Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Thực Hiện Pháp Luật Về Bảo Trợ Xã Hội Từ Thực Tiễn Quận Hải Châu, Thành Phố Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGÔ THÁI THANH UYÊN

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO TRỢ
XÃ HỘI TỪ THỰC TIỄN QUẬN HẢI CHÂU,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGÔ THÁI THANH UYÊN

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO TRỢ
XÃ HỘI TỪ THỰC TIỄN QUẬN HẢI CHÂU,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Mã số: 8.38.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. VŨ ANH ĐỨC


HÀ NỘI, năm 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Những số liệu,
kết quả nghiên cứu được sử dụng trong luận văn này là trung thực và chưa
được sử dụng để bảo vệ bất cứ một học vị nào.

Tác giả luận văn

Ngô Thái Thanh Uyên


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO TRỢ XÃ HỘI VÀ PHÁP LUẬT
VỀ BẢO TRỢ XÃ HỘI Ở VIỆT NAM ......................................................... 8
1.1. Khái niệm và đặc điểm của bảo trợ xã hội ................................................. 8
1.1.1. Khái niệm bảo trợ xã hội ..................................................................... 8
1.1.2. Đặc điểm bảo trợ xã hội .................................................................... 10
1.2. Vai trò của bảo trợ xã hội ......................................................................... 12
1.3. Pháp luật về bảo trợ xã hội ở Việt Nam hiện nay .................................... 15
1.3.1. Khái niệm pháp luật về bảo trợ xã hội .............................................. 15
1.3.2. Đối tượng và điều kiện bảo trợ xã hội ............................................... 16
1.3.3. Khái niệm, đặc điểm thực hiện pháp luật về bảo trợ xã hội ............. 18
1.3.4. Nội dung thực hiện pháp luật về bảo trợ xã hội ................................ 20
1.4. Những yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật về bảo trợ xã hội ................ 31
1.4.1. Yếu tố kinh tế ..................................................................................... 31
1.4.2. Yếu tố về chính trị- pháp luật ............................................................ 32
1.4.3. Yếu tố về truyền thống văn hóa ......................................................... 33

Tiểu kết Chương 1 ........................................................................................... 34
Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO TRỢ
XÃ HỘI TẠI QUẬN HẢI CHÂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG .................. 36
2.1. Các yếu tố kinh tế xã hội của quận Hải Châu thành phố Đà Nẵng ảnh
hưởng đến việc thực hiện pháp luật về bảo trợ xã hội .................................... 36
2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về bảo trợ xã hội trên địa bàn quận Hải
Châu, thành phố Đà Nẵng ............................................................................... 39
2.2.1. Về đối tượng và điều kiện bảo trợ xã hội .......................................... 39
2.2.2. Về xây dựng chính sách pháp luật về bảo trợ xã hội ........................ 47
2.2.3. Về nguồn lực thực hiện bảo trợ xã hội .............................................. 52


2.3. Đánh giá chung về hoạt động thực hiện pháp luật về bảo trợ xã hội tại
quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng ............................................................... 53
2.3.1. Những kết quả đạt được..................................................................... 53
2.3.2. Những hạn chế ................................................................................... 60
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế ...................................................... 64
Tiểu kết Chương 2 ........................................................................................... 68
Chương 3. ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO TRỢ
XÃ HỘI .......................................................................................................... 69
3.1. Định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo trợ xã hội ................ 69
3.1.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về bảo trợ xã hội ......................... 69
3.1.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo trợ xã hội ............................ 71
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo trợ xã hội tại
quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng ............................................................... 73
3.2.1. Giải pháp đối với UBND thành phố Đà Nẵng .................................. 73
3.2.2. Giải pháp đối với phòng Lao động Thương binh và Xã hội ................. 74
3.2.3. Giải pháp đối với UBND quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng ....... 76
Tiểu kết Chương 3 ........................................................................................... 77

KẾT LUẬN .................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BTXH

: Bảo trợ xã hội

BLĐTBXH

: Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội

NCT

: Người cao tuổi

NKT

: Người khuyết tật

UBND

: Uỷ ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong một xã hội văn minh, hiện đại, sự phát triển của quốc gia không

chỉ đơn thuần được đánh giá bởi nền kinh tế phát triển, mà còn dựa trên cách
thức mà quốc gia đó quan tâm, chăm lo đến vấn đề an sinh cho công dân nước
mình. Ngay từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Đảng và Nhà
nước ta đặt quyết tâm phát triển các chính sách BTXH, bảo đảm thực hiện
ngày càng tốt hơn các quyền cơ bản của người dân, phù hợp với trình độ phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước và tiếp cận với chuẩn mức quốc tế. Là một
quốc gia trải qua rất nhiều cuộc chiến vệ quốc, bên cạnh đó cũng thường
xuyên chịu ảnh hưởng của thiên tai cũng như ảnh hưởng nặng nề bởi biến đổi
khí hậu nên số lượng đối tượng cần được BTXH của nước ta rất lớn. Từ nhiều
năm qua, đặc biệt là từ khi thực hiện đường lối Đổi mới (năm 1986) đến nay,
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các chính
sách BTXH, coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực để ổn định chính trị - xã
hội, phát triển bền vững.
Hệ thống pháp luật và chính sách phát triển các lĩnh vực xã hội ngày
càng được bổ sung và hoàn thiện. Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên khẳng
định quyền an sinh xã hội cơ bản cho người dân như tại Điều 34 quy
định“Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội” và Điều 59 quy định
“Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội,
phát triển hệ thống an sinh xã hội”. Bên cạnh đó, nguồn lực đầu tư phát triển
các lĩnh vực xã hội ngày càng lớn, được tăng cường đầu tư từ ngân sách nhà
nước và các nguồn lực xã hội khác. Các lĩnh vực xã hội đạt được nhiều thành
tựu quan trọng, nhất là giảm nghèo, tạo việc làm, ưu đãi người có công, giáo
dục và đào tạo, y tế, trợ giúp người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, công tác

