Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TIỀN LƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.02 KB, 31 trang )

LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TIỀN LƯƠNG
I.TIỀN LƯƠNG
1. Khái niệm và bản chất của tiền lương
1.1 Khái niệm
a. Quan điểm cũ về tiền lương
Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, là giá cả của
sức lao động và nó che giấu sự bóc lột của nhà tư bản với người làm thuê. Ở
Việt Nam cách đây gần mười năm nhiều người coi tiền lương ở nước ta là một
bộ phận thu nhập quốc dân dùng để bù đắp hao phí lao động tất yếu, do nhà
nước phân phối cho công nhân viên chức bằng hình thức tiền tệ phù hợp với
quy luật phân phối theo lao động. Với quan điểm này, tiền lương mang nặng
tính bao cấp và bình quân nên nó không khuyến khích được việc nâng cao trình
độ chuyên môn, tính chủ động của người lao động, xem nhẹ lợi ích người lao
động do đó không gắn với thành quả mà họ tạo ra.
Ngày nay, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, sự thay đổi của cơ chế
quản lý kinh tế đã làm bộc lộ những hạn chế của quan điểm cũ về tiền lương.
Đòi hỏi cần phải nhận thức lại đúng đắn hơn. Vì vậy trong chính sách về tiền
lương của Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ sáu đã nhấn mạnh: “ Việc thực
hiện đúng nguyên tắc phân phối theo lao động đòi hỏi sửa đổi một cách cơ bản
chế độ tiền lương theo hướng đảm bảo yêu cầu tái sản xuất sức lao động, khắc
phục tính chất bình quân, xoá bỏ từng bước phần cung cấp còn lại trong chế
độ tiền lương, áp dụng chế độ trả lương gắn chặt với kết quả và hiệu quả kinh
tế”.
b. Quan điểm mới về tiền lương:
Theo quan điểm đổi mới của Đảng: “ Tiền lương là một bộ phận thu
nhập quốc dân, là giá trị mới sáng tạo ra mà người sử dụng lao động phải trả
cho người lao động phù hợp với giá trị sức lao động đã hao phí trong quá trình
sản xuất”.
Trong nền kinh tế thị trường thì tiền lương là một bộ phận quan trọng
của giá trị hàng hoá, phản ánh giá cả sức lao động thể hiện trong giá cả hàng
hoá thực hiện. Vì vậy, việc trả lương, trả công lao động được tính toán toàn bộ


một cách chi tiết trong sản xuất kinh doanh của các đơn vị, các cơ sở thuộc mọi
thành phần kinh tế. Để xác định tiền lương hợp lý cần tìm ra cơ sở để tính
đúng, tính đủ giá trị của sức lao động. Người lao động sau khi bỏ ra sức lao
động tạo ra sản phẩm thì được một số tiền công nhất định, có thể nói sức lao
động được đem trao đổi lấy tiền công. Vậy có thể coi sức lao động là một hàng
hoá, một loại hàng hoá đặc biệt.Tiền lương hay tiền công là giá cả của hàng
hoá đặc biệt đó.
Ở nước ta hiện nay tiền lương được coi là giá cả sức lao động được hình
thành qua sự thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động phù
hợp với các quan hệ của nền kinh tế thị trường đang trong quá trình hoàn
thiện và phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Do là giá cả của hàng hoá đặc biệt (sức lao động) nên để xác định tiền
lương, tiền công hợp lý cần phải có cơ sở tính đúng, tính đủ giá trị sức lao
động. Đó là giá trị các yếu tố đảm bảo quá trình tái sản xuất sức lao động đảm
bảo cho người lao động hoà nhập với thị trường xã hội, thống nhất với giá cả
hàng hoá khác. Tóm lại phải đảm bảo nhu cầu về ăn, ở, đi lại, học hành cho
người lao động.
Nghị quyết hội nghị lần thứ VIII Ban chấp hành TW Đảng cho rằng việc
tổ chức tiền lương hợp lý có một vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng
suất lao động, tăng hiệu quả kinh tế của nền sản xuất. Đảng ta chủ trương
phải gắn chặt tiền lương với năng suất, chất lượng, hiệu quả. Tiền lương thực
tế phải đảm bảo cho người ăn lương sống chủ yếu bằng lương, tái sản xuất sức
lao động và phù hợp với khả năng của nền kinh tế quốc dân.
Với quan điểm này thì tiền lương, tiền công được trả đúng với giá trị sức
lao động hơn, việc tiền tệ hoá tiền lương được triệt để hơn, xoá bỏ tính phân
phối, cấp phát và trả lương bằng hiện vật. Đồng thời khắc phục quan điểm coi
nhẹ lợi ích cá nhân như trước kia, tiền lương phải được sử dụng đúng vai trò
là đòn bẩy kinh tế của nó nhằm kích thích người lao động gắn bó hăng say với
công việc.
1.2 Bản chất

