nhƣ chúng ta không có một cách
hiểu đúng về cụm từ LĐCB [55, tr.9].
Điều 1, Công ƣớc số 29 của ILO định nghĩa “LĐCB là tất cả các công
việc hay dịch vụ do một người bất kỳ thực hiện dưới sự đe dọa bằng hình phạt
và người phải thực hiện công việc hay dịch vụ đó không tự nguyện làm”.
Có 3 thành tố cấu thành nên khái niệm LĐCB, đó là:
“Công việc hoặc dịch vụ”: Về công việc sử dụng LĐCB theo Công ƣớc
số 29 không chỉ những việc làm hợp pháp trong hợp đồng lao động mà có thể
là công việc bất hợp pháp, không liên quan đến quan hệ lao động trừ trƣờng
hợp đó là nghĩa vụ đƣợc áp đặt phải trải qua trong chƣơng trình giáo dục bắt
buộc hoặc chƣơng trình đào tạo nghề bắt buộc đƣợc đề cập tới trong các ngoại
lệ của LĐCB.
“Sự đe dọa bằng hình phạt”: Theo công ƣớc số 29 thì đây là hậu quả
mà ngƣời bị cƣỡng bức lao động hoặc nhân thân của họ sẽ phải chịu khi
ngƣời bị cƣỡng bức lao động không thực hiện công việc đƣợc yêu cầu. Trên
thực tế, hành vi đe dọa về hậu quả xảy ra khi ngƣời bị cƣỡng bức lao động khi
không thực hiện công việc là rất đa dạng và phong phú. Hình phạt đó không
nhất thiết dƣới hình thức là chế tài hình sự, đó có thể là việc bạo lực về thể
chất nhƣ sử dụng vũ lực, bắt giữ ngƣời bị cƣỡng bức lao động và thân nhân
của họ. Nhƣng cƣỡng bức lao động cũng có thể biểu hiện dƣới các hành vi
tinh vi hơn nhƣ mất đi một số quyền trong quan hệ lao động nhƣ không cho
NLĐ hƣởng trợ cấp hay đe dọa tiết lộ bí mật đời tƣ của ngƣời bị cƣỡng bức
lao động và nhân thân của họ. Hình phạt khác có thể có tính chất tài chính,
bao gồm cả trừng phạt kinh tế liên quan đến các khoản nợ, không thanh toán

tiền lƣơng, hoặc mất tiền lƣơng đi kèm với các mối đe dọa sa thải nếu công

11


nhân từ chối làm thêm giờ vƣợt ra ngoài phạm vi hợp đồng của họ hoặc của
pháp luật quốc gia. NSDLĐ trong một số trƣờng hợp sẽ yêu cầu giữ các giấy
tờ tuỳ thân của NLĐ, và có thể sử dụng điều này nhƣ một mối đe dọa để
cƣỡng bức lao động.
“Không tự nguyện thực hiện”: có nghĩa là NLĐ không có sự đồng ý
làm việc, không sẵn sàng làm việc. Điều này cho thấy quyền của NLĐ
trong tự do lựa chọn việc làm, quyền tự do rời khỏi việc làm của họ không
đƣợc thực hiện.
Khái niệm LĐCB áp dụng cho mọi độ tuổi bao gồm ngƣời lớn và trẻ
em, có nghĩa trong mọi trƣờng hợp Công ƣớc số 29 của ILO đều đƣợc áp
dụng. Tuy nhiên, Công ƣớc số 29 của ILO không định nghĩa cụ thể khái niệm
“trẻ em” khi xem xét vấn đề “LĐCB”. Chỉ có Công ƣớc số 182 về những điều
kiện lao động tồi tệ nhất đối với trẻ em 1999 của ILO đƣa ra định nghĩa “trẻ
em” là những ngƣời dƣới 18 tuổi [30, Điều 2]. Tuy nhiên, Công ƣớc số 182
ngoài việc đƣa ra một khái niệm rất rõ ràng về điều kiện lao động tồi tệ nhất
bao gồm việc “tuyển lựa một cách cưỡng bức hoặc bắt buộc trẻ em để tham
gia vào các cuộc xung đột vũ trang” thì không đƣa ra thêm bất kì một giải
thích nào khác về những yếu tố cấu thành “LĐCB đối với trẻ em” nên trong
trƣờng hợp cần tìm hiểu về “LĐCB đối với trẻ em” là nhƣ thế nào thì Công
ƣớc số 29 của ILO sẽ đƣợc dẫn chiếu và áp dụng.
1.1.3. Đặc điểm lao động cưỡng bức
Trên cơ sở khái niệm LĐCB của ILO, LĐCB có những đặc điểm cơ
bản sau:
a) LĐCB là tình trạng một người bị người khác ép buộc thực hiện công
việc hoặc dịch vụ

