MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC
THẨM ĐỊNH CÁC DỰ ÁN FDI
I. Định hướng công tác thẩm định
Tiếp tục đổi mới tổ chức quản lý công việc để tập trung thực hiện công
tác kiểm tra, giám sát, đánh giá đầu tư, hoàn thiện quy trình tổ chức thực hiện
các khâu công việc phù hợp với chức năng, nhiệm vụ. Nâng cao chất lượng
công tác, đáp ứng nhu cầu quản lý đầu tư:
- Công tác thẩm định phải được xây dựng thành quy trình phù hợp với
đặc điểm của hoạt động đàu tư nước ngoài.
- Phải xuất phát từ quan điểm của xã hội để tiến hành thẩm định dự án;
tức là việc thẩm định các luồng chi phi – lợi ích phải xem xét đến hiệu quả kinh
tế-xã hội mà dự án đem lại...
II. Giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định các dự án có vốn FDI
Vai trò của công tác thẩm định dự án đối với hoạt động đầu tư nói riêng
và nền kinh tế Việt Nam nói chung - khi mà hoạt động đầu tư nước ngoài đang
được Chính phủ khuyến khích thực hiện - là hết sức quan trọng. Hoàn thiện
công tác thẩm định dự án luôn là một yêu cầu đặt ra đối với các cơ quan thẩm
định của Nhà nước. Công tác thẩm định dự án thực hiện tốt sẽ hạn chế đến mức
tối thiểu những dự án xấu, có ảnh hưởng không tốt cho quá trình phát triển ổn
định của nền kinh tế.
Xuất phát từ mục đích và yêu cầu của hoạt động thẩm định dự án đã đề
cập đến ở chương I cũng như những điểm hạn chế của hoạt động này đã đề cập
ở chương II; đề tài có đề xuất một số giải pháp cho công tác thẩm định như sau:
1. Giải pháp về nghiệp vụ
1.1. Hoàn thiện quy trình ( tổ chức) thẩm định dự án đầu tư FDI
Khâu có ý nghĩa quan trọng trong quá trình thẩm định dự án là thực hiện
các công việc thẩm định. Để thực hiện tôt khâu này cần phải có một quy trình
thực hiện thẩm định hợp lý, khoa học. Nhiệm vụ tổng quát của công tác thẩm
định dự án là phân tích đánh giá tính khả thi của dự án về các mặt và đề xuất
kiến nghị làm cơ sở cho cơ quan Nhà nước ra quyết định chấp nhận hay không
chấp nhận dự án. Cơ chế “một cửa“ đã phần nào đáp ứng đựoc yêu cầu về thời
gian, nhưng để nâng cao hiệu quả thẩm định cần có một số thay đổi trong khâu
đánh giá chuyên môn, cụ thể cần thực hiện các cách sử dụng tư vấn sau:
- Thành lập nhóm chuyên gia: bao gồm các chuyên gia làm việc tại các
Bộ, sở quản lý chuyên ngành, có thể có thêm vài chuyên gia độc lập từ các viện
nghiên cứu, trường đại học bên ngoài. Trong những trường hợp cần thiết, nhóm
chuyên gia này có thể chia thành các tiểu ban chuyên môn để thực hiện đánh giá
theo từng nôị dung chuyên môn. Ví dụ: tiểu ban công nghệ, tiều ban xây dựng,
tiểu ban kinh tế…
- Các tư vấn độc lập trong và ngoài nước: đó là các tổ chức hoặc cá nhân
có trình độ chuyên môn cao trong các lĩnh vực có liên quan. Các tổ chức tư vấn
hoặc chuyên gia này làm nhiệm vụ phản biện toàn bộ hoặc từng phần dự án theo
chuyên đề.
Tuỳ thuộc nội dung, tính chất dự án cụ thể, có thể trình đơn vị có thẩm
quyền quyết định thành lập nhóm chuyên gia hoặc chọn tư vấn phản biện để tiến
hành thẩm định các dự án. Cách thức sử dụng tư vấn chuyên môn thẩm định đối
với từng dự án có thể áp dụng các cách linh hoạt: có thể đầy đủ các hình thức tổ
chức nói trên (có cả nhóm chuyên gia, có cả các tư vấn độc lập), có thể sử dụng
một hay một vài hình thức nêu trên (chỉ gồm nhóm chuyên gia hay một vài tiểu
ban chuyên môn, thậm chí có thể chỉ yêu cầu một vài chuyên gia phản biện).
Trên cơ sở ý kiến của các tư vấn chuyên môn nói trên, cơ quan thẩm định sẽ
tổng hợp xem xét báo cáo để có ý kiến trình người có thẩm quyền quyết định
đầu tư.