Do chuyển sang cơ chế quản lý kinh tế mới nên bản chất tiền lương ở
nước ta sẽ hoàn toàn thay đổi so với cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp.
Trước đây, quan niệm cũ cho rằng nền kinh tế XHCN không thể là nền kinh tế
thị trường mà là nền kinh tế hoạt động trên cơ sở kế hoạch hoá tập trung, và
do đó, về bản chất, tiền lương không phải là giá cả sức lao động, mà là một
phần thu nhập quốc dân, được nhà nước phân phối một cách có kế hoạch cho
người lao động theo số lượng và chất lượng lao động. Mỗi chính sách, chế độ
và mức lương cụ thể đều do nhà nước thống nhất ban hành để áp dụng cho
mỗi người lao động, bất kỳ họ công tác ở khu vực hành chính sự nghiệp hay tại
các đơn vị sản xuất kinh doanh.
Chế độ tiền lương trong cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp trước đây
gồm hai phần: phần bằng tiền được nhà nước phân phối cho cán bộ công nhân
viên theo các thang, bảng lương; phần bằng hiện vật chiếm tỷ trọng lớn so với
tiền lương cơ bản bằng tiền. Phần bằng tiền với mức lương thấp, bình quân,
không phân biệt rõ sự khác biệt chất lượng lao động. Phần bằng hiện vật thì
chắp vá, tuỳ tiện, không công bằng.
Trong cơ chế cũ, tiền lương của người lao động không phụ thuộc vào
năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất - kinh doanh mà quy định “cứng”.
Do đó, tiền lương của người làm việc hiệu quả cũng bằng tiền lương của người
làm việc kém hiệu quả. Nhìn chung, tiền lương của người lao động chỉ chiếm
một phần nhỏ trong giá thành sản phẩm. Tình trạng tiền lương không đủ bảo
đảm để tái sản xuất sức lao động đã làm cho đại bộ phận đời sống người lao
động không được bảo đảm.
Chuyển từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của
Nhà nước, chính sách tiền lương cũng có thay đổi.
Theo quan điểm mới, tiền lương là số lượng tiền tệ mà người sử dụng
lao động trả cho người lao động để hoàn thành công việc theo chức năng,
nhiệm vụ qui định. Bản chất tiền lương là giá cả sức lao động được hình thành
trên cơ sở giá trị sức lao động thông qua sự thoả thuận giữa người có sức lao