Yếu tố “ép buộc” trái pháp luật thực hiện công việc hoặc dịch vụ và
yếu tố “không tự nguyện” của NLĐ là hai yếu tố cốt lõi thuộc về bản chất

12


của LĐCB. Hai yếu tố này trở thành những dấu hiệu không thể thiếu của
LĐCB. NLĐ ở đây không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc tuân theo sự
ép buộc phải thực hiện công việc. Yếu tố ép buộc làm một hoặc nhiều công
việc hoặc dịch vụ phải xuất phát từ ngƣời khác, từ một cá nhân, một tổ
chức hoặc một nhóm ngƣời cụ thể. Tuy nhiên, chƣa thể xác định một ngƣời
rơi vào tình trạng LĐCB nếu họ buộc phải thực hiện công việc do hoàn
cảnh kinh tế, xã hội khó khăn hoặc do điều kiện bản thân khiến họ không
thể làm một công việc khác. Trƣờng hợp đối tƣợng khác lợi dụng tình trạng
khó khăn, lệ thuộc khiến một ngƣời không có sự lựa chọn nào khác ngoài
việc phải tuân theo sự ép buộc phải thực hiện hành vi đó, thì khi đó mới có
khả năng phát sinh tình trạng LĐCB.
b) NLĐ luôn chịu sự theo dõi, giám sát trong quá trình thực hiện công
việc hay dịch vụ
Chủ thể theo dõi, giám sát là chủ thể đƣợc hƣởng lợi ích trực tiếp từ
việc thực hiện, công việc dịch vụ đó hoặc là ngƣời đƣợc ngƣời có công việc,
dịch vụ thuê làm công việc giám sát này. Hoạt động theo dõi, giám sát này
khác với hoạt động quản lý NLĐ của NSDLĐ đƣợc quy định trong pháp luật
của các quốc gia. Quản lý là nhu cầu tất yếu của nền sản xuất trong xã hội có
giai cấp. Phạm vi quản lý lao động của NSDLĐ chỉ giới hạn trong quá trình
NLĐ thực hiện quyền và nghĩa vụ lao động, phát sinh từ khi các bên thiết lập
đến khi chấm dứt quan hệ lao động. Trong LĐCB, việc giám sát, theo dõi
ngƣời bị cƣỡng bức lao động đƣợc thực hiện thƣờng xuyên, liên tục, không kể
thời gian nghỉ ngơi hay khi thực hiện công việc. Việc giám sát cũng đƣợc
thực hiện trên nhiều nội dung khác nhau, từ ăn ở, sinh hoạt cá nhân đến việc

thực hiện công việc. Mục đích của quản lý lao động là nhằm thiết lập trật tự,
kỉ cƣơng trong đơn vị sử dụng lao động để sử dụng sức lao động một cách
hợp lý, hiệu quả. Trong khi đó, việc theo dõi, giám sát đối với LĐCB nhằm
khiến họ không có cơ hội thoát khỏi tình trạng cƣỡng bức.

