RỦI RO VÀ ĐÁNH GIÁ RỦI RO TRONG THẨM ĐỊNH DỰ ÁN VAY
VỐN ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Thẩm định dự án vay vốn tại các NHTM
1.1.1. Chức năng của NHTM
Các luồng vốn và chứng khoán trong một thế giới không có Ngân hàng
Dân chúng
(những người tiết kiệm)
Các công ty
(những người đi vay)
CP & TP
Vốn
Các luồng vốn luân chuyển trong một thế giới mà hệ thống Ngân hàng
tồn tại và phát triển
Dân chúng
Các công ty
Ngân hàng (nhà trung gian)
Ngân hàng (nhà luân chuyển tài sản)
Vốn CP & TP
Chứng chỉ tiền gửi Vốn
Qua 2 sơ đồ trên ta thấy được sự ra đời, tồn tại và phát triển của các
NHTM được coi như là một tất yếu khách quan, đáp ứng nhu cầu của nền kinh
tế hàng hoá. Đồng thời, nó có ý nghiã như một bước ngoặt quan trọng trong lịch
sử phát triển và tiến bộ của loài người.
Theo tính chất và mục tiêu hoạt động các loại hình ngân hàng gồm:
NHTM, Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng chính sách, Ngân hàng hợp tác và các
loại hình Ngân hàng khác. Do vậy, NHTM chỉ là một nhóm trong số các tổ chức
tài chính trung gian, người ta gọi chung là “Các định chế tài chính” có chức
năng giống nhau là dẫn vốn từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn. Trong các định
chế tài chính, thì NHTM là định chế quan trọng nhất vì nó giữ phần lớn của xã
hội. NHTM đầu tiên được thành lập vào năm 1782 và đã có rất nhiều Ngân
hàng được thành lập từ những năm 1800, đến nay vẫn đang hoạt động chứng tỏ
sức sống bền bỉ và sự tồn tại khách quan của các NHTM
Khi nghiên cứu về NHTM, các nhà kinh tế học đưa ra rất nhiều những
quan niệm khác nhau về NHTM. Người thì cho rằng "NHTM là tổ chức tài
chính nhận tiền gửi và cho vay tiền". Có người lại nhận định: NHTM là trung
gian tài chính có giấy phép kinh doanh của Chính phủ để cho vay tiền và mở tài
khoản tiền gửi, kể cả các khoản tiền gửi có thể dùng séc…". Sở dĩ có tình trạng
này là do hoạt động NHTM rất đa dạng, các thao tác trong từng nghiệp vụ Ngân
hàng lại phức tạp và vấn đề này luôn biến động theo sự thay đổi chung của nền
kinh tế. Mặt khác, do tập quán, luật pháp của mỗi quốc gia, mỗi vùng khác nhau
đã dẫn đến những quan niệm về NHTM không đồng nhất giữa các nước trên thế
giới. Có thể đưa ra một khái niệm chung nhất về NHTM theo pháp lệnh ngân
hàng ngày 23-5-1990 của Hội đồng Nhà nước Việt Nam xác định: “Ngân hàng
thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên
là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để
cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”.
Như vậy, tựu chung lại ta có thể hiểu NHTM là một doanh nghiệp kinh
doanh trên lĩnh vực tiền tệ thông qua các nghiệp vụ huy động các nguồn vốn để
cho vay, đầu tư và thực hiện các nghiệp vụ tài chính khác.
Và tầm quan trọng của các NHTM có thể được minh họa một cách chi
tiết thông qua các chức năng cơ bản của nó.
Nói tổng quát thì NHTM có 2 chức năng cơ bản là:
- Chức năng luân chuyển tài sản: bao gồm huy động vốn bằng cách phát
hành các chứng chỉ tiền gửi và đầu tư bằng cách cấp tín dụng, mua cổ phiếu, trái
phiếu
- Chức năng cung cấp các dịch vụ thanh toán, môi giới và tư vấn
Ngày này, chức năng của NHTM được thể hiện cụ thể và cơ bản hơn. Các
chức năng đó là:
- Chức năng tạo tiền: Tạo tiền và huỷ tiền là hai chức năng cực kỳ quan
trọng của các NHTM. Xuất phát từ khả năng thay thế lượng tiền giấy bạc trong
lưu thông bằng những phương tiện thanh toán khác như séc, uỷ nhiệm chi...
