Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Lý luận chung về Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.65 KB, 23 trang )

Lý luận chung về Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong doanh
nghiệp
I- Khái niệm, nội dung:
1- Khái niệm nguồn nhân lực.
- Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là những hoạt động học tập có tổ
chức, được thực hiện trong những khoảng thời gian xác định, và nhằm đem lại
sự thay đổi trong hanh vi nghề nghiệp của người lao động. Có ba loại hoạt
động khác nhau theo định nghĩa này: Đào tạo, Giáo dục, và phát triển liên quan
đến công việc, cá nhân và tổ chức.
Đào tạo: Là quá trình học tập làm cho người lao động có thể thực hiện
các chức năng, nhiệm vụ có hiệu quả hơn trong công tác của họ, đào tạo là một
quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức nhằm hình thành và phát triển hệ
thống trí thức, kỹ năng, kỹ sảo, thái độ, hành vi... của mỗi cá nhân tạo điều kiện
để cho họ có thể thực hiện một cách có năng suất và hiệu quả trong lĩnh vực
công tác của họ.
Giáo dục: Là một quá trình học tập để chuẩn bị con người cho tương lai
có thể người đó chuyển tới một công việc mới trong thời gian thích hợp. Giáo
dục là quá trình hoạt động nhằm phát triển và rèn luyện năng lực (Trí thức, kỹ
năng) và phẩm chất (Niềm tin, đạo đức, tư cách...) cho người lao động để họ có
thể có được năng lực hoàn thiện hơn.
Phát triển: Là quá trình học tập nhằm mở ra cho cá nhân những công
việc mới dựa trên những định hướng tương lai của tổ chức phát triển là quá
trình cập nhật kiến thức còn thiếu hoặc đã lạc hậu, đào tạo thêm hoặc củng cố
các kỹ năng nghề nghiệp theo các chuyên đề. Các hoạt động này nhằm tạo điều
kiện cho người lao động củng cố và mở mang một cách có hệ thống những trí
thức, kỹ năng, chuyên môn nghiệp vụ sẵn có để họ thực hiện các công việc có
hiệu quả hơn trong một doanh nghiệphoạt động phát triển bao gồm bồi dưỡng
nâng bậc đối với công nhân kỹ thuật, bồi dưỡng cho cán bộ quản lý.
- Ba bộ phận hợp thành của đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là cần
thiết cho sự thành công của tổ chức và sự phát triển tiềm năng của con người.
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của một tổ chức có liên quan chặt chẽ


với các hoạt động đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong toàn xã hội như:
Học việc, học nghề, dạy học.
Các doanh nghiệp tiến hành đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có 3 lý
do sau:
- Để chuẩn bị bù đắp vào những chỗ bị thiếu hụt, bọ bỏ trống, sự bù đắp
và bổ sung này diễn ra thường xuyên, nhằm làm cho doanh nghiệp hoạt động
trôi chảy.
- Để chuẩn bị cho những người lao động thực hiện được những trách
nhiệm và nhiệm vụ mới do sự thay đổi trong mục tiêu, cơ cấu, những thay đổi
về pháp luật, chính sách và kỹ thuật công nghệ mới tạo ra.
- Để hoàn thiện khả năng của người lao động (Thực hiện những nhiệm
vụ hiện tại cũng như tương lai một cách có hiệu quả hơn).
2- Công tác quản trị nhân lực trong doanh nghiệp.
2.1. Mục tiêu của công tác quản trị nhân lực trong doanh nghiệp.
Mục tiêu của công tác quản trị nhân lực nhằm đảm bảo cho doanh
nghiệp một lực lượng lao động hoạt động có hiệu quả. Để đạt được mục tiêu
này các nhà quản trị phải biết cách thâu dụng, phát triển, đánh giá duy trì
nhân viên của mình cùng là mục tiêu xã hội, mục tiêu của doanh nghiệp và mục
tiêu của người lao động.
Mục tiều đối với xã hội: Bất kỳ một tổ chức nào khi ra đời và tồn tại
muốn được sự thừa nhận của cộng đồng phải thoả mãn một điều kiện: Đem lại
lợi ích cho cộng đồng, cho xã hội. Nói như vậy có nghĩa là trong quá trình hoạt
động tổ chức đó phải luôn tìm cách trung hoà lợi ích của mình với lợi ích của
cộng đồng. Một doanh nghiệp là một tổ chức, một tổ chức hoạt động trong lĩnh
vực cần có mối quan hệ chặt chẽ với cộng đồng.
Trước hết, một doanh nghiệp kinh doanh phải luôn tuân theo mọi qui
định của pháp luật, phải cung cấp các dịch vụ, sản phẩm theo yêu cầu của cộng
đồng, phải đảm bảo giải quyết công ăn việc làm cho một số lượng lao động để
giúp xã hội giảm bới nạn thất nghiệp, nâng cao phúc lợi xã hội và đặc biệt
doanh nghiệp phải đảm bảo những yêu cầu của xã hội về bảo vệ và gìn giữ