1


gia đình và bình đẳng giới. Đời sống vật chất và tinh thần của người có công,
người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số được cải thiện, góp phần củng cố lòng
tin của nhân dân và sự ổn định chính trị - xã hội.

Tuy nhiên hiện nay, các quy định của Luật và các văn bản dưới Luật về
chính sách BTXH vẫn chưa đáp ứng được so với nhu cầu và sự đòi hỏi của xã
hội, chưa bao phủ hết các tất cả các đối tượng thật sự cần trợ giúp, một số quy
định, quy trình thủ tục thực hiện chính sách BTXH chưa phù hợp, chưa đáp
ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra.
Đà Nẵng được xem là vùng kinh tế trọng điểm miền Trung - Tây
Nguyên với tốc độ phát triển kinh tế- xã hội luôn ổn định, hệ thống chính sách
BTXH không ngừng phát triển. Trong những năm qua, hệ thống các văn bản
về chính sách BTXH của thành phố nói chung được ban hành tương đối đầy
đủ, nhiều văn bản đã lồng ghép chỉ đạo xây dựng cơ sở dữ liệu chuyên ngành
các nhóm đối tượng để phục vụ cho việc hoạch định, quản lý và thực thi các
chính sách. Hiện nay, thành phố đã có các cơ sở dữ liệu chuyên ngành về
BTXH như: Cơ sở dữ liệu quản lý hộ nghèo, đối tượng BTXH, người có
công, thông tin thị trường lao động, dạy nghề, bảo hiểm xã hội. Tuy nhiên,
hầu hết các cơ sở dữ liệu phát triển một cách tự phát, không dựa trên một nền
tảng thống nhất, đồng bộ do đó việc cập nhật, quản lý thông tin mang tính đơn
lẻ, không kịp thời và chưa đáp ứng được yêu cầu trong công tác quản lý. Hơn
nữa, các cơ sở dữ liệu không có sự kết nối dẫn đến chồng chéo, tốn kém từ
khâu thu thập thông tin, quản lý, khai thác và chia sẻ vì vậy các chính sách
luôn biến động; đội ngũ cán bộ các cấp thường xuyên thay đổi, chưa được đào
tạo chuyên sâu về ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý vận hành khai
thác; cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin được đầu tư đã lâu, đường truyền
không ổn định... Bên cạnh đó, công tác BTXH tại quận Hải Châu, thành phố

2


Đà Nẵng còn bộc lộ nhiều hạn chế cần khắc phục như: đội ngũ thực hiện pháp
luật về BTXH còn chưa đảm bảo; việc ban hành, xây dựng các văn bản tổ
chức thực hiện pháp luật về BTXH còn chưa thực sự chủ động; vấn đề phổ

biến, tuyên truyền chính sách, pháp luật vẫn còn hình thức chứ chưa thực sự
đi sâu vào các đối tượng BTXH. Những vấn đề tồn tại trong hệ thống pháp
luật về BTXH đã dẫn đến nhiều bất cập như các đối tượng được BTXH chưa
được hưởng đầy đủ, kịp thời các chính sách, chưa thể hiện được sự quan tâm
đúng nghĩa mà pháp luật về BTXH mang lại. Xuất phát từ những vấn đề lý
luận và thực tiễn đó, tác giả chọn đề tài: “Thực hiện pháp luật về bảo trợ xã
hội từ thực tiễn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng” làm đề tài luận văn
Thạc sĩ của mình. Công trình này hi vọng sẽ góp phần hoàn thiện hơn nữa hệ
thống pháp luật BTXH của Việt Nam hiện tại cũng như nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật BTXH tại quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
BTXH là một trong những nội dung quan trọng về chính sách xã hội
của mỗi quốc gia và đang thu hút sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa
học pháp lý. Một số công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài này có thể
kể đến là:
Nguyễn Thị Báo (2007), Hoàn thiện pháp luật về quyền của người
khuyết tật ở Việt nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia. Quyền của NKT là mối quan tâm không chỉ của riêng
một quốc gia nào. Tôn trọng và bảo đảm quyền của NKT là vấn đề mang ý
nghĩa nhân đạo, từ thiện, đồng thời còn mang ý nghĩa kinh tế, xã hội và pháp
lý. Luận văn phân tích thực trạng pháp luật về quyền của NKT ở Việt Nam
hiện nay trên các phương diện dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hoá;
nêu bật những ưu điểm, hạn chế cơ bản và nguyên nhân của những ưu điểm,