Chức năng này được thực hiện thông qua nghiệp vụ tín dụng và đầu tư của hệ
thống NHTM, trong mối liên hệ chặt chẽ với hệ thống dự trữ quốc gia. Hệ thống
tín dụng là điều kiện cần thiết cho phát triển kinh tế theo hệ số tăng trưởng vững
chắc. Mục đích của chính sách dự trữ quốc gia là đưa ra một khối lượng tiền
cung ứng phù hợp với chính sách ổn định về giá cả, tăng trưởng kinh tế ổn định
và tạo được việc làm.
- Chức năng trung gian tín dụng: NHTM một mặt thu hút các khoản tiền
nhàn rỗi trong nền kinh tế, mặt khác nó dùng chính số tiền đã huy động được để
cho vay đối với các thành phần kinh tế trong xã hội, hay nói cách khác là một tổ
chức đóng vai trò “cầu nối” giữa các đơn vị thừa vốn với các đơn vị thiếu vốn.
Thông qua sự điều chuyển này. ngân hàng thương mại có vai trò quan trong
trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng việc làm, cải thiện mức sống dân
cư, ổn định thu chi Chính phủ. Đồng thời chức năng này còn góp phần quan
trọng trong việc điều hoà lưu thông tiền tệ, kiềm chế lạm phát. Từ đó cho thấy
rằng, đây là chức năng cơ bản nhất của NHTM.
- Chức năng trung gian thanh toán: Nếu như mọi khoản chi trả của xã hội
đều được thực hiện bên ngoài ngân hàng thì chi phí thực hiện là rất lớn, bao
gồm: chi phí in, đúc, bảo quản, vận chuyển tiền... Với sự ra đời của MHTM,
phần lớn các khoản chi trả trong hoạt động mua bán trao đổi hàng hoá dịch vụ
của xã hội dần được thực hiện qua ngân hàng, với những hình thức thanh toán
phù hợp, thủ tục đơn giản, nhanh chóng, thuận tiện với công nghệ ngày càng
hiện đại hơn. Chính nhờ tập trung công việc thanh toán của xã hội ở ngân hàng
nên việc lưu thông hàng hoá dịch vụ trở nên nhanh chóng, an toàn, tiết kiệm
hơn. Không những vậy, do thực hiện chức năng trung gian thanh toán, ngân
hàng thương mại có điều kiện huy động tiền gửi của toàn xã hội nói chung và
của doanh nghiệp nói riêng tới mức tối đa, tạo nguồn vốn cho đầu tư phát triển,
đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Ngoài ra, NHTM còn thực hiện một số chức năng khác như: Huy động tài
khoản, Mở rộng tín dụng, Tạo điều kiện để tài trợ ngoại thương, Dịch vụ ủy
thác, Bảo quản an toàn vật có giá (Đây là một trong những dịch vụ lâu đời nhất
được các NHTM thực hiện. Đó là việc ngân hàng lưu giữ vàng và các vật có giá khác
cho khách hàng trong kho bao quản và khách hàng phải trả phí bảo quản).
Dịch vụ kinh kỷ (Thực chất của chức năng này là việc mua và bán các
chứng khoán cho khách hàng).
1.1.2.Vai trò của NHTM
NHTM thể hiện được vai trò của mình thông qua các hoạt động cơ bản
sau đây:
Huy động và sử dụng vốn.
Trung gian thanh toán.
Cung cấp các dịch vụ khác.
Bất kỳ một quốc gia nào có nền kinh tế phát triển, đang phát triển, thậm
chí chưa phát triển thì hoạt động Ngân hàng cũng có tác dụng vô cùng to lớn
đến sự phát triển của nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của
NHTM được thể hiện trên một số mặt như sau:
- NHTM là nơi tập trung tiền nhàn rỗi và cung ứng tiền vốn cho quá trình
sản xuất kinh doanh: Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp cá nhân, tổ
chức kinh tế muốn sản xuất, kinh doanh thì cần phải có vốn để đầu tư mua sắm
tư liệu sản xuất, phương tiện để sản xuất kinh doanh…mà nhu cầu về vốn của
doanh nghiệp, cá nhân... luôn luôn lớn hơn vốn tự có do đó cần phải tìm đến
những nguồn vốn từ bên ngoài. Mặt khác lại có một lượng vốn nhàn rỗi do quá
trình tiết kiệm, tích luỹ của cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức khác... NHTM là
chủ thể đứng ra huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi đó và sử dụng nguồn
vốn huy động được cấp vốn cho nền kinh tế thông qua hoạt động tín dụng.