13


c) Người bị ép buộc thực hiện công việc luôn trong tình trạng bị đe dọa
về những hậu quả bất lợi có thể xảy ra đối với bản thân hoặc thân nhân của
họ khi họ không thực hiện công việc theo yêu cầu
Việc đe dọa hay áp dụng các hình phạt nhằm ép buộc NLĐ phải làm
những công việc mà bản thân họ không tự nguyện theo Công ƣớc số 29 không
chỉ đối với NLĐ mà có thể đối với cả thân nhân họ. Thân nhân của ngƣời bị
cƣỡng bức lao động đƣợc hiểu theo nghĩa chung, tức là không chỉ những
ngƣời có quan hệ hôn nhân hay quan hệ huyết thống mà còn bao gồm cả quan
hệ nuôi dƣỡng hay quan hệ tình cảm đối với ngƣời bị cƣỡng bức lao động.
Hậu quả bất lợi có thể xảy ra đối với bản thân hoặc thân nhân ngƣời bị cƣỡng
bức rất đa dạng với những mức độ nghiêm trọng khác nhau. Hậu quả bất lợi
có thể là hậu quả về vật chất hoặc hậu quả về tinh thần mà NSDLĐ có thể đƣa
ra nhằm ép buộc NLĐ thực hiện công việc. Khái niệm LĐCB mà Công ƣớc
số 29 đƣa ra không bó hẹp dƣới dạng các hành động cụ thể là “đánh đập,
nhục mạ hoặc bị ép buộc”, mà nó thể hiện dƣới dạng cả đe dọa và cả hành
động liên quan tới bạo lực hay hạn chế thân thể hoặc tƣớc đoạt quyền tự do và
các đặc quyền khác của NLĐ. Chính sự đe dọa này là nguyên nhân trực tiếp
dẫn đến hành vi thực hiện công việc mà bản thân họ không mong muốn.
1.2. Mục đích và ý nghĩa của việc xóa bỏ lao động cƣỡng bức
LĐCB là những công việc xuất phát từ sự ép buộc, bạo lực, đe dọa và
sợ hãi, là tàn dƣ của chế độ nô lệ. NLĐ là nạn nhân của cƣỡng bức lao động
không thể có sự tự do lựa chọn trong công việc, do vậy, sản phẩm công việc

có đƣợc từ LĐCB không thể là sản phẩm của sự tự do, sáng tạo, năng động,
hài lòng trong công việc của ngƣời thực hiện nó. Những công việc nhƣ vậy sẽ
không thể đem lại những thành tựu lớn cho nhân loại. Chúng chỉ gây tổn
thƣơng và đem lại sự nghèo đói, bần cùng cho NLĐ và không có lợi cho sự
phát triển chung của xã hội. Quan hệ lao động sẽ tồn tại một cách hài hòa, ổn

14


định, tiến bộ và phát triển nếu NLĐ đƣợc tham gia một cách tự do, tự nguyện
vào quá trình lao động sản xuất cũng nhƣ đƣợc chia sẻ một cách bình đẳng
những của cải, vật chất làm ra.
LĐCB tồn tại trong quan hệ lao động dựa trên vấn đề cốt lõi, đó là bên
áp đặt lao động trái pháp luật tận dụng mọi cơ hội để ép buộc NLĐ làm việc
trái với ý chí tự nguyện của họ nhằm chiếm đoạt nhiều nhất lợi ích đƣợc tạo
ra từ công việc hoặc dịch vụ do NLĐ thực hiện. Vì vậy, xóa bỏ LĐCB mang
đến mục đích và ý nghĩa hết sức quan trọng.
Thứ nhất, xóa bỏ LĐCB mang lại sự công bằng giữa các chủ thể trong
quan hệ lao động. Xóa bỏ LĐCB mang lại sự hài hòa hóa những lợi ích khác
nhau giữa các bên chủ thể để cùng phát triển và đạt đƣợc lợi ích chung cao
nhất, không để một lợi ích kinh tế tƣ nhân nào thống trị bằng các mệnh lệnh
hoặc bạo lực. Nền tảng của thị trƣờng lao động, hoạt động lao động bắt buộc
phải dựa trên sự thƣơng lƣợng, các thỏa thuận hợp đồng bình đẳng chứ không
thể dựa trên hình phạt, sự ép buộc hoặc sự sợ hãi. Xóa bỏ LĐCB là sự đảm
bảo rằng, ngay cả nhà nƣớc với tƣ cách là ngƣời bảo vệ quyền lợi công cũng
không đƣợc cao hơn pháp luật trong hành động của mình, đặc biệt là hành
động đó có ảnh hƣởng tới lợi ích cá nhân. Xóa bỏ LĐCB đồng thời cũng là sự
đảm bảo cho giá trị của “toàn cầu hóa công bằng”. Dân chủ, văn minh và đổi
mới sẽ không thể thực hiện đƣợc nếu con ngƣời không đƣợc tự do bày tỏ quan
điểm và phát triển ý tƣởng mới. Sự phát triển không chỉ là sản lƣợng đầu ra