3


hạn chế đó; trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về
quyền của NKT ở Việt Nam hiện nay.
Trịnh Quang Nghĩa (2011), Đẩy mạnh hoạt động bảo trợ xã hội trên
địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế. Trên cơ sở nghiên

cứu về hoạt động bảo trợ xã hội của một số tỉnh thành ở Việt Nam nói chung
và hoạt động bảo trợ xã hội của tỉnh Quảng Ngãi nói riêng, Luận văn đánh giá
thực trạng hoạt động bảo trợ xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi và đề xuất
phương hướng, giải pháp nhằm đẩy mạnh các hoạt động bảo trợ xã hội, đảm
bảo tốt hơn cho các đối tượng cần được bảo trợ xã hội trên địa bàn.
Nguyễn Thị Quỳnh (2014), Đánh giá việc thực hiện chính sách bảo trợ
xã hội đối với người khuyết tật ở xã Hợp Đồng, huyện Chương Mỹ, thành phố
Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ công tác xã hội. Đây là luận văn phân tích, đánh giá
việc thực hiện chính sách BTXH đối với NKT tại huyện Chương Mỹ, thành
phố Hà Nội. Từ đó đưa ra các giải pháp nhằm góp phần nâng cao nhận thức,
trách nhiệm của người thực hiện chính sách đó.
Nguyễn Tiến Ngọc (2015), Quản lý nhà nước về hoạt động bảo trợ xã
hội trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, Luận văn Thạc sĩ Quản lý công. Luận văn tập
trung hoàn thành những vấn đề về lý luận và thực tiễn liên quan đến BTXH.
Trên cơ sở đó, hình thành lý luận những vấn đề của pháp luật về BTXH tỉnh
Đắk Lắk, phân tích các hình thức và vai trò pháp luật về BTXH, những kết
quả đạt được và hạn chế, thiếu sót, nguyên nhân từ đó rút ra những kinh
nghiệm đúc kết pháp luật về BTXH tỉnh Đắk Lắk.
Hoàng Thị Liên (2015), Pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo
và các đối tượng chính sách xã hội khác, Luận văn Thạc sĩ Luật học. Luận
văn đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luân, pháp lý, thực trạng pháp luật trợ
giúp pháp lý cho người nghèo, các đối tượng chính sách xã hội khác và thực

4


tiễn ở Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất quan điểm, giải pháp hoàn thiện.
Trần Ngọc Dương (2018), Thực hiện chính sách bảo trợ xã hội từ thực
tiễn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, Luận văn Thạc sĩ chính sách công.
Luận văn nghiên cứu, rà soát các chính sách BTXH trên địa bàn quận Hải

Châu thành phố Đà Nẵng, để từ đó tìm ra những nguyên nhân tồn tại trong
quá trình tổ chức thực hiện chính sách, nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong
thực hiện chính sách BTXH trong tương lai.
Các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến những vấn đề về mặt
lý luận và thực tiễn đối với hoạt động BTXH. Tuy nhiên BTXH còn khá mới
mẽ ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu kể trên chỉ mới đề cập đến các
chính sách cho từng đối tượng BTXH cụ thể mà chưa đi sâu nghiên cứu quá
trình pháp luật thực hiện chính sách BTXH dưới góc độ toàn diện. Bên cạnh
đó, chưa có một công trình nghiên cứu nào nghiên cứu một cách đầy đủvà sâu
sắc việc thực hiện pháp luật về BTXH cụ thể tại quận Hải Châu, thành phố Đà
Nẵng. Vì vậy, khi nghiên cứu đề tài này tác giả chỉ tập trung các vấn đề thực
tiễn thực hiện pháp luật về BTXH tại địa bàn quận Hải Châu, thành phố Đà
Nẵng để từ đó tìm ra những nguyên nhân nhằm đề ra các phương hướng, giải
pháp giúp góp phần hoàn thiện công tác này ở địa phương.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung và pháp luật về BTXH.
Nghiên cứu và đánh giá chính xác thực trạng thực hiện pháp luật về BTXH tại
quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Từ đó đưa ra những phương hướng, giải
pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về BTXH
trên địa bàn.

5


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện những mục tiêu đã đề ra, luận văn tập trung hoàn thành
những nhiệm vụ chủ yếu sau:
Hệ thống về mặt lý luận và pháp luật về các chính sách BTXH.
Phân tích, đánh giá những kết quả, những tồn tại bất cập từ việc thực

hiện các chính sách BTXH tại quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.
Đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về BTXH và nâng
cao hiệu quả thực thi pháp luật về BTXH trên địa bàn quận Hải Châu, thành
phố Đà Nẵng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là pháp luật về BTXH và thực tiễn
thực hiện pháp luật về BTXH trên địa bàn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về không gian: Nghiên cứu được thực hiện trên địa bàn quận
Hải Châu, thành phố Đà Nẵng;
Phạm vi thời gian: từ năm 2015 đến năm 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Để nghiên cứu đề tài này, trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã sử
dụng phương pháp luận dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và pháp luật của nước ta về BTXH
nhằm đảm bảo tính khoa học và tính thực tiễn của đề tài.Khi thực hiện đề tài
này, tác giả có tham khảo các công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu
luật, hành chính, kinh tế học…và một số tài liệu mang tính chất kế thừa của