động và người sử dụng sức lao động, đồng thời chịu sự chi phối của các quy
luật kinh tế, trong đó có quy luật cung cầu. Mặt khác, tiền lương phải bao gồm
đủ các yếu tố cấu thành để bảo đảm là nguồn thu nhập, là nguồn sống chủ yếu
của bản thân và gia đình người lao động, và là điều kiện để người hưởng
lương hoà nhập vào thị trường xã hội.
Tiền lương và tiền công của người lao động ở khu vực sản xuất kinh
doanh do thị trường quyết định. Nguồn tiền lương và thu nhập của người lao
động là từ hiệu quả sản xuất kinh doanh( một phần trong giá trị mới sáng tạo
ra). Các đơn vị sản xuất phải bảo đảm cho người lao động có thu nhập tối thiểu
bằng mức lương tối thiểu do nhà nước ban hành.
Những người lao động ở khu vực hành chính sự nghiệp, lực lượng vũ
trang và cơ quan, đoàn thể, hưởng lương theo chế độ tiền lương do Nhà nước
quy định. Nguồn tiền lương lấy từ ngân sách nhà nước.
Khái niệm tiền lương mới đã thừa nhận sức lao động là hàng hoá đặc
biệt và đòi hỏi người lao động phải được trả lương theo sự đóng góp và hiệu
quả cụ thể.
Trên đây là bản chất kinh tế của tiền lương. Ngoài ra, tiền lương còn
mang bản chất xã hội vì nó gắn liền với người lao động và cuộc sống của họ.
Sức lao động của con người không giống như các loại hàng hoá khác, mà là
tổng thể các mối quan hệ xã hội.
2.Tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế
2.1 Tiền lương danh nghĩa
Tiền lương danh nghĩa được hiểu là số tiền mà người sử dụng lao động
trả cho người lao động. Số tiền này nhiều hay ít phụ thuộc trực tiếp vào năng
suất lao động và hiệu quả làm việc của người lao động, phụ thuộc vào trình độ,
kinh nghiệm, ngay trong quá trình lao động. Trên thực tế, mọi mức lương trả
cho người lao động đều là tiền lương danh nghĩa.
2.2 Tiền lương thực tế
Tiền lương thực tế được hiểu là số lượng các loại hàng hoá tiêu dùng và
các loại dịch vụ cần thiết mà người lao động hưởng lương có thể mua được

bằng tiền lương danh nghĩa của họ.
2.3 Mối quan hệ giữa tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực
tế
Như trình bày ở trên, tiền lương thực tế không chỉ phụ thuộc vào gía cả
của các loại hàng hoá tiêu dùng và các loại dịch vụ cần thiết mà họ muốn mua.
Mối quan hệ giữa tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế được thể hiện
qua công thức sau:
I
gc
I
GC
I
TLDN
=

I
TLTT
: chỉ số tiền lương thực tế
I
TLDN
: chỉ số tiền lương danh nghĩa
I
GC
: chỉ số giá
Như vậy, tiền lương danh nghĩa mà người lao động nhận được chưa thể
cho ta thấy một nhận thức đầy đủ về mức trả công thực tế cho người lao động.
Lợi ích mà người cung ứng sức lao động nhận được ngoài việc phụ thuộc vào
mức lương danh nghĩa còn phụ thuộc vào giá cả hàng hoá, dịch vụ mà họ mua
sẵn.
Quan hệ giữa tiền lương thực tế và tiền lương danh nghĩa là rất phức tạp.

Bởi vậy, sự thay đổi của tiền lương danh nghĩa, của giá cả phụ thuộc vào nhiều
yếu tố khác nhau.
3. Tiền lương cơ bản và mức lương tối thiểu
3.1 Tiền lương cơ bản
3.2 Tiền lương tối thiểu
Ở nước ta, trong chế độ tiền lương ban hành ngày 23 tháng 5 năm 1993,
tiền lương tối thiểu được hiểu như sau: Tiền lương tối thiểu là số tiền nhất
định trả cho người lao động làm cong việc giản đơn nhất, ở mức độ nhẹ nhàng
nhất và diến ra trong môi trường lao động bình thường. Số tiền đó đảm bảo
cho người lao động mua được những tư liệu sinh hoạt thiết yếu để tái sản xuất
sức lao động của bản thân và dành một phần để nuôi con và bảo hiểm lúc hết
tuổi lao động.
4. Chức năng của tiền lương
Như chúng ta đều biết, con người là yếu tố quan trọng ảnh hưởng quyết
định đến năng suất lao động. Động cơ lao động của con người bắt nguồn từ hệ
thống nhu cầu về vật chất và tinh thần. Họ lao động với mục đích làm thoả
mãn nhu cầu bản thân, tập thể và xã hội nhưng trước hết là nhu cầu của chính
bản thân người lao động. Càng nghiên cứu càng thấy nhu cầu con người ngày
càng phong phú, đa dạng và không bao giờ dừng lại. Tuỳ theo giới tính, lứa
tuổi, đặc điểm tâm lý, không gian và thời gian mà những nhu cầu đó cũng khác
nhau.
Nhu cầu ăn , mặc, ở, sinh hoạt là không thể thiếu được. Điều này chỉ có
thể giải quyết được thông qua tiền tệ – ở đây chính là tiền lương. Như vậy, tiền
lương thực sự là công cụ đắc lực , là động cơ chủ yếu thúc đẩy con người lao
động, khuyến khích sản xuất phát triển.
*> Xét một cách tổng quát, tiền lương có những chức năng sau:
- Tiền lương đóng vai trò quan trọng trong đời sống người lao động,nó
quyết định sự ổn định và phát triển kinh tế của gia đình họ. Tiền lương là
nguồn nhằm đảm bảo chi phí để tái sản xuất sức lao động. Vì vậy nó có tác
động lớn đến thái độ của người lao động đối với sản xuất.

