Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.12 KB, 21 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA DOANH
NGHIỆP
1.1. TỔNG QUAN VỀ VỐN CỦA DOANH NGHIỆP
1.1.1. Khái niệm và phân loại vốn của doanh nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm về vốn của doanh nghiệp
Vốn là điều kiện không thể thiếu được để thành lập một doanh nghiệp và
tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong mọi loại hình doanh
nghiệp, vốn phản ánh nguồn lực tài chính được đầu tư vào sản xuất kinh
doanh. Nói về vốn thì có rất nhiều khái niệm khác nhau về vốn. Theo Nhà kinh
tế học người Mỹ Samuelson, vốn là hàng hoá được sản xuất ra để phục vụ cho
một quá trình sản xuất mới, là đầu vào cho hoạt động sản xuất của doanh
nghiệp. Trong cuốn “ Kinh tế học” của D.Begg, tác giả đã đưa ra hai định
nghĩa : vốn hiện vật và vốn tài chính của doanh nghiệp. Vốn hiện vật là dự trữ
các hàng hoá đã sản xuất ra để sản xuất các hàng hoá khác; vốn tài chính là
tiền và giấy tờ có giá của doanh nghiệp. Như vậy, DBegg đã bổ sung vào định
nghĩa vốn của Samuelson.
Còn trong cuốn từ điển kinh tế hiện đại có giải thích :
“ Capital – tư bản / vốn : một từ dùng để chỉ một yếu tố sản xuất do hệ
thống kinh tế tạo ra. Hàng hoá tư liệu vốn là hàng hoá được sản xuất để sử
dụng như yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất sau. Vì vậy tư bản này có thể
phân biệt được với đất đai và sức lao động, những thứ không được coi là do hệ
thống kinh tế tạo ra. Do bản chất không đồng nhất của nó mà sự đo lường tư
bản trở thành nguyên nhân của nhiều cuộc tranh cãi trong lý thuyết kinh tế ’’ (
Từ điển kinh tế học hiện đại, NXB Chính trị quốc gia – Hà Nội, 1999, Tr 129)
Theo cấu trúc giá trị của hàng hoá :
Giá trị hàng hoá = C + V + M
C - chi phí về tư bản bất biến
V - chi phí về tư bản khả biến
Để tiến hành tái sản xuất nhà tư bản cần chi phí vốn cho cả tư bản bất
biến và tư bản khả biến. Tư bản khả biến ở đây hoàn toàn không đồng nghĩa
với người lao động. Nói cách khác, lao động không phải là vốn đầu tư mà chỉ


có sức lao động đã chi ra mới là yếu tố hình thành vốn đầu tư.
Quan niệm thứ ba cho rằng vốn có nghĩa là nguồn lực cho sản xuất. Muốn
tiến hành tái sản xuất cần chi phí về đất đai, tài chính( vốn ) và lao động.
Người ta thường nói “ Lao động là vốn quý ’’.
Theo chúng tôi không nên coi toàn bộ lao động là vốn: sức lao động chỉ trở
thành vốn khi nó được sử dụng để sản xuất ra các yếu tố đầu vào cho quá trình
tái sản xuất.
Vốn là biểu hiện bằng tiền tất cả các nguồn lực đã bỏ ra để đầu tư. Các
nguồn lực có thể là của cải vật chất, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động,
là các tài sản vật chất khác.
Các phạm trù vốn, tài sản và đầu tư tồn tại đan xen nhau. Có vốn mới thực
hiện được đầu tư và kết quả của đầu tư lại tạo ra tài sản và vốn. Trong thực tế
chúng ta thường gọi : vốn cố định và đầu tư dài hạn và vốn lưu động và đầu tư
ngắn hạn, đầu tư dài hạn và đầu tư ngắn hạn có thuộc về vốn đầu tư để phát
triển hay không cũng là những vấn đề cần trao đổi. Đối với doanh nghiệp hoặc
hộ gia đình thì đầu tư ngắn hạn hoặc đầu tư dài hạn đều là một bộ phận của
vốn và được đưa vào đầu tư để sinh lời. Nhưng đối với toàn xã hội thì chưa
hẳn đã là vốn đầu tư cho phát triển xã hội.
Trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung bao cấp, việc huy động vốn, quyết
định đầu tư theo định hướng và theo kế hoạch của nhà nước. Các doanh không
được quyền tự chủ động huy động vốn và ra các quyết định đầu tư. Vốn của các
doanh nghiệp chủ yếu là từ nguồn ngân sách nhà nước cấp hoặc vay ngân
hàng với lãi suất thấp. Với chế độ cấp phát vốn và giao nộp sản phẩm, các
doanh nghiệp luôn ỷ lại cho nhà nước về các nguồn tài trợ, luôn đòi hỏi rút vốn,
tăng đầu tư như một điều kiện bảo đảm thực hiện kế hoạch, pháp lệnh. Các
doanh nghiệp tìm cách xin thêm vốn càng nhiều càng tốt, còn hiệu quả sử dụng
vốn thì không được chú ý đến. nhu cầu vốn của doanh nghiệp lại rất lớn nhưng
nguồn vốn của Nhà nước lại có giới hạn, mà trong khi đó có nhiều nguồn nhàn
rỗi từ nhân dân dư thừa lại không có thị trường để lưu thông.
Cơ chế bao cấp đã làm cho vốn không được lưu thông và sử dụng có hiệu