môi trường xung quanh.
Mục tiêu đối với doanh nghiệp: Quản trị nhân lực một cách hợp lý có
hiệu quả là cách tốt nhất giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu quan trọng
nhất của mình tồn tại, phát triển và thu được lợi nhuận cao. Trong công tác
quản trị nhân lực tự nó không phải là cứu cánh mà nó sẽ là phương tiện để
giúp doanh nghiệp đạt được những mục tiêu của bản thân.
Mục tiêu cá nhân của người lao động: Người lao động khi tham gia lao
động trước hết là để thoả mãn nhu cầu được lao động, được cống hiến cho xã
hội sau đó mới là lợi ích cá nhân của họ như thu nhập để nâng cao mức sống...
song thật sai lầm nếu chỉ coi trọng lợi ích của tổ chức và cộng đồng mà quên đi
lợi ích của cá nhân người lao động, bởi vì lợi ích cá nhân, mục tiêu của cá nhân
chính là yêu cầu chính đáng của người lao động đồng thời cũng là động lực
thúc đẩy họ hoạt động hăng say và sáng tạo hơn.
Doanh nghiệp là một tổ chức của người lao động. Chính vì vậy, doanh
nghiệp phải luôn coi trọng mục tiêu cá nhân của cán bộ nhân viên doanh
nghiệp phải chú trọng đến công tác đào tạo bồi dưỡng để không ngừng nâng
cao tố chất của cán bộ, công nhân viên, công tác lao động tiền lương, tiền
thưởng.... để nhân viên tự thấy công sức của mình bỏ ra được đền bù một cách
xứng đáng. Hay nói cách khác, quản trị nhân lực phải nhằm đạt được mục tiêu
cá nhân.
2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản trị nhân lực trong doanh
nghiệp.
Quản trị là yếu tố quan trọng nhất quyết định sự thành công hay thất
bại hoạt động kinh doanh doanh nghiệp. Hầu hết các cơ sở hoạt động trong
lĩnh vực doanh nghiệp kinh doanh đều ý thức được vấn đề này. Song không
phải ở đâu công tác này cũng được thực hiện tốt như nhau bởi vì các cơ sở đều
có các điều kiện thực hiện công tác quản trị nhân lực khác nhau. Việc có hoàn
thiện hay không công tác này không chỉ phụ thuộc vào sự nhận thức, sự nỗ lực
của các nhà quản trị mà chịu tác động của nhiều yếu tố khách quan và chủ
quan.