6


các luận văn tốt nghiệp, các báo cáo về hoạt động BTXH của Trung ương,
tỉnh và các tổ chức khác để làm tài liệu tham khảo.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp thống kê, thu thập số liệu để phân tích,
so sánh việc thực hiện chế độ chính sách cho đối tượng BTXH qua các năm.
Đồng thời, sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp, tổng kết thực tiễn để tìm

hiểu, đối chiếu tình hình thực tế.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần phân tích và làm rõ một số vấn
đề lý luận cơ bản và pháp luật về BTXH.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn nghiên cứu đánh giá, phân tích việc
thực hiện pháp luật về BTXH thông qua những số liệu được thống kê tại địa
bàn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay, từ đó chỉ ra
được những vướng mắc, bất cập trong quá trình thực hiện pháp luật và đưa ra
những kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật về BTXH và nâng cao công
tác thực thi pháp luật về BTXH của tỉnh trong những năm tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn chia thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về bảo trợ xã hội và pháp luật về bảo trợ xã
hội ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về bảo trợ xã hội tại quận
Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo trợ xã hội.

7


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO TRỢ XÃ HỘI VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO
TRỢ XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và đặc điểm của bảo trợ xã hội
1.1.1. Khái niệm bảo trợ xã hội
Trong cuộc sống không phải lúc nào con người cũng gặp phải những
thuận lợi, may mắn mà ngược lại luôn phải bị đe doạ trước những rủi ro, biến

cố... bởi nhiều nguyên nhân khác nhau. Khi rơi vào những tình huống như
vậy, nhu cầu khắc phục khó khăn, đảm bảo cuộc sống và hòa nhập với cộng
đồng trở thành cấp thiết và mang tính nhân đạo sâu sắc.
Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của BTXH, hầu hết các
nước đều tổ chức thực hiện BTXH bằng cách xây dựng pháp luật và tổ chức
thực hiện phù hợp với các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, phong tục, tập
quán,… của mình. Theo thống kê củaTổ chức lao động quốc tế (ILO) trong
các tài liệu về an sinh xã hội, trong số 172 nước thiết lập hệ thống an sinh xã
hội thì chế độ BTXH đều được quan tâm thực hiện ngay từ đầu. BTXH được
tiếp cận với nhiều góc độ như kinh tế, đảm bảo quyền con người, tiếp cận
dưới phạm vi rộng và hẹp với sự khác biệt về nội hàm khái niệm, tiếp cận
dưới những quan điểm, phạm vi khác nhau nên cũng có những khái niệm
khác nhau đề cập.
Theo tổ chức Ngân hàng thế giới (WB): “Bảo trợ xã hội là một tập hợp
các biện pháp nhằm cải thiện và bảo vệ vốn con người, bao gồm sự can thiệp
vào thị trường lao động, chương trình bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất
nghiệp bắt buộc. Sự can thiệp của bảo vệ xã hội giúp các cá nhân, hộ gia
đình, hay cộng đồng quản lý một cách tốt hơn những rủi ro thu nhập khiến
những đối tượng này bị tổn thương”.

8


Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO) thì :“Bảo trợ xã hội là quyền tiếp
nhận lợi ích từ Chính phủ của cá nhân, hộ gia đình nhằm bảo vệ họ trước
tình trạng mức sống thấp hay đang bị suy giảm, đặc biệt khi phải hứng chịu
những rủi ro, nhờ đó đáp ứng được các nhu cầu cơ bản”[22].
Ở Việt Nam, mặc dù BTXH đã được thực hiện từ rất lâu với vai trò
quan trọng của Nhà nước nhưng cho đến nay vẫn chưa có định nghĩa chính
thức về BTXH trong các văn bản pháp luật. Theo cách hiểu thông thường thì

đó là “sự giúp đỡ cho qua khỏi cơn nguy khốn” hay “giúp cho qua khỏi cơn
nghèo ngặt”. Về ngữ nghĩa thì đa số các nhà khoa học cho rằng cụm từ này
gồm hai nhóm từ ghép là “cứu trợ xã hội” và “trợ giúp xã hội”.
Theo từ điển Tiếng Việt cụm từ “Bảo trợ” có nghĩa là giúp đỡ cho tổ
chức hoặc cá nhân có khó khăn về vật chất trong cuộc sống. Còn cụm từ “trợ
giúp” có nghĩa giúp đỡ về vật chất cho đỡ khó khăn, thiếu thốn[24]. Hai thuật
ngữ “bảo trợ xã hội” và “trợ giúp xã hội” có nghĩa gần tương đồng nhau tuy
nhiên trong các văn bản, sách báo và giáo trình hiện nay phần lớn sử dụng
thuật ngữ “trợ giúp xã hội”. Các văn bản pháp luật về BTXH hiện hành sử
dụng cụm từ “trợ giúp xã hội thường xuyên” thay cho “bảo trợ xã hội thường
xuyên” hay “cứu tế xã hội thường xuyên”.
Ngoài ra, ở Việt Nam có thể hiểu BTXH là sự giúp đỡ của Nhà nước,
xã hội và cộng đồng bằng những biện pháp và các hình thức khác nhau đối
với các đối tượng gặp phải rủi ro, bất hạnh, nghèo đói… vì nhiều nguyên
nhân dẫn đến không đủ khả năng tự lo liệu được cuộc sống tối thiểu của bản
thân và gia đình nhằm giúp họ tránh được mối đe dọa của cuộc sống thường
nhật, giúp họ vượt qua khó khăn, ổn định cuộc sống, hòa nhập cộng đồng.
Theo khái niệm này, đối tượng BTXH chính là những người gặp khó khăn,
rủi ro, biến cố, bất hạnh trong cuộc sống vì nhiều nguyên nhân khác nhau cần