- Vai trò kích thích của tiền lương: Vì động cơ của tiền lương, người lao
động phải có trách nhiệm cao với công việc, tiền lương phải tạo ra sự say mê
nghề nghiệp. Có tiền lương, người lao động tự thấy phải không ngừng bồi
dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, đúc rút những kinh nghiệm để làm việc
hiệu quả hơn.
- Vai trò điều phối lao động: Với tiền lương thoả đáng, người lao động tự
nguyện nhận mọi công việc được giao, có gắng hoàn thành những công việc
trong điều kiện sức lực và trí tuệ cho phép.
- Vai trò quản lý lao động của tiền lương: Doanh nghiệp sử dụng công cụ
tiền lương còn với mục đích khác là thông qua việc trả lương để theo dõi giám
sát người lao động, bắt họ làm việc theo ý đồ của mình, đảm bảo tiền lương chi
ra phải mang lại hiệu quả, kết quả rõ rệt. Hiệu quả của tiền lương không chỉ
được tính theo tháng mà còn được tính theo ngày giờ ở toàn doanh nghiệp,
từng bộ phận, từng người.
*> Xét trên góc độ quản lý kinh doanh, quản lý xã hội:
Tiền lương là đòn bẩy kinh tế cực kỳ quan trọng. Thông qua các chính
sách về tiền lương, Nhà nước có thể điều chỉnh nguồn lao động giữa các vùng,
khu vực theo yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
*> Xét trên phạm vi doanh nghiệp:
Tiền lương đóng vai trò quan trọng trong việc kích thích người lao động
phát huy tài năng sáng tạo của họ, làm việc tận tuỵ, có tráchnhiệm cao với
công việc. Tiền lương cao hay thấp sẽ là yếu tố gắn bó người lao động với
doanh nghiệp. Đặc biệt trong cơ chế thị trường hiện nay, khi mà hầu hết lao
động được tuyển dụng trên cơ sở hợp đồng lao động, người lao động có quyền
làm việc cho nơi nào mà họ thấy có lợi nhất. Tiền lương là nguồn sống của
người lao động, họ đi làm thuê để được hưởng lương và muốn được hưởng
lương cao, vì vậy tiền lương được sử dụng như đòng bẩy kinh tế, một công cụ
quản lý bằng phương pháp kinh tế trong doanh nghiệp. Thông qua tiền lương
có thể hướng người lao động làm việc theo định hướng của doanh nghiệp, tổ
chức sản xuất hợp lý, tăng cường kỷ luật lao động cũng như khuyến khích tăng