của nền kinh tế mà hai yếu tố sau cùng có vai trò tƣơng đƣơng: các sản phẩm
của nền kinh tế đƣợc tạo ra nhƣ thế nào? Những ai đƣợc hƣởng lợi từ những
sản phẩm đó?
Thứ hai, đối với mỗi quốc gia, việc xóa bỏ hoàn toàn các hình thức
LĐCB vừa là một nghĩa vụ pháp lý quốc tế, vừa là hành động nhằm thực hiện
cam kết bảo vệ quyền con ngƣời, là chỉ số đánh giá dân chủ và tiến bộ xã hội,

15


đóng vai trò rất lớn trong việc thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Đồng thời xóa bỏ LĐCB sẽ giúp cho các quốc gia tránh đƣợc tác động tiêu
cực đối với khả năng thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài.
Thứ ba, xóa bỏ LĐCB có ý nghĩa lớn đối với các doanh nghiệp. Hiện
nay, trong hoạt động thƣơng mại xuất nhập khẩu và đầu tƣ, các doanh nghiệp
dần tiến tới yêu cầu các đối tác thực hiện việc đảm bảo các tiêu chuẩn lao
động cơ bản và trong các thỏa thuận đầu ra của sản phẩm hàng hóa dịch vụ.
Xóa bỏ LĐCB cũng đƣợc đƣa vào nội dung các hiệp định thƣơng mại quốc tế,
trong đó, việc không sử dụng LĐCB là điều kiện bắt buộc thực hiện để đƣợc
hƣởng các ƣu đãi thuế quan, tránh các vi phạm thƣơng mại quốc tế do hành vi
cạnh tranh không lành mạnh và phản ứng tập thể của khách hàng và các cổ
đông tại thị trƣờng nhập khẩu của hàng hóa, đặc biệt là tại các thị trƣờng phát
triển nhƣ Bắc Mỹ và Châu Âu, nơi mà các sản phẩm do LĐCB làm ra không
đƣợc chấp nhận. Chính vì thế, việc phòng, chống các hành vi cƣỡng bức lao
động khuyến khích doanh nghiệp không thực hiện các hành vi cƣỡng bức lao
động, góp phần giúp cho hàng hóa của các doanh nghiệp khi xuất khẩu sang
thị trƣờng nƣớc ngoài tránh đƣợc các rủi ro bị cấm nhập hoặc bị tẩy chay bởi
quốc gia nhập khẩu hàng hóa đó.
Việc tồn tại LĐCB không những làm giảm năng xuất lao động, ảnh
hƣởng đến chất lƣợng nguồn nhân lực, tạo sự bất bình đẳng trong quan hệ lao

động, gây bất lợi cho sự phát triển và ổn định của các doanh nghiệp nói riêng
mà còn cản trở sự phát triển của quan hệ lao động và tiến bộ xã hội nói chung.
Thứ tư, xóa bỏ LĐCB đảm bảo nhân quyền, các quyền tự do cơ bản của
con ngƣời đƣợc bảo vệ, trong đó quyền đƣợc tự do lựa chọn công việc để lao
động sinh sống, quyền đƣợc tự nguyện ý chí trong việc quyết định tiếp tục
hoặc chấm dứt một công việc có ý nghĩa quan trọng đối với NLĐ. Những nơi
làm việc còn tồn tại lao động động cƣỡng bức thì những nơi đó còn tồn tại sự