9


có sự giúp đỡ. Những đối tượng được kể đến đầu tiên trong hầu hết các quy
định pháp luật BTXH các quốc gia đều là nhóm NKT, người già, cô đơn, trẻ
em mồ côi thiếu người nuôi dưỡng…
Qua nghiên cứu có thể đưa ra khái niệm BTXH như sau: “Bảo trợ xã
hội là sự giúp đỡ của Nhà nước, xã hội, cộng đồng bằng những biện pháp và
các hình thức khác nhau đối với các đối tượng bị lâm vào cảnh rủi ro, bất
hạnh, nghèo đói… vì nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến không đủ khả

năng tự lo liệu được cho cuộc sống tối thiểu của bản thân và gia đình, nhằm
giúp họ tránh được mối đe dọa của cuộc sống thường nhật hoặc giúp họ vượt
qua những khó khăn, ổn định cuộc sống và hòa nhập cộng đồng”.
Để thể chế hóa chính sách xã hội mang đậm tính nhân đạo này, tùy
thuộc vào các giai đoạn khác nhau của điều kiện kinh tế - xã hội, Nhà nước đã
ban hành các văn bản pháp luật quy định cụ thể chế độ BTXH với phạm vi
đối tượng, điều kiện hưởng, mức hưởng,… và tổ chức thực hiện. Do vậy, có
thể hiểu, dưới góc độ pháp luật, chế độ BTXH là tổng thể các quy phạm pháp
luật có quan hệ chặt chẽ với nhau, xác định quyền và nghĩa vụ của Nhà nước,
tổ chức, cá nhân trong việc hỗ trợ về vật chất và tinh thần cho các thành viên
trong xã hội khi bị lâm vào hoàn cảnh bất hạnh, rủi ro, nghèo đói,... không đủ
khả năng đảm bảo cuộc sống tối thiểu của bản thân và gia đình.
1.1.2. Đặc điểm bảo trợ xã hội
Từ những quan niệm về BTXH có thể rút ra một số đặc điểm về
BTXH sau:
- Về đối tượng tham gia
Đối tượng tham gia BTXH bao gồm Nhà nước, các đối tượng BTXH
và các chủ thể khác như tổ chức, cá nhân khác trong hoạt động chung mang
tính nhân đạo này. Trong đó:

10


Thứ nhất, đối tượng được bảo trợ
Đối tượng được bảo trợ là mọi người dân trong xã hội không phân biệt
vị thế, thành phần xã hội khi rơi vào hoàn cảnh khó khăn, rủi ro, bất hạnh
hoặc vì nhiều nguyên nhân khác nhau cần có sự giúp đỡ để tồn tại. Đó là
những thành viên có mức sống thấp hơn mức sống tối thiểu của xã hội hoặc
gặp khó khăn, rủi ro cần có sự nâng đỡ về mặt vật chất. Dưới góc độ xã hội
thì họ thuộc nhóm người “yếu thế” trong xã hội, với những nguyên nhân khác

nhau mà bị rơi vào vị thế bất lợi, thiệt thòi, có ít cơ may trong cuộc sống như
người bình thường và không có đủ khả năng tự lo liệu, đảm bảo cho cuộc
sống của gia đình và bản thân. Ngoài ra, dưới góc độ nhân đạo, đó có thể là
những đối tượng nghiện hút, mại dâm, ăn xin,…
Thứ hai, cơ quan Nhà nước
Với tư cách là một chủ thể trong quan hệ BTXH, đã xác định được
nghĩa vụ của mình và mối quan hệ hợp tác giữa các cơ quan, tổ chức, cá
nhân,… trong hoạt động BTXH. Hoạt động BTXH, ngoài trách nhiệm của Bộ
Lao động – Thương binh và Xã hội, còn là trách nhiệm của các Bộ, Ban,
Ngành khác như Bộ Y tế, Bộ Giáo dục,… và toàn thể các thành viên xã hội.
- Về nội dung BTXH
Theo quy định của pháp luật hiện hành, chế độ BTXH bao gồm hai nội
dung chính là chế độ bảo trợ thường xuyên và chế độ bảo trợ đột xuất.
Chế độ BTXH thường xuyên là sự hỗ trợ, giúp đỡ về mặt vật chất và
tinh thần mang tính lâu dài cho những người thuộc diện BTXH nhằm giúp đỡ
họ ổn định cuộc sống, hòa nhập vào cộng đồng. Tùy từng đối tượng BTXH
khác nhau mà pháp luật quy định chế độ trợ cấp cụ thể. Đối tượng hưởng chế
độ BTXH thường là những đối tượng thỏa mãn các điều kiện thuộc diện
BTXH mới được hưởng chế độ trợ cấp này, đối tượng BTXH thuộc diện trợ