năng suất lao động.
II. NHỮNG YÊU CẦU, NGUYÊN TẮC VÀ NỘI DUNG CỦA TỔ CHỨC TIỀN LƯƠNG
1. Các quan điểm về tổ chức tiền lương
Theo qui định hiện nay của nước ta, Nhà nước không trực tiếp quản lý
tổng quỹ tiền lương của các doanh nghiệp. Doanh nghiệp có quyền tự xây dựng
quỹ tiền lương nhưng phải do cấp trên quy định đơn giá tiền lương và duyệt
quy chế tiền lương của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có quyền tự lựa chọn các
hình thức trả lương trong doanh nghiệp trên cơ sở quán triệt nguyên tắc phân
phối theo lao động, kích thích không ngừng tăng năng suất lao động. Mức thu
nhập của mỗi người trong doanh nghiệp phụ thuộc vào kết quả kinh doanh
của doanh nghiệp và phụ thuộc vào năng suất, chất lượng, hiệu quả công tác
của từng người. Nhà nước không can thiệp vào quỹ tiền lươgn của doanh
nghiệp, không quản lý kế hoạch hoá tiền lương như trước mà chỉ giám sát sử
dụng quỹ tiền lương. Nhà nước không cho phép các doanh nghiệp trả lương
cho người lao độngthấp hơn mức tối thiểu nhưng vẫn có chinhs sách điều tiết
đối với những nơi có thu nhập cao như chính sách thuế thu nhập cao. Các
doanh nghiệp cần quan tâm tới những qui định này nhằm mục đích vừa tăng
tổng quỹ lương của mình vừa phân phối tiền lương hợp lýcho mỗi công nhân,
đảm bảo mối quan hệ hợp lý giữa nhịp độ tăng tiền lươngvới nhịp độ tăng
năng suất lao động. Quĩ lương doanh nghiệp được hình thành khác nhau qua
từng thời kỳvà đến nay quỹ lương trong doanh nghiệp đã được xác định bằng
cách căn cứ vào đơn giá tiền lương.
Doanh nghiệp tự xây dựng đơn giá tiền lương trình cấp trên duyệt.
Nếu là sản phẩm do Nhà nước định giá thì đơn giá tiền lương được tính
bằng lượng tiền tuyệt đối trên một đơn vị sản phẩm hoặc tỷ lệ tiền lương trên
doanh thu.
Nếu là sản phẩm doanh nghiệp tự định giá thì đơn giá tiền lương được
tính bằng tỷ lệ tiền lương trên giá bán một đơn vị sản phẩm (nếu là sản phẩm
ổn định), là tỷ lệ tiền lương trên tỏng doanh thu ( nếu là sản phẩm không ổn
định).

Quỹ tiền lương của doanh nghiệp phải được đăng ký với ngân hàng.
2. Yêu cầu của tổ chức tiền lương
Trong nền kinh tế thị trường khi sức lao động được thừa nhận là hàng
hoá thì tiền lương chính là giá cả sức lao động. Tiền lương phải đảm bảo đủ
chi phí để nuôi sống người lao động và thoả mãn một phần nhu cầu trong cuộc
sống của họ. Việc tổ chức tiền lương phải nhằm xác định được những chế độ
và phụ cấp lương cũng như tìm được những hình thức trả lương thích hợp
nhằm nâng cao năng suất lao động, phát triển sản xuất và cải thiện đời sống
vật chất, tinh thần của người lao động.
Khi tổ chức tiền lương cho người lao động cần đạt những yêu cầu cơ bản
sau:
- Bảo đảm tái sản xuất sức lao động và không ngừng nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần cho người lao động. Sức lao động thể hiện ở ttạng thái thể
lực, tinh thần , tâm lý, sinh lý, thể hiện ở trình độ nhận thức, kỹ năng lao động,
phương pháp lao động. Sức lao động là một trong ba yếu tố của quá trình sản
xuất. Nó là yếu tố quan trọng nhất vì sức lao động có khả năng phát động và
đưa các tư liệu lao động, đối tưọng lao động vào trong quá trình sản xuất.
Mọi hoạt động chỉ có thể duy trì và phát triển với điều kiện không ngừng
tái sản xuất sức lao động( tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng). Theo
quan niệm này, hiện nay tiền lương là giá cả sức lao động do đó nó phải đảm
bảo tái sản xuất sức lao động.
- Làm cho năng suất lao động không ngừng được nâng cao.
- Bảo đảm tính đơn giản, rõ ràng và dễ hiểu…Việc thanh toán tiền lương
phải trên cơ sở khoa học công khai và rõ ràng để cho người lao động có thể tự
mình thanh toán, dự đoán được số lương mà họ có thể nhận được hàng ngày,
hàng tháng.Từ đó cố gắng nâng cao tay nghề, năng suất, cường độ để tăng
tiền lương của bản thân, đồng thời xoá bỏ những yếu tố gây tính" mập
mờ" trong việc trả lương.
3. Các nguyên tắc tổ chức tiền lương
Trong hệ thống tổ chức quản lý lao động, tổ chức tiền lương giữ một vị trí