NHTM trở thành chủ thể chính đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Nhờ có
hoạt động ngân hàng và đặc biệt là hoạt động tín dụng các doanh nghiệp có điều
kiện mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc công nghệ, tăng năng suất lao động,
nâng cao hiệu quả kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
- NHTM là trung gian trong quá trình thanh toán góp phần thúc đẩy quá
trình lưu thông hàng hoá nhanh chóng.
- NHTM góp phần điều tiết và kiểm soát thị trường tiền tệ, thị trường
vốn.
- NHTM góp phần thu hút, mở rộng đầu tư trong và ngoài nước và cung
cấp các dịch vụ tài chính khác.
Tóm lại, hệ thống NHTM Việt Nam từ khi ra đời cho tới nay đã dần
khẳng định được vai trò quan trọng của mình trong nền kinh tế nói chung và
trong việc thực thi chính sách tài chính – tiền tệ nói riêng. Vẫn với chức năng
nhận tiền gửi để cho vay đối với nền kinh tế, với vai trò trung gian tài chính
trong hoạt động của mình, NHTM vẫn phải tuân theo sự quản lý của Nhà nước
mà trực tiếp là sự quản lý của Ngân hàng Trung ương. Chính dưới sự quản lý
này, hệ thống NHTM đã thực hiện được chức năng của mình đối với nền kinh
tế.
1.1.3. Thẩm định dự án cho vay vốn của NHTM
Mục tiêu của thẩm định dự án là giúp nhà đầu tư đưa ra quyết định có nên
thực hiện dự án hay không. Qua quá trình thẩm định sẽ lựa chọn được dự án tốt
nhất, mang tính khả thi và tính hiệu quả, bác bỏ những dự án không tốt, bác Vì
vậy cũng có thể thấy ngay được mục tiêu của thẩm định dự án cho vay vốn là
giúp Ngân hàng đưa ra quyết định có nên cho vay hay không cho vay.
Thực tế cho thấy rằng dù có chuẩn bị, phân tích kỹ lưỡng đến đâu thì vẫn
thể hiện tính chủ quan của nhà phân tích và lập dự án; nhiều khiếm khuyết, lệch
lạc tồn tại trong quá trình thực hiện dự án là lẽ đương nhiên.
Và để khẳng định một cách chắc chắn hơn mức độ hợp lý, hiệu quả, tính
khả thi của dự án cũng như quyết định đầu tư thực hiện dự án, cần phải xem xét,
kiểm tra lại dự án một cách độc lập với quá trình chuẩn bị, sọan thảo dự án. Hay
nói cách khác cần thẩm định dự án. Từ đây ta có cái nhìn tổng quát về thẩm
định dự án: Đó là sự rà soát, kiểm tra lại một cách khoa học, khách quan, toàn
diện mọi nội dụng của dự án và liên quan đến dự án, nhằm khẳng định tính hiệu
quả cũng như tính khả thi của dự án trước khi quyết định đầu tư. Trong quá trình
thẩm định dự án, nhiều khi phải tính toán, phân tích lại dự án. Riêng đối với
NHTM thì với tư cách là “Bà đỡ “về mặt tài chính cho các dự án sản xuất đầu tư
thường xuyên thực hiện công tác đầu tư. Việc thẩm định này ngoài mục tiêu
đánh giá hiệu quả của dự án còn nhằm xác định rõ hành lang an toàn cho các
nguồn vốn tài trợ của Ngân hàng cho các dự án. Vì vậy hiểu về sự cần thiết phải
thẩm định dự án cho vay vốn là một việc không thể thiếu được
Dưới góc độ là bên cho vay vốn, các NHTM khi nhận được bản luận
chứng kinh tế kỹ thuật sẽ tiến hành thẩm định theo các chỉ tiêu và ra quyết định
là có cho vay hay không cho vay. Sau đó mới đi đến “đàm phán và ký kết hợp
đồng”. Như vậy có thể hiểu thẩm định DAĐT trong NHTM là thẩm định trước
đầu tư và nó được đánh giá là công tác quan trọng nhất.