Thêm vào đó, cơ quan thẩm định cũng cần phối hợp hơn nữa với các Bộ,
ngành liên quan để hình thành mạng lưới đội ngũ chuyên gia và tổ chức tư vấn
tương đối ổn định, có mối quan hệ thường xuyên để huy động nhanh, đáp ứng
kịp thời yêu cầu của công tác thẩm định. Nhóm chuyên gia liên ngành, các tiểu
ban chuyên môn và tư vấn độc lập cũng cần sử dụng thông tin, trao đổi, phối
hợp với nhau trong quá trình thẩm định đánh giá dự án theo nhiệm vụ được
giao.
Việc thực hiện tốt một quy trình thẩm định hợp lý một mặt sẽ đảm bảo
các yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý ngành và phối hợp được giữa các ngành,
các địa phương trong việc đánh giá thẩm định dự án, đồng thời đảm bảo tính
khách quan, cho phép phân tích sâu sắc, có căn cứ khoa học và thực tế các vấn
đề chuyên môn, giúp cơ quan thẩm định hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ thẩm định
của mình.
1.2. Hoàn thiện nội dung thẩm định
Thông thường, các nhà đầu tư nước ngoài chỉ quan tâm nhiều đến hiệu
quả tài chính của dự án, bởi vì đứng về lợi ích riêng của nhà đầu tư thì hiệu quả
cao nhất là lợi nhuận thu được. Trong khi đó, các nhà quản lý không chỉ căn cứ
vào hiệu quả tài chính, mặc dù đó là một nhân tố làm tăng nguồn thu của ngân
sách nhà nước, đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế. Yếu tố quyết định và
được lấy làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương hướng lựa chọn các dự án
chính là hiệu quả kinh tế xã hội. Do đó, khi thẩm định xem xét một dự án đầu tư
trực tiếp nước ngoài cần phải đặt hiệu quả kinh tế xã hội lên trên và coi đó là
phương hướng cơ bản của những biện pháp khuyến khích đầu tư. Xuất phát từ
tinh thần đó, việc cải cách công tác thẩm định dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài
hiện nay cần phải theo hướng đảm bảo lợi ích nhà nước trong khuôn khổ pháp
luật. Trong luận chứng kinh tế - kỹ thuật cần chú ý nhiều hơn đến phần giải
trình các lợi ích kinh tế xã hội của dự án khi triển khai đem lại cho toàn bộ nên
kinh tế. Các chỉ tiêu kinh tế (ENPV, EIRR…) cần được đưa vào sử dụng nhằm
lượng hoá một cách chính xác luồng lợi ích – chi phí đem lại từ dự án.
Để làm được điều này cũng cần thực hiện một số yêu cầu trong trình tự
sau:
- Dựa vào báo cáo tài chính của chủ đầu tư để thêm bớt các hạng mục chi phí –lợi
ích.
- Điều chỉnh các hạng mục sang giá kinh tế bằng cách sử dụng hệ số chuyển đổi
kinh tế, điều này đã đặt ra yêu cầu thiết yếu cho các cơ quan thống kê.
- Tính toán, sử dụng các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế-xã hội để đánh giá, nhận xét.
Về nội dung của việc đánh giá hiệu quả của dự án cũng cần phải có
những điểm lưu ý. Đối với những dự án đầu tư mới, cần đánh giá thật kỹ lưỡng
về công nghệ; đối với những dự án đầu tư bổ sung, cần xem xét tới khả năng
thúc đẩy những dự án đang tiến hành tới đâu đồng thời phải đánh giá tác động
tới các vấn đề xã hội, đánh giá tác động môi trường...
Mặt khác, cũng cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan thẩm định và
đối tác bên Việt Nam khi thực hiện các dự án liên doanh. Điều này sẽ giúp
chúng ta tiết kiệm được thời gian và chi phí thẩm định. Chẳng hạn khi bên Việt
Nam tìm hiểu về đối tác đầu tư sẽ phối hợp với cơ quan thẩm định để điều tra.
Hoặc khi thực hiện nghiên cứu khả thi, nhiều công đoạn có thể phối hợp để
kiểm tra ngay khi nghiên cứu, chứng minh tính đúng đắn của việc nghiên cứu
đó để đến khi thẩm định không phải thực hiện các bước này.
Một điều đáng nói nữa là hiện nay trong phần lớn các liên doanh, phía
Việt Nam thường chỉ góp vốn bằng quyền sử dụng đất, đối tác nước ngoài góp
vốn bằng vật tư trang thiết bị và một phần tiền mặt. Lợi dụng những bất cập của
các nhà kinh doanh Việt Nam nên phía nước ngoài đã đưa vào nhiều liên doanh
những thiết bị cũ không đồng bộ hoặc khai khống giá cao hơn thực tế. Thiệt hại
của chúng ta về mặt này hết sức to lớn. Do đó, để hạn chế bớt những hậu quả
đáng tiếc xảy ra, cơ quan thẩm định nên kiểm tra bắt buộc tiến độ và sự góp vốn
của các bên liên doanh để có cơ sở pháp lý khẳng định giá trị góp vốn, giúp cho
phía Việt Nam không phải gánh chịu những hậu quả xấu xảy ra.