16


bất mãn, tổn thƣơng cả về thể chất lẫn tinh thần, thậm chí là nhân phẩm, danh
dự, các quyền tự do thân thể của NLĐ. Đây là nguyên nhân dẫn đến sự bần
cùng hóa của NLĐ. Do vậy, còn có LĐCB, có nghĩa là ngƣời sử dụng lao
động không tôn trọng và không quan tâm tới quyền cũng nhƣ lợi ích hợp
pháp, chính đáng của NLĐ và đó là một biểu hiện của sự bất công. LĐCB sẽ
không bao giờ khuyến khích đƣợc tính tích cực, sự sáng tạo, sự thăng hoa
trong công việc của NLĐ.
Một xã hội phát triển và văn minh cần thiết phải có sự công bằng trong
việc hƣởng thụ thành quả của NLĐ. Xóa bỏ LĐCB cũng sẽ góp phần ngăn
chặn tình trạng bóc lột NLĐ, đảm bảo sự công bằng và sự bù đắp tƣơng xứng
cho công sức mà NLĐ phải bỏ ra trong quá trình làm việc và là một trong
những cách thức góp phần tạo môi trƣờng và điều kiện lao động khuyến khích
đƣợc tính tích cực, sự say mê, sáng tạo, cống hiến của NLĐ cho công việc,
qua đó góp phần nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực, tạo ra những thành tựu
lớn, thúc đẩy sự phát triển chung của kinh tế và xã hội.
1.3. Các quy định về xóa bỏ loại lao động cƣỡng bức trong các công
ƣớc quốc tế
1.3.1. Các Công ước quốc tế về xóa bỏ lao động cưỡng bức
Nhƣ đã phân tích ở trên, việc xoá bỏ có ý nghĩa hết sức to lớn. Chính vì

thế, đƣợc sự quan tâm của cả cộng đồng quốc tế cũng nhƣ các thiết chế toàn
cầu, trong đó có ILO. Một trong những công cụ pháp lý cơ bản của ILO để
xoá bỏ LĐCB là ban hành và triển khai thực hiện các tiêu chuẩn lao động
quốc tế. Các tiêu chuẩn lao động quốc tế của ILO về xóa bỏ LĐCB đƣợc thể
hiện tập trung tại hai Công ƣớc cơ bản và một Nghị định thƣ, bao gồm: Công
ƣớc số 29, năm 1930 về LĐCB hoặc bắt buộc; Công ƣớc số 105, năm 1957 về
xóa bỏ LĐCB; và Nghị định thƣ năm 2014 bổ sung cho Công ƣớc số 29.

17


Ngoài hai Công ƣớc nêu trên, tổ chức Lao động quốc tế cũng ban hành
một số công ƣớc và khuyến nghị có quy định trực tiếp hoặc gián tiếp về
LĐCB [74]. Ví dụ nhƣ Khuyến nghị về LĐCB (không bắt buộc) năm 1930
(trang 35); Khuyến nghị Đề án Thanh niên đặc biệt năm 1970 (số 136); Công
ƣớc Chính sách việc làm năm 1964 (số 122); Công ƣớc về các dạng tồi tệ nhất
của lao động trẻ em năm 1999 (số 182); Công ƣớc dân tộc thiểu số và Bộ lạc
năm 1989 (số 169) sửa đổi một công ƣớc khác trƣớc đó là Công ƣớc về dân
tộc thiểu số và Bộ lạc bản địa năm 1957 (số 107); Công ƣớc về việc làm cho
ngƣời di cƣ (đã đƣợc sửa đổi) năm 1949 (số 97); Công ƣớc NLĐ nhập cƣ (các
điều khoản bổ sung) năm 1975 (số 143); Nghị định thƣ năm 2014 bổ sung cho
Công ƣớc số 29.
1.3.2. Nội dung cơ bản của Công ước số 29 và Nghị định thư bổ sung 2014
Công ƣớc số 29 là một trong 8 Công ƣớc cơ bản của ILO. Công ƣớc
này đƣợc ILO thông qua ngày 28/6/1930, có hiệu lực từ 01/5/1932. Tính đến
tháng 5/2020, đã có 178/187 quốc gia thành viên ILO phê chuẩn Công ƣớc
này [68]. Việt Nam đã phê chuẩn Công ƣớc số 29 vào năm 2007.
Công ƣớc số 29 đƣa ra tiêu chuẩn khá toàn diện về LĐCB, trong đó
đáng chú ý là một số nội dung quan trọng, bao gồm: i) định nghĩa thế nào là
LĐCB hoặc bắt buộc; ii) những trƣờng hợp LĐCB hoặc bắt buộc nhƣng đƣợc