quả vì không có nơi giao dịch mua bán trên thị trường đồng thời làm mất đi
vai trò và tác dụng khách quan, đặc biệt là một đặc trưng của vốn “ tính hàng
hoá ’’
Chuyển sang nền kinh tế thị trường với chính sách phát triển kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần, Nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế tự bỏ
vốn đầu tư. Từ đó vốn trở thành yếu tố quan trọng hàng đầu trong mọi hoạt
động, đầu tư, sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp.
Thông qua thị trường, vốn lưu thông rộng rãi và thể hiện đầy đủ bản
chất vai trò của nó. Các Mác đã khái quát hoá vốn qua phạm trù “ Tư bản ’’: Tư
bản là giá trị mang lại “ gía trị thặng dư ” . Khái niệm này đã phản ánh được
nội dung, các đặc trưng và và vai trò, tác dụng của vốn. Tuy nhiên do hạn chế
của trình độ phát triển kinh tế lúc bấy giờ, Mác quan niệm chỉ có khu vực sản
xuất vật chất mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học tư bản thì không những khu vực
sản xuất vật chất tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế mà còn phải kể đến cả
khu vực dịch vụ …
Tóm lại, có thể đưa ra một khái niệm khái quát về vốn của doanh nghiệp
như sau :
“ Vốn của doanh nghiệp là các quỹ tiền, vốn mà doanh nghiệp dùng
trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Vốn thực chất là một số tiền mà
các doanh nghiệp ứng ra trước một chu kỳ sản xuất kinh doanh và nó phải
được thu hồi đầy đủ ( bảo toàn về giá trị ) sau mỗi chu kỳ sản xuất, kinh doanh
’’
Vốn được biều hiện là giá trị của toàn bộ tài sản do Doanh nghiệp quản
lý và sử dụng tại một thời điểm nhất định. Mỗi đồng vốn phải gắn lion với một
chủ sở hữu nhất định. Tiền tệ là hình thái vốn ban đầu của Doanh nghiệp
nhưng chưa hẳn có tiền là có vốn. Tiền chỉ là dạng tiềm năng của vốn, để biến
thành vốn thì tiền phải đưa vào sản xuất kinh doanh với mục đích sinh lời. Như
vậy vốn là lượng giá trị ứng trước của toàn bộ tài sản mà Doanh nghiệp kiểm
soát để phục vụ trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu hút được lợi

ích kinh tế trong tương lai. Vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh tồn tại
dưới hai hình thức: vốn cố định và vốn lưu động.
Nguồn hình thành vốn kinh doanh :
Trong mỗi Doanh nghiệp, vốn kinh doanh có thể được hình thành từ
nhiều nguồn khác nhau. Bởi vậy, mỗi Doanh nghiệp cũng chỉ có thể khai thác,
huy động trên nhuững nguồn cung cấp ở một giới hạn nhất định, từ đó cho
thấy, việc huy động các nguồn vốn đã là điều khó, nhưng việc sử dụng có hiệu
quả đồng vốn ấy lại càng khó khăn. Việc nghiên cứu, tìm tòi và đề ra các giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của mỗi doanh nghiệp là rất cần
thiết cho sự tồn tại, phát triển của doanh nghiệp. Huy động được nguồn vốn để
kinh doanh không thì chưa đủ mà phải có hình thức quản lý và sử dụng nguồn
vốn ấy vào việc sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả, làm cho vốn ngày
càng sinh lợi và đạt được chiến lược kinh tế cao. Đối với doanh nghiệp, tổng số
tài sản lớn hay nhỏ thể hiện quy mô hoạt động là rất quan trọng. Song nền
kinh tế thị trường điều quan trọng là giá trị tài sản do Doanh nghiệp đang
nắm giữ và sử dụng được hình thành từ những nguồn vốn nào, nguồn vốn của
doanh nghiệp thể hiện trách nhiệm pháp lý của Doanh nghiệp đối với tong loại
tài sản của Doanh nghiệp.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, các Doanh nghiệp không chỉ sử dụng
vốn của bản thân Doanh nghiệp mà còn sử dụng các nguồn khác, trong đó
nguồn vốn vay đóng một vai trò khá quan trọng. Do đó, nguồn vốn trong
Doanh nghiệp được hình thành từ hai nguồn sau:
• Nợ phải trả : là nghĩa vụ hiện tại của Doanh nghiệp phát sinh từ các giao
dịch và sự kiện đã qua mà Doanh nghiệp phải thanh toán từ các nguồn
lực của mình. Nợ phải trả xác định nghĩa vụ hiện tại của doanh nghiệp
khi Doanh nghiệp nhận về một tài sản, tham gia một cam kết hoặc phát
sinh các nghĩa vụ pháp lý. Việc thanh toán các nghĩa vụ hiện tại có thể
được thực hiện bằng nhiều cách như : trả bằng tiền, trả bằng tài sản
khác, cung cấp dịch vụ, thay thế nghĩa vụ này bằng nghĩa vụ khác, chuyể
đổi nghĩa vụ nợ phải trả thành vốn chủ sở hữu. Nợ phải trả phát sinh từ