1.3. Nâng cao chất lượng thu thập và xử lý thông tin liên quan đến việc
thẩm định dự án có vốn đầu tư FDI.
Thông tin là một yếu tố tối quan trọng để tiến hành công tác thẩm định.
Quá trình thẩm định có thành công hay không phụ thuộc lớn vào điều này. Làm
sao để có được những dữ liệu và thông tin chính xác, cập nhật phục vụ cho quá
trình thẩm định là điều không dễ dàng. Thêm vào đó, do đặc trưng của các nhà
đầu tư nước ngoài là rất đa dạng về đặc điểm, hoàn cảnh địa lý và môi trường
nên việc khai thác, thu thập thông tin phục vụ cho công tác thẩm định là một
công việc hết sức tốn kém về công sức, tiền bạc và thời gian. Tuy nhiên, không
phải vì thế mà chúng ta không tiến hành thu thập xây dựng một hệ thống thông
tin riêng. Những chi phí của hệ thống thông tin sẽ được bù đắp bởi những lợi
ích thu được từ việc giảm những rủi ro và chi phí xã hội khi thực hiện những dự
án không đảm bảo những yêu cầu đặt ra. Một số giải pháp khuyến nghị như sau:
- Thu thập thông tin trên từng phương diện của dự án, bao gồm tư cách
pháp nhân của chủ đầu tư, các luồng chi phí, lợi ích, nguồn nguyên liệu, công
nghệ, môi trường….
- Thông tin có thể thu thập ở rất nhiều nguồn, tuy nhiên không phải
nguồn tin nào cũng đáng tin cậy. Nên tìm hiểu các thông tin một cách chính
thống qua các cơ quan đại diện ngoại giao, thương mại kinh tế của Việt Nam ở
nước ngoài, các ngân hàng, các công ty kiểm toán tư vấn đầu tư trong và ngoài
nước. Ngoài ra, cơ quan thẩm định cũng có thể đa dạng hóa nguồn thông tin từ
các bạn hàng của đối tác để nắm được tình hình tài chính, quan hệ thanh toán, tư
cách, uy tín và năng lực của nhà đầu tư nước ngoài.
- Đảm bảo một hệ thống cung cấp và xử lý thông tin báo cáo nội bộ chính
xác. Hệ thống thông tin không thể thông suốt và chính xác khi ngay ở trong nội
bộ, sự cung cấp thông tin đã sai lệch. Việc cung cấp thông tin nội bộ này phụ
thuộc vào sự phân tích của các phòng ban liên quan trong cơ quan thẩm định;
phải đảm bảo được sự đánh giá toàn diện khi tiếp nhận được thông tin từ bên
ngoài, tránh việc xem xét chủ quan phiến diện trên một mặt nào đó.
- Xây dựng một hệ thống lưu trữ những thông tin đã qua xử lý cũng như
thông tin mới tiếp nhận một cách khoa học để có thể truy cập khi cần. Hệ thống
này cần được cập nhật liên tục và phân loại khoa học theo từng lĩnh vực cũng
như từng ngành.
Trong phạm vi quốc gia, đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hoạt động
phức tạp, liên quan đến thẩm quyền và trách nhiệm của những cơ quan quản lý
khác nhau. Vì vậy để tạo được nguồn thông tin tốt cho công tác thẩm định cần
có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước ở các cấp. Vấn đề then chốt
là nhằm đảm bảo duy trì chế độ báo cáo định kỳ theo quy định. Ngoài chế độ
báo cáo thống kê theo quy định chung của nhà nước, các Sở kế hoạch và đầu tư
cần có báo cáo và thông tin nhanh về tình hình đầu tư nước ngoài trên địa bàn
để Bộ Kế hoạch và Đầu tư kịp thời nắm bắt và xử lý các vấn đề phát sinh.
1.4. Giải pháp về xác định các tiêu chuẩn trong phân tích, đánh giá dự
án
Để thẩm định đánh giá dự án, vấn đề quan trọng và cần thiết là việc sử
dụng các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật. Việc sử dụng các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật cần
phải giải quyết hai vấn đề là định lượng và xác định tiêu chuẩn để đánh giá của
các chỉ tiêu đó. Khâu yếu trong công tác thẩm định hiện nay chính là hai vấn đề
trên. Để khắc phục mặt yếu kém này, cần phải có một số giải pháp kịp thời và
đòi hỏi sự nỗ lực phối hợp của các cơ quan chuyên môn có liên quan:
- Cần nhanh chóng thống nhất về nội dung, phương pháp đo lường các
chỉ tiêu; ví dụ như chỉ tiêu sử dụng đất ở các khu công nghiệp, tính toán yếu tố
lạm phát trong các chỉ tiêu tài chính, chỉ tiêu và phương pháp tính các chỉ tiêu
đánh giá kinh tế, chỉ tiêu đánh giá về các yếu tố xã hội, hệ thống giá thị trường
cần tiến tới thay thế bằng hệ thống giá kinh tế ( sử dụng giá bóng)