11


cấp hàng tháng do xã phường, thị trấn quản lý với mức trợ cấp xã hội hàng
tháng là 270.000 đồng (hệ số 1); khi mức sống tối thiểu của người dân thay
đổi thì mức chuẩn trợ cấp xã hội cũng được điều chỉnh theo cho phù hợp.
Chế độ BTXH đột xuất là sự hỗ trợ, giúp đỡ về vật chất, tinh thần cho
những người gặp rủi ro do thiên tai và những lý do bất khả kháng khác nhằm
giúp họ vượt qua hoàn cảnh hiểm nghèo, khắc phục hậu quả rủi ro để ổn định
cuộc sống. Đối tượng được trợ giúp đột xuất (một lần) là những người, hộ gia

đình gặp khó khăn do hậu quả thiên tai hoặc lý do bất khả kháng khác gây ra;
Ủy ban nhân dân cấp xã, bệnh viện, cơ quan đơn vị đứng ra tổ chức mai táng
cho người gặp rủi ro ngoài vùng cư trú bị chết, gia đình không biết để mai
táng. Mức trợ cấp BTXH đột xuất chủ yếu là một lần đối với hộ gia đình, cá
nhân, đối với người gặp rủi ro ngoài vùng cư trú bị chết, gia đình không biết
để mai táng… tùy vào từng đối tượng mà nhà nước quy định mức trợ cấp
BTXH đột xuất cụ thể.
- Về mục đích BTXH
Mục đích của BTXH không nhằm bù đắp thu nhập thường xuyên bị
giảm hoặc mất hay đảm bảo ổn định đời sống, đền ơn đáp nghĩa những người
có công,… mà chỉ hỗ trợ, giúp đỡ cho những người lâm vào tình trạng thực sự
khó khăn, túng quẫn, cần có sự giúp đỡ vật chất mới có thể vượt qua được
hoàn cảnh hiện tại. Do đó, mức hưởng thường là thấp và linh hoạt, phụ thuộc
vào khả năng tài chính của Nhà nước, khả năng huy động nguồn lực, và tình
trạng thực tế của đối tượng,… Ngoài ra, chế độ BTXH còn được thực hiện
với các hoạt động xóa đói giảm nghèo, chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
khó khăn, tệ nạn xã hội...
1.2. Vai trò của bảo trợ xã hội
Trong mỗi quốc gia, bao giờ cũng tồn tại một bộ phận đối tượng cần

12


trợ giúp, bất kể quốc gia đó có điều kiện kinh tế phát triển đến đâu. Mục tiêu
hướng tới của mỗi quốc gia trên thế giới đều là đạt được sự tiến bộ của xã
hội. Thước đo của việc phát triển xã hội chính là việc giải quyết các vấn đề
xã hội nãy sinh trong quá trình phát triển kinh tế. Vì vậy việc thực hiện các
chế độ BTXH đối với mỗi quốc gia là vấn đề cần thiết và có ý nghĩa hết sức
quan trọng.
Dưới góc độ chính trị: BTXH thể hiện thái độ của nhà nước đối với xã

hội, là biện pháp hỗ trợ tích cực của xã hội đối với mỗi thành viên khi gặp
khó khăn và đồng thời làm giảm thiểu những bất ổn trong xã hội, góp phần
duy trì ổn định trong xã hội trong đó có ổn định chính trị. Đối với mỗi nhà
nước, sự tồn tại của bộ phận “yếu thế” và thái độ của nhà nước đối với họ
cũng là khía cạnh thể hiện bản chất của nhà nước. Và một xã hội muốn phát
triển bền vững phải đảm bảo được ổn định của chính trị, xã hội bởi vì suy cho
cùng nguyên nhân của những bất ổn xã hội cũng từ nguồn gốc của sự đói
nghèo và suy thoái về đạo đức. Đồng thời trang bị nhận thức của mỗi cá nhân
về sự đảm bảo cuộc sống khi khó khăn bằng những “lưới đỡ” BTXH khiến họ
yên tâm và tin tưởng hơn trong cuộc sống, là yếu tố tạo nên sự hòa đồng giữa
các thành viên xã hội không phân biệt giới tính, tôn giáo, địa vị... giúp những
người “yếu thế” nhận thấy mình có giá trị, có địa vị chứ không hề bị “bỏ rơi”,
đây chính là là nền tảng cơ bản thúc đẩy phát triển bền vững về kinh tế xã hội
và chính trị mỗi quốc gia[23].
Dưới góc độ kinh tế: BTXH không vì mục đích kinh doanh, lợi nhuận
nhưng lại có ý nghĩa là công cụ phân phối tiền bạc, của cải, dịch vụ có lợi cho
các thành viên phải chịu sự bất hạnh của xã hội, thu hẹp sự chênh lệch mức
sống, giảm nghèo đói. Kinh tế thị trường càng phát triển thì xu hướng phân
hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội và bất bình đẳng gia tăng vì thế vai trò của