đặc biệt quan trọng. Tổ chức tiền lương tốt có tác dụng trả lương công bằng,
hợp lý cho người lao động, tạo ra tâm lý làm việc thoải mái, phấn khởi trong
sản xuất và giúp doanh nghiệp thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ trong quá trình
sử dụng lao động. Để đảm bảo việc tổ chức tiền lương được thực hiện tốt và
mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất cần thực hiện những nguyên tắc cơ bản
sau:
3.1 Trả lương ngang nhau cho những lao động như nhau
Nguyên tắc này đưa ra dựa trên quy luật phân phối theo lao động, đảm
bảo sự công bằng trong việc trả lương cho ngưòi lao động. Hai người có thời
gian , tay nghề và năng suất lao động như nhau thì phải được trả lương ngang
nhau. Ngược lại, những lao động khác nhau thì trả lương khác nhau, không có
bất kỳ sự phân biệt, đối xử nào trong việc trả lương. Thực hiện nguyên tắc này
nhằm xoá đi sự lạm dụng những tiêu thức bất hợp lý như: giới tính, dân tộc,
màu da, tuổi tác để hạ thấp tiền lương của người lao động.
Thực hiện tốt nguyên tắc này có tác dụng kích thích người lao động
hăng hái tham gia sản xuất góp phần nâng cao năng suất lao động và hiệu quả
sản xuất.
3.2 Đảm bảo năng suất lao động tăng nhanh hơn tiền lương bình
quân
Đây là nguyên tắc quan trọng trong tổ chức, vì có như vậy mới tạo cơ sở
cho giảm giá thành, hạ giá bán và tăng tích luỹ. Có nhiều yếu tố tác động đến
mối quan hệ này, cho phép thực hiện được nguyên tắc này:
- Tiền lương bình quân tăng lên phụ thuộc vào những yếu tố chủ quan do
nâng cao năng suất lao động (nâng cao trình độ lành nghề, giảm bớt thời gian
lao động). Năng suất lao dộng tăng không phải chỉ do những yếu tố trên mà
còn phụ thuộc trực tiếp vào những yếu tố khách quan khác ( áp dụng kỹ thuật
mới, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên..). Như vậy, tốc độ tăng năng suất
lao động rõ ràng có khả năng khách quan lớn hơn tốc độ của tiền lương bình
quân.
- Không những thế khi xem xét các mối quan hệ giữa tốc độ tăng năng