loại trừ, không phải là LĐCB hoặc bắt buộc phải xóa bỏ theo quy định của
Công ƣớc; và iii) trách nhiệm của Nhà nƣớc trong việc áp dụng các biện pháp
nhắm xóa bỏ LĐCB hoặc bắt buộc.
Theo quy định của Công ƣớc số 29, các quốc gia thành viên phải xóa
bỏ các hình thức LĐCB, trong đó bao gồm cả việc áp dụng chế tài đối với các
hành vi cƣỡng bức lao động. Tuy nhiên, không phải mọi trƣờng hợp thỏa mãn
các điều kiện nêu trên đều là LĐCB hoặc bắt buộc bị nghiêm cấm theo quy
định của Công ƣớc 29. Công ƣớc 29 đƣa ra các trƣờng hợp, tuy đáp ứng

18


những đặc điểm của LĐCB nhƣ phân tích ở trên nhƣng đƣợc loại trừ khỏi
phạm vi áp dụng của công ƣớc, bao gồm:
1. Nghĩa vụ quân sự bắt buộc.
2. Nghĩa vụ công dân thông thƣờng.
3. Lao động là tù nhân.
4. Lao động trong tình thế khẩn cấp.
5. Lao động nhỏ phục vụ cộng đồng.
Tuy nhiên, để đƣợc loại trừ khỏi LĐCB, các dạng lao động nêu trên
phải đáp ứng những điều kiện nhất định.
Nhƣ vậy, Công ƣớc số 29 đƣa ra một số ngoại lệ về “LĐCB và bắt
buộc” tại Điều 2.1.2, cụ thể thuật ngữ “LĐCB hoặc bắt buộc” không bao gồm:
a) Mọi công việc hoặc dịch vụ buộc phải làm theo các đạo luật về
nghĩa vụ quân sự bắt buộc và trong những công việc có tính chất
quân sự thuần tuý;
b) Mọi công việc hoặc dịch vụ thuộc những nghĩa vụ công dân
bình thƣờng của các công dân trong một nƣớc tự quản hoàn toàn;
c) Mọi công việc hoặc dịch vụ mà một ngƣời buộc phải làm do một
quyết định của toà án, với điều kiện là công việc hoặc dịch vụ đó

phải đƣợc tiến hành dƣới sự giám sát và kiểm tra của những cơ quan
công quyền, và ngƣời đó không bị chuyển nhƣợng hoặc bị đặt dƣới
quyền sử dụng của những tƣ nhân, công ty hoặc hiệp hội tƣ nhân;
d) Mọi công việc hoặc dịch vụ buộc phải làm trong những trƣờng
hợp khẩn cấp, nghĩa là trong những trƣờng hợp có chiến tranh, xảy
ra tai hoạ hoặc có nguy cơ xảy ra tai hoạ nhƣ cháy, lụt, đói, động
đất, dịch bệnh dữ dội của ngƣời và gia súc, sự xâm hại của thú vật,
côn trùng hoặc ký sinh trùng, và nói chung là mọi tình thế ngây
nguy hiểm cho đời sống hoặc cho sự bình yên của toàn thể hoặc
một phần dân cƣ;

19


×