Đặc biệt của hoạt động kinh doanh trong doanh nghiệp: Hoạt động kinh
doanh trong doanh nghiệp là sản xuất và bán ra các sản phẩm dịch vụ hàng
hoá nhằm đáp ứng nhu cầu thiết thực của khách hàng.
Một doanh nghiệp thường có các đặc điểm sau: Đầu tư cơ sở kinh doanh
lớn để xây dựng một doanh nghiệp kinh doanh đòi hỏi phải có vốn đầu tư lớn
về trang thiết bị, tiện nghi hiện đại. Mặt khác vốn đầu tư có thể thu hồi chậm
qua nhiều năm vì vậy trước khi xây dựng nhà kinh doanh phải nghiên cứu thật
kỹ lượng nhu cầu của thị trường.
Do những đặc thù riêng, máy móc không hoàn thiện thay thế được con
người điều này đòi hỏi phải có tổ chức lao động quá trình phục vụ một cách tối
ưu nâng cao năng xuất lao động, chất lượng lao động.
Tính thời vụ: Có những doanh nghiệp hoạt động có tính chất thời vụ do
tác động của các yếu tố như lĩnh vực kinh doanh, môi trường kinh doanh...
Tính thời vụ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh. Khi đến thời vụ,
phải huy động toàn bộ nhân lực để làm việc nhưng khi hết vụ, lực lượng lao
động lại nhàn rỗi trong khi đó nhà cửa trang thiết bị lại thường xuyên tu sửa,
bảo dưỡng, khấu hao và vẫn trả lương cho người lao động.
Quy mô của công nghiệp quyết đinh số lượng lao động và phương thức
tổ chức quản trị đội ngũ lao động theo kiểu chuyên môn hoá hay hình thức
kiểm nghiệm. Nếu quy mô của doanh nghiệp lớn thì số lượng lao động sẽ nhiều
hơn và việc tổ chức đội ngũ lao động thường xuyên theo hình thức chuyên môn
hoá.
- Máy móc thiết bị của doanh nghiệp: Máy móc thiết bị trong doanh
nghiệp cũng tác động đến số lượng lao động phục vụ. Nếu máy móc thiết bị
hiện đại sẽ tiết kiệm được số lao động song chỉ cần một số ít lao động có
chuyên môn cao sẽ có thể đảm nhiệm tốt các công việc . Ngược lại nếu máy
móc thiết bị của doanh nghiệp lạc hậu, với cấu trúc không hợp lý thì cần nhiều
lao động hơn. Nhưng khi máy móc thiết bị hiện đại thì đòi hỏi phải có một đội
ngũ cán bộ công nhân viên có trình độ kỹ thuật chuyên môn nhất định để dễ sử
dụng thành thạo máy móc đó. Do đó, vô hình chung đã tác động trực tiếp đến

công tác tổ chức quản trị, sử dụng nhân sự, bố trí tuyển chọn và đào tạo nhân
viên.
Khách hàng: Khách hàng là mục tiêu của một doanh nghiệp. Bởi vậy
người Mỹ gọi khách hàng là " Ông chủ", người Nhật gọi khách hàng " Thượng
đế" . Chính vì vậy, cấp quản trị phải đảm bảo rằng nhân viên của mình sản xuất
ra mặt hàng phù hợp với cầu và thị hiếu khách hàng. Muốn như vậy, cấp quản
trị phải làm cho nhân viên hiểu rằng khách hàng có ý nghĩa sống còn đối với
doanh nghiệp của họ, đối với những lợi ích cá nhân họ được hưởng. Mặt khác,
cấp quản trị còn phải tìm ra biện pháp quản trị, sử dụng lao động hiệu quả
nhất thì mới có thể đạt được mục tiêu trên.
- Đối thủ cạnh tranh: Trong nền kinh tế thị trường, nhà quản trị không
phải chỉ cạnh tranh thị trường, sản phẩm mà bỏ quên nguồn tài nguyên quý
giá là nhân lực. Nhân lực là cốt lõi của quản trị. Để tồn tại và phát triển phải
quản lí và sử dụng nhân lực có hiệu quả, phải giữ gìn, duy trì và phát triển
nguồn nhân lực. Để thực hiện được điều trên doanh nghiệp phải có chính sách
nhân lực hợp lý, phải tạo bầu không khí gắn bó, có văn hoá, có chế độ lương
bổng để giữ gìn nhân viên làm việc với mình, phải cải tiến môi trường làm việc
và chế độ phúc lợi xã hội. Nếu làm ngược lại, doanh nghiệp sẽ bị mất nhân tài
về tay những đối thủ cạnh tranh khôn khéo.
2.3. ý nghĩa của đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là tất yếu khách quan đối với các
doanh nghiệp, với từng người lao động cũng như đối với xã hội. Đào tạo và
phát triền nguồn nhân lực có ý nghĩa hết sức to lớn.
- Đối với doanh nghiệp.
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực sẽ đảm bảo cho nguồn nhân lực
của doanh nghiệp có thể thích ứng và theo sát kịp thời sự tiến hoá và phát
triển của khoa học - kỹ thuật và công nghệ, đảm bảo cho doanh nghiệp có lực
lượng lao động giỏi, hoàn thành thắng lợi các mục tiêu của doanh nghiệp. Đặc
biệt trong giai đoạn hiện nay khi thế giới đang chuyển sang một phương thức
sản xuất mới, hùng hậu hơn trước đây " phương thức sản xuất của kỷ nguyên