Với NHTM thì nội dung thẩm định gồm thẩm định khách hàng và thẩm
định dự án. Nội dung thẩm định dự án thì gồm 3 phần là: Thẩm định kỹ thuật;
Thẩm định kinh tế của dự án; Thẩm định tài chính của dự án. Trong đó thẩm
định tài chính của dự án là nội dung lớn nhất và quan trọng nhất.
Khi tiến hành thẩm định tài chính của dự án cần thực hiện các công việc:
Xác định tổng dự toán vốn đầu tư và các nguồn tài trợ cũng như phương thức tài
trợ dự án; Xác định chi phí và lợi ích của dự án và từ đó xác định dòng tiền; Dự
tính lãi suất chiết khấu của dự án; Xác định các tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả tài
chính của dự án; Đánh giá rủi ro trong dự án.
Đánh giá rủi ro trong dự án là nội dung chiếm phần quan trọng khi thực
hiện công tác thẩm định tài chính dự án. Thực chất của hoạt động này là đánh
giá khả năng xảy ra của một biến cố không chắc chắn trong các giai đoạn của dự
án. Rủi ro tiềm ẩn trong mọi giai đoạn của dự án.Do vậy, thẩm định đúng rủi ro
sẽ tạo điều kiện thực hiện dự án đúng như đã định.
Quan điểm thẩm định dự án đầu tư.
- Một dự án, qua thẩm định, được chấp nhận và cấp giấy phép đầu tư, phải
được xem xét và đánh giá trên góc độ của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, phù hợp với
mục tiêu phát triển kinh tế quốc gia và đáp ứng các lợi ích kinh tế – xã hội của đất
nước.
- Thẩm định dự án đầu tư nhằm thực hiện sự điều tiết của Nhà nước trong đầu
tư, bảo đảm sự cân đối giữa lợi ích kinh tế – xã hội của quốc gia và lợi ích của chủ đầu
tư.
- Thẩm định dự án đầu tư được thực hiện theo chế độ thẩm định của Nhà nước
đối với các dự án có hoặc không có vốn đầu tư của đất nước; phù hợp với pháp luật
Việt Nam và thông lệ quốc tế.
Ý nghĩa của việc thẩm định dự án vay vốn: Xem xét lợi ích một cách toàn
diện của tất cả các chủ thể tham gia.
- Giúp cho chủ đầu tư chọn được dự án đầu tư tốt nhất.
- Giúp cho các cơ quan quản lý nhà nước đánh giá được sự cần thiết và
thích hợp của dự án về các vấn đề phát triển kinh tế, xã hội, về công nghệ vốn, ô
nhiểm môi trường.
- Giúp các nhà tài chính ra quyết định chính xác về cho vay hoặc trả nợ.
Quy trình thẩm định dự án vay vốn: Gồm 4 bước:
- Trước tiên là tiếp nhận hồ sơ hay thu thập tài liệu, thông tin cần thiết
- Các tài liệu thông tin tham khảo khác
- Xử lý - phân tích - đánh giá thông tin
- Lập tờ trình thẩm định dự án
Nội dung thẩm định dự án vay vốn
Người ta thường vận dụng những nội dung kỹ thuật và những nội dung
kinh tế tổng quát sau để thẩm định dự án:
Nội dung kỹ thuật
- Kiểm tra về chủ đầu tư
- Xem xét về dự án
Nội dung kinh tế tổng quát
• Về mặt xuất khẩu:
- Khả năng xuất khẩu với nguyên vật liệu trong nước.
- Khả năng xuất khẩu với nguyên liệu nhập khẩu.
- Khả năng xuất khẩu tại chỗ.
- Khả năng so sánh về các tiêu chuẩn quốc tế với hàng nước ngoài.
• Thay thế hàng nhập khẩu:
• Các lĩnh vực khác:
- Mức độ phù hợp với đường lối chính sách phát triển kinh tế của quốc
gia.
- Mức độ phù hợp với cơ hội đầu tư.
- Khả năng thu hút nhân lực.
- Khả năng tận dụng nguyên, vật liệu trong nước.
- Khả năng đóng góp cho ngân sách.