13


BTXH càng lớn. Để tạo sự phát triển bền vững, bảo đảm sự hài hòa giữa phát
triển kinh tế với phát triển xã hội trong từng bước đi và giai đoạn phát triển
của đất nước thì Nhà nước càng phải phát triển mạnh mẽ BTXH để điều hòa
mẫu thuẫn xã hội phát sinh trong quá trình phát triển.
Dưới góc độ pháp luật: BTXH là một chế định quan trọng trong hệ
thống pháp luật về an sinh xã hội, điều chỉnh việc trợ giúp vật chất và tinh
thần cho nhóm đối tượng có vị trí bất lợi, thiệt thòi và không có khả năng lo

liệu cho cuộc sống. BTXH xuất phát từ quyền cơ bản của con người – đó là
quyền sống, được bình đẳng, được yêu thương, đùm bọc, bảo vệ.
BTXH là một trong những nội dung của pháp luật an sinh xã hội, điều
chỉnh việc trợ giúp vật chất và tinh thần cho nhóm đối tượng có vị thế bất lợi,
thiệt thòi, ít có cơ may trong cuộc sống như những người bình thường khác.
BTXH với các chế độ trợ cấp được thiết lập trên cơ sở đảm bảo quyền con
người. Mỗi con người sinh ra trong xã hội đều có quyền được sống, được
bình đẳng, được thương yêu, đùm bọc, che chắn, bảo vệ trước những biến cố
bất lợi, đặc biệt là khi sự sống bị đe dọa. Quyền này đã được ghi nhận tại
Điều 22 Tuyên ngôn nhân quyền của Liên hợp quốc ngày 10/12/1948: “mọi
người đều có quyền được hưởng một mức sống đủ đảm bảo sức khỏe và nhu
yếu của mình cùng gia đình, nhất là về ăn uống, nhà ở, thuốc men…”[10].
Tùy từng điều kiện kinh tế xã hội và những đặc thù riêng mà mỗi quốc gia
đều luật hóa nội dung này ở những mức độ khác nhau để tổ chức thực hiện.
Cũng từ đó, phải nhận thức rằng, BTXH không phải là sự ban ơn, chiếu cố
đối với những thân phận thấp hèn, cùng cực vì những hạn chế, rủi ro về sức
khỏe mà là quyền của mỗi thành viên xã hội và là trách nhiệm, nghĩa vụ của
cả cộng đồng.

14


1.3. Pháp luật về bảo trợ xã hội ở Việt Nam hiện nay
1.3.1. Khái niệm pháp luật về bảo trợ xã hội
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung, do
cơ quan nhà nước hoặc cá nhân có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các
quan hệ xã hội. Hệ thống các quy phạm này tạo khuôn khổ cho hoạt động xã
hội, chứa đựng các quy tắc cấm đoán hoặc bắt buộc chung và tác động, điều
chỉnh tới các quan hệ xã hội. Vì vậy, hoạt động thực hiện pháp luật không chỉ
là sự quan tâm của nhà nước mà còn là của mỗi cá nhân bởi kết quả của quá

trình đó tác động mạnh mẽ tới mọi mặt của đời sống xã hội và BTXH cũng là
một trong những quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh. Công tác xây
dựng văn bản quy phạm pháp luật về BTXH được Đảng và Nhà nước hết sức
quan tâm[15]. Tiêu biểu như Luật Việc làm năm 2013; Luật giáo dục nghề
nghiệp năm 2014; Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Nghị
định số 103/2017/NĐ-CP ngày 12/9/2017 của Chính phủ quy định về thành
lập, tổ chức, hoạt động, giải thể và quản lý các cơ sở trợ giúp xã hội; Nghị
định số 97/2017/NĐ-CP ngày 18/8/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19 tháng 7 năm 2013 của
Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật xử lý vi
phạm hành chính. Luật trẻ em 2016 có hiệu lực từ ngày 01/6/2016 có nhiều
quy định mới về quyền và nghĩa vụ của đối tượng so với luật cũ như như: cấm
bạo lực đối với trẻ em; quyền của trẻ em được bày tỏ ý kiến, nguyện vọng và
tham gia vào các vấn đề trẻ em; trách nhiệm cung cấp thông tin về trẻ em bị
xâm hại hoặc trẻ em có nguy cơ bị bạo lực, bóc lột.
Bên cạnh đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 144/2013/NĐ-CP
ngày 29/10/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính về bảo trợ, cứu trợ xã
hội và bảo vệ chăm sóc trẻ em. Nghị định được ban hành đã tạo hành lang