mới: Điện tử, tin học - sản xuất theo chương trình hóa - Rô bớt hoá - vật liệu
mới ".
Nền kinh tế mở cửa đã làm cho các doanh nghiệp muốn tồn tại thì phải
thay đổi cách thức tư duy và hành động trong một điều kiện cạnh tranh gay
gắt hơn bao giờ hết.
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực sẽ nâng cao kiến thức nghề nghiệp
và kỹ năng của nguồn nhân lực doanh nghiệp. Từ đó họ sẽ phấn khởi vì được
phát triển, có điều kiện nhận thức tốt hơn nhiệm vụ của mình cũng như của
doanh nghiệp " giảm được chi phí sản xuất, nâng cao năng suất lao động, nâng
cao hiệu quả của sản xuất kinh doanh...". Bên cạnh đó, đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực cũng cải thiện được mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới,
xoá bỏ được sự thiếu hiểu biết nhau, sự tranh chấp, ngăn chặn sự căng thẳng,
mâu thuẫn, tạo ra bầu không khí doanh nghiệp tốt, đoàn kết, thân ái cùng
phấn đấu và phát triển...
- Đối với người lao động:
Trong điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão, với các công
nghệ tiên tiến hiện đại, người lao động phải luôn luôn nâng cao trình độ văn
hoá và nghề nghiệp chuyên môn để không bị tụt hậu.
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực sẽ giúp cho người lao động nâng
cao kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp của mình. Nhờ đó mà người lao động tự
tin hơn, làm việc có hiệu quả hơn. Đông thời người lao động cũng tăng sự thoả
mãn đối với công việc, phát triển trí tuệ, thích ứng với kỹ thuật công nghệ mới,
bớt lo lắng khi nhận công việc mới.
- Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có ý nghĩa rất lớn không chỉ đối
với các doanh nghiệp, đối với người lao động mà còn có ý nghĩa xã hội hết sức
to lớn. Nhờ có đào tạo và phát triển nguồn nhân lực mà người lao động có
thêm các kiến thức mới, tăng thêm sự hiểu biết về pháp luật, tăng cường sự
hiểu biết lẫn nhau; đẩy mạnh sự phát triển và hợp tác trong xã hội cũng như
trong đoàn thể mà họ tham gia, góp phần cải thiện được thông tin giữa các
nhóm và cá nhân trong xã hội cũng như trong các doanh nghiệp, làm cho xã