các giao dịch và sự kiện đã qua như mua hàng hoá chua trả tiền, sử
dụng dịch vụ chưa thanh toán, vay nợ, cam kết bảo hành hàng hoá, cam
kết nghĩa vụ hợp đồng, phải trả công nhân viên, thuế phải nộp phải trả
khác.
• Nguồn vốn chủ sở hữu : nguồn vốn chủ sở hữu thể hiện quyền sở hữu
của người chủ về các tài sản của doanh nghiệp, là giá trị vốn của Doanh
nghiệp. Vốn chủ sở hữu được tạo nên từ các nguồn vốn sau : vốn các nhà
đầu tư có thể là vốn của doanh nghiệp, vốn góp, vốn cổ phần, vốn Nhà
nước.
Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước : Nguồn vốn vay được Nhà nước cung
cấp cho các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh hay hoạt động công
ích, đây là nguồn hình thành từ các khoản thu của Ngân sách nhà nước phân
bổ cho mục đích đầu tư thông qua các chi phí đầu tư cho phát triển kinh tế, văn
hoá xã hội.
Nguồn vốn chủ doanh nghiệp: Đối với Doanh nghiệp mới hình thành và
bắt đầu đi vào sản xuất kinh doanh, nếu là Doanh nghiệp Nhà nước vốn tự có
chính là vốn điều lệ, nếu là Doanh nghiệp tư nhân vốn tự có do chủ Doanh
nghiệp bỏ ra để đầu tư, đối với công ty cổ phần và các loại hình Công ty TNHH
vốn tự có do các cổ đông hay thành viên trong Công ty góp.
Nguồn vốn liên doanh: Vốn liên doanh được hình thành từ sự đóng góp
vốn giữa các tổ choc kinh tế trong nước với nhau, hoặc giữa các tổ choc kinh tế
ở nước ngoài. Mức độ đóng góp tuỳ thuộc vào thoả thuận giữa các bên tham
gia liên doanh. Các nguồn vốn tín dụng : là nguồn vốn Doanh nghiệp phải đi
vay dài hạn từ các Ngân hàng, Công ty bảo hiểm và các tổ choc tài chính trung
gian khác để phục vụ cho quá trình kinh doanh.
1.1.1.2. Phân loại vốn của doanh nghiệp
Căn cứ vào tiêu thức khác nhau thì có thể chia vốn thành nhiều loại khác
nhau :
1.1.1.2.1/ Nếu căn cứ vào hình thái biểu hiện : thì vốn của Doanh nghiệp là giá
trị của toàn bộ tài sản hữu hình và tài sản vô hình.