suất lao động với tiền lương thực tế, giữa tích luỹ và tiêu dùng trong thu nhập
quốc dân ta thấy chúng cũng có mối quan hệ trực tiếp với tốc độ phát triển của
khu vực I (sản xuất ra tư liệu sản xuất) và khu vực II (sản xuất vật phẩm tiêu
dùng).
Do nhu cầu tái sản xuất đòi hỏi khu vực I phải tăng nhanh hơn khu vực
II về tốc độ tăng của tổng sản phẩm xã hội tính bình quân theo đầu người lao
động (cơ sở của tiền lương thực tế). Ngoài ra sản phẩm của khu vực II không
phải đem toàn bộ để nâng cao tiền lương thực tế, mà còn phải trích lại một
phần để tích luỹ. Do đó muốn đảm bảo phần còn lại cho tiêu dùng của công
nhân viên chức không ngừng tăng lên cũng yêu cầu năng suất lao động xã hội
phải tăng nhanh hơn.
Tóm lại trong phạm vi nền kinh tế quốc dân cũng như nội bộ công ty, xí
nghiệp muốn hạ giá thành sản phẩm, tăng tích luỹ thì không còn con đường
nào khác là làm cho năng suất lao động tăng nhanh hơn tốc độ tăng tiền
lương bình quân. Vi phạm nguyên tắc trên sẽ tạo ra những khó khăn trong việc
phát triển sản xuất và nâng cao đời sống người lao động.
Tuy nhiên trong một giai đoạn đặc biệt ngắn, nguyên tắc này cần phải
được tôn trọng ở cả tầm vi mô và vĩ mô. Chỉ khi tốc độ tăng năng suất lao dộng
tăng nhanh hơn tốc độ tăng tiền lương bình quân thì của cải xã hội mới được
tích luỹ tạo điều kiện cho nền sản xuất mở rộng và giúp xã hội không ngừng
phát triển.
3.3 Đảm bảo mối quan hệ hợp lý về tiền lương giữa những người
lao động làm các nghề khác nhau trong nền kinh tế quốc dân.
Mỗi nền kinh tế có một điều kiện sản xuất khác nhau, phân phối theo lao
động khác nhau.Do vậy nó ảnh hưởng trực tiếp đến độ cống hiến và hao phí
sức lao động của từng người. Bởi vậy cần phải xây dựng chế độ tiền lương hợp
lý giữa các ngành trong nền kinh tế quốc dân. Nó tạo điều kiện thu hút và điều
phối lao động vào những ngành kinh tế có vị trí trọng yếu và những vùng có
tiềm năng sản xuất lớn đồng thời nó phải kích thích con người trong quá trình
sản xuất đáp ứng nhu cầu của quy luật kinh tế, quy luật phân phối theo lao

động, quy luật phát triển có kế hoạch và cân đối trong nền kinh tế quốc dân.
Báo cáo chính trị của ban chấp hành trung lần thứ 6 chỉ rõ:" Lao động có kỹ
thuật, lao động ở những ngành nghề nặng nhọc, độc hại, ở những vùng có điều
kiện khó khăn cần được đãi ngộ thích đáng". Tiền lương bình quân giưã các
ngành trong nền kinh tế quốc dân khác nhau thông thường do một số nhân tố
sau quyết định:
- Trình độ lành nghề bình quân của người lao động trong mỗi ngành.
- Điều kiện lao động khác nhau.
- Ý nghĩa kinh tế mỗi ngành trong nền kinh tế quốc dân.
Tuy nhiên do điều kiện sinh hoạt, mức sống ở các khu vực khác nhau của
đất nước ta là khác nhau. Điều kiện sinh hoạt ở miền núi khó khăn hơn đồng
bằng, mức sống thành phố cao hơn nông thôn, vì vậy khi tính lương thì ảnh
hưởng của các yếu tố này cũng phải được xét đến.
3.4 Tiền lương phải đảm bảo tái sản xuất sức lao động
Xã hội muốn tồn tại thì con người phải thường xuyên tiêu dùng của cải
vật chất. Để có được của cải vật chất thì nền sản xuất hàng hoá phải tiến hành
liên tục, do đó sức lao động yếu tố cơ bản cấu thành quản trị sản xuất cung cầu
luôn được sử dụng và tái tạo.
Thực hiện nguyên tắc này, tiền lương phải là giá cả sức lao động phù
hợp với quan hệ cung cầu lao động và pháp luật của nhà nước. Thực hiện việc
trả lương theo việc gắn với giá trị mới sáng tạo ra. Đòng thời phản ánh đúng
kết quả lao động và hiệu quả kinh tế. Mức lương tối thiểu phải là nền tang
chính sách tiền lương và có cơ cấu hợp lý về sinh học, xã hội học, bảo hiểm, tuổi
già và nuôi con.
Tiền lương của người lao động là để tái sản xuất sức lao động tức là đảm
bảo cho đời sống của bản thân họ và gia đình của người lao động. Điều quan
trọng là tư liệu sinh hoạt mà người lao động nhận khi họ chuyển hoá số tiền

×