hội ngày càng tốt đẹp hơn, các doanh nghiệp vị trí hấp dẫn hơn trong lao động
và cuộc sống của từng người ngày càng có ý nghĩa hơn...
Nhận thấy đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có một ý nghĩa vô cùng
to lớn như vậy, cho nên nhiều doanh nghiệp đã rất quan tâm đến công tác này.
Chẳng hạn như Công ty IBM, hàng năm ban lãnh đạo Công ty từ Tổng giám đốc
trở xuống cấp quản trị thấp nhất đều phải trải qua một khoá huấn luyện trong
vòng 15 ngày.
Ngày nay, các nhà quản lý giỏi không chỉ dừng lại ở các chương trình
đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có tính đối phó, mà họ còn có nhăn quan
nhạy bén, nhìn xa trông rộng trong nhiều năm tới, để chuẩn bị cho những thay
đổi trong tương lai. Thực tế đã khẳng định những doanh nghiệp nào thích ứng
một cách năng động với những thay đổi thì doanh nghiệp đó sẽ thành công
nhất.
2.4. Tác dụng và đào tạo và phát triển nguồn nhân lực:
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có rất nhiều tác dụng. Đối với
doanh nghiệp, việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có tác dụng:
- Giảm bớt sự giám sát, vì đối với người lao động được đào tạo, họ có thể
tự giám sát.
- Giảm bớt được những tai nạn lao động, bởi vì nhiều tai nạn xảy ra là
do những hạn chế của con người hơn là do những hạn chế của thiết bị hay
những hạn chế về điều kiện làm việc.
- Sự ổn định và năng động của tổ chức tăng lên, chúng đảm bảo giữ
vững hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp ngay cả khi thiếu những người chủ
chốt có nguồn đào tạo dự trữ để thay thế.
II- Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong doanh nghiệp.
1- Xác định cầu.
Đây là bước khởi đầu và rất quan trọng. Nó ảnh hưởng đến cả quá trình
đào tạo và ảnh hưởng của nó đến doanh nghiệp cũng không phải là nhỏ. Để
xác định cầu chính xác, chúng ta cần dựa vào định hướng và kế hoạch phát
triển của doanh nghiệp và trình độ của người lao động.

Ngoài ra, khi xác định cầu đào tạo, ta cần tìm hiểu nghiên cứu nhu cầu
của cá nhân để tìm ra mục tiêu của họ khi tham gia vào quá trình đào tạo gì?
Mục tiêu đào tạo của tổ chức là gì?.
Con người với tư cách là một sinh vật bậc cao có ý thức. Nhu cầu của họ
ngày càng cao theo thời gian và điều kiện sống cụ thể. Để thoả mãn nhu cầu ở
mức cao nhất, có thể con người chỉ có cần cù và chăm chỉ thôi là chưa đủ mà
họ cần phải có khă năng nhất định nào đó. Muốn vậy họ cần phải được đào tạo
và phát triển.
Doanh nghiệp tiến hành đào tạo và phát triển nguồn nhân lực vì ba lý do
sau:
- Một là, để chuẩn bị bù đắp vào những chỗ thiếu hụt. Sự bù đắp này
diễn ra thường xuyên nhằm làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp đươcj tiến hành trôi chảy thuận lợi.
- Hai là, để chuẩn bị cho người lao động thực hiện những trách nhiệm và
nhiệm vụ mới do có sự thay đổi về mặt pháp luật, chính sách và kỹ thuật công
nghệ mới tạo ra.
Ba là, để hoàn thiện khả năng của người lao động giúp họ thực hiện có
hiệu quả hơn.
Chính vì vậy, khi xác định cầu cần đảm bảo khả năng tài chính của doanh
nghiệp, đáp ứng yêu cẩu của tổ chức, yêu cầu học tập nghiên cứu của người
lao động Hay nói cách khác, người cán bộ đào tạo và phát triển phải trả lời
được câu hỏi khi nào thì đào tạo? đào tạo ở đâu? đào tạo kỹ năng như thế nào?
số lượng cần đào tạo bao nhiêu?.
Để xác định cầu đào tạo và phát triển cán bộ đào tạo cần phân tích 3 vấn
đề:
- Nhu cầu của tổ chức: Phân tích kế hoạch lao động để đảm bảo đáp ứng
kế hoạch sản xuất, phân tích về kỹ năng người lao động để đảm bảo đáp ứng
kế hoạch sản xuất, phân tích về kỹ năng người lao động, biện pháp cần thiết và
số lượng lao động doanh nhgiệp hiện có. Từ đó, xác định xem còn thiếu bao
nhiêu để đáp ứng kế hoạch sản xuất suy ra số lượng cần đào tạo.

- yêu cầu về kiến thức, kỹ năng cần có để thực hiện công việc. Xem xét
bản yêu cầu công việc từ đó xác định tiêu chuẩn cấp bậc công nhân.
- Phân tích trình độ, kỹ năng hiện có của người lao động có thể tham
kháo trực tiếp ý kiến của cán bộ bộ phận để thấy được trình độ và kỹ năng cần
thiết đối với người lao động.
Sơ đồ quá trình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực

×