• Tài sản hữu hình ( Tangible asset ): Là tài sản thực hay tài sản cá nhân,
như nhà cửa, máy móc, bất động sản, công cụ, dụng cụ, nguyên liệu, vật
liệu….
• Tài sản vô hình như : nhãn hiệu, bản quyền, uy tín của công ty,các tài
nguyên thiên nhiên …..
1.1.1.2.2/ Nếu căn cứ vào nguồn hình thành : vốn của doanh nghệp chia làm 2
loại :
• Vốn chủ sở hữu ( vốn tự có của doanh nghiệp ):
Là nguồn vốn thuộc quyền chủ sở hữu của Doanh nghiệp đó. Nó có
thể là do chủ sở hữu đầu tư, vốn tự bổ xung từ lợi nhuận và từ các quỹ của
doanh nghiệp, vốn tài trợ của nhà nước ( nếu có ) .
Trong vốn chủ sở hữu có các nguồn chính sau:
• Vốn điều lệ của các doanh nghiệp :
Nếu là doanh nghiệp nhà nước : thì nguồn hình thành là ngân sách nhà
nước.
Nếu là doanh nghiệp tư nhân : thì do tư nhân bỏ ra
Nếu là doanh nghiệp cổ phần : thì nguồn hình thành do các cổ đông,
người mua cổ phiếu, cổ phần….
• Vốn từ phát hành cổ phiếu:
Cổ phiếu là chứng từ xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của
người sở hữu cổ phiếu đối với tài sản hoặc vốn của công ty cổ phần. Khi sở hữu
cổ phiếu, bạn sẽ trở thành cổ đông của công ty đó.
Cần phân biệt rõ vốn điều lệ và vốn pháp định. Vốn pháp định là mức vốn
tối thiểu theo quy định của pháp luật mà một công ty phải có khi thành lập.
Có hai loại cổ phiếu:
- Cổ phiếu có ghi tên: ghi rõ họ tên của chủ sở hữu. Nó không được tự
do chuyển nhượng, mua bán. Nó chỉ có thể được chuyển nhượng
trong điều kiện được sự đồng ý của hội đồng quản trị của công ty cổ
phần đó. Nó dành cho các nhà sáng lập viên của công ty cổ phần. Đây
là hình thức pháp luật ràng buộc các người sáng lập viên với công ty

cổ phần đó.
- Cổ phiếu không ghi tên(vô danh): trên cổ phiếu không ghi rõ họ
tên của ai. Nó được tự do chuyển nhượng mua bán. Người nào cầm
cổ phiếu là người đó có quyền chia tài sản... Người ta chia hai loại:
Các cổ phiếu ưu đãi: Trong đó cổ phiếu ghi rõ về thu nhập mà cổ phiếu
đó được hưởng( có tính chất cố định ). ví dụ : 8% năm. Cổ phiếu ưu đãi tương
tự như cổ phiếu phổ thông nhưng cổ đông sở hữu nó không được tham gia bầu
cử và ứng cử vào hội đồng quản trị, được ưu tiên chia lãi cổ phần trước cổ
đông phổ thông và được ưu tiên chia tài sản còn lại của công ty khi công ty
thanh lý, giải thể.
Các cổ phiếu thông thường : là loại cổ phiếu mà thu nhập của nó ( lợi
tức cổ phiếu) lên hay xuống tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Đây là loại cổ phiếu rủi ro cao nhất.
Các quỹ được tạo nên trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp :
- Quỹ dự trữ : thông thường được trích trên ròng lãi hàng năm của các
doanh nghiệp, theo tỷ lệ phần trăm nhất định với mục tiêu để bổ sung
và làm tăng thêm vốn điều lệ của các doanh nghiệp. Quỹ được trích
lập thường xuyên, nhưng được đưa vào vốn điều lệ, việc đưa vào bao
nhiêu do các cơ quan chức năng của các doanh nghiệp đó quyết định.
- Quỹ dự trữ đặc biệt : được trích lập theo tỷ lệ nào đó trên cơ sở lãi
ròng hàng năm của các doanh nghiệp. Mục đích để trang trải rủi ro
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Trong các ngân hàng thương mại, trích lập các quỹ dự trữ đặc biệt dựa
trên cơ sở thu nhập – chi phí nhưng chưa trừ thuế. Nó không được trích lập
trên lãi ròng. Vì :
Thứ nhất : bởi vì kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng có tỷ lệ rủi ro cao
nhất. Quỹ dự trữ đặc biệt trích lập theo lãi ròng không đủ để trang trải cho
những rủi ro của ngân hàng thương mại.
Thứ hai: nếu các ngân hàng thương mại trích lập quỹ đặc biệt trên cơ sở

sau khi đã trừ thuế thì nhiều ngân hàng thương mại sẽ không được hưởng cơ
chế này, vì nhiều ngân hàng thương mại hoạt động không có lãi.
- Các quỹ khác : được coi như là vốn tự có của các doanh nghiệp.
ví dụ : quỹ phúc lợi, quỹ khấu hao, quỹ đầu tư phát triển …
Từ những điều ta đã trình bầy ở trên, ta có thể thấy rằng nguồn vốn chủ
sở hữu của doanh nghiệp không chịu sự kiểm soát của các chủ nợ, không phụ

×