15


pháp lý tương đối đầy đủ cho việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
bảo trợ, cứu trợ xã hội; góp phần tuyên truyền sâu rộng đến các đối tượng
BTXH, NKT, và toàn thể nhân dân nói chung ý thức được quyền lợi và nghĩa
vụ của mình, hạn chế tối đa vi phạm hành chính; tạo sự chuyển biến về ý thức
chấp hành pháp luật của tổ chức, cá nhân; góp phần hạn chế các hành vi vi
phạm pháp luật.
Nhìn chung, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đã cơ bản đảm bảo
cơ sở pháp lý cho chính sách BTXH, đáp ứng được đòi hỏi tình hình thực tiễn

trong quá trình triển khai chính sách. Việc xác định đối tượng, chế độ, chính
sách, nguồn lực, cơ chế tổ chức, bộ máy triển khai thực hiện chính sách đã
được quy định cụ thể, thủ tục và chi phí hành chính từng bước được cắt
giảm, tạo điều kiện thuận lợi cho cơ sở cũng như đối tượng tiếp cận chính
sách nhà nước
Như vậy, có thể thấy rằng pháp luật về BTXH là tổng thể các quy phạm
pháp luật do nhà nước ban hành quy định các đối tượng, điều kiện, chế độ trợ
cấp cụ thể và trách nhiệm của nhà nước cộng đồng trong việc góp phần đảm
bảo và ổn định cuộc sống cho các thành viên trong xã hội gặp rủi ro, khó
khăn, bất hạnh.
1.3.2. Đối tượng và điều kiện bảo trợ xã hội
Trong mỗi quốc gia, bao giờ cũng tồn tại một bộ phận đối tượng cần
trợ giúp, bất kể quốc gia đó có điều kiện kinh tế phát triển đến đâu. Đối tượng
có nhu cầu trợ giúp ở Việt Nam là rất lớn, hoàn cảnh khó khăn của các đối
tượng cũng khác nhau và sự hỗ trợ của Nhà nước, cộng đồng cũng chỉ trong
chừng mực nhất định.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ
trương, chính sách chăm lo đời sống các đối tượng BTXH, góp phần ổn định

16


chính trị và phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XI xác định: “Tạo bước tiến rõ rệt về thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm tỉ lệ hộ nghèo; cải thiện điều
kiện chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân”[16]. Đến nay, nhiều văn bản quy
phạm pháp luật liên quan đến việc trợ giúp, chăm sóc, nuôi dưỡng đối tượng
BTXH được xây dựng, ban hành. Đây là những cơ sở pháp lý giúp cho hệ
thống cơ sở trợ giúp xã hội đã phát huy hiệu quả vai trò của mình trong việc
tiếp nhận, quản lý, chăm sóc, nuôi dưỡng các đối tượng BTXH.

Đối tượng và điều kiện của BTXH là những cá nhân, hộ gia đình có
hoàn cảnh khó khăn, cần có sự hỗ trợ, trợ giúp nhằm giảm nhẹ tính dễ bị tổn
thương và kiềm chế nguy cơ “bần cùng hóa”. Mỗi đối tượng sẽ có chế độ bảo
trợ khác nhau, được quy định cụ thể tại Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày
21/10/2013 của Chính phủ quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối
tượng BTXH.
Từ những quy định của pháp luật, tác giả phân loại nhóm các đối tượng
BTXH theo 05 nhóm sau:
Thứ nhất, trẻ em dưới 16 tuổi không có nguồn nuôi dưỡng thuộc một
trong các trường hợp sau đây: Bị bỏ rơi chưa có người nhận làm con nuôi; mồ
côi cả cha lẫn mẹ; mồ côi cha hoặc mẹ và người còn lại mất tích theo quy
định của pháp luật hoặc người còn lại đang hưởng chế độ chăm sóc, nuôi
dưỡng tại cơ sở BTXH, nhà xã hội....
Thứ hai, NCT thuộc hộ nghèo không có người có nghĩa vụ và quyền
phụng dưỡng hoặc có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng nhưng
người này đang hưởng chế độ trợ cấp xã hội hàng tháng; Người từ đủ 80
tuổi trở lên không thuộc diện quy định tại Điểm a, Khoản 5, Điều 5, Nghị
định 136/NĐ-CP ngày 21/10/2013 mà không có lương hưu, trợ cấp BHXH

17


hàng tháng, trợ cấp xã hội hàng tháng; NCT thuộc hộ nghèo không có người
có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng, không có điều kiện sống ở cộng đồng,
đủ điều kiện tiếp nhận vào cơ sở BTXH, nhà xã hội nhưng có người nhận
chăm sóc tại cộng đồng.
Thứ ba, người khuyết tật: Trẻ em khuyết tật, NKT thuộc diện hưởng trợ
cấp xã hội theo quy định của pháp luật về NKT.
Thứ tư, người đơn thân thuộc diện hộ nghèo không có chồng hoặc
không có vợ; có chồng hoặc vợ đã chết; có chồng hoặc vợ mất tích theo quy

định của pháp luật và đang nuôi con nhỏ dưới 16 tuổi; hoặc đang nuôi con từ
16 tuổi đến 22 tuổi nhưng người đó đang học phổ thông, học nghề, trung học
chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học văn bằng thứ nhất.
Thứ năm, nhóm bị nhiễm HIV: Trẻ em bị nhiễm HIV thuộc hộ nghèo,
người bị nhiễm HIV thuộc hộ nghèo không có khả năng lao động mà không
có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng, trợ cấp ưu đãi người có
công hàng tháng, trợ cấp hàng tháng khác.
Bên cạnh đó, đối tượng cần bảo vệ khẩn cấp bao gồm: Nạn nhân của
bạo lực gia đình; nạn nhân bị xâm hại tình dục; nạn nhân bị buôn bán; nạn
nhân bị cưỡng bức lao động;Trẻ em, người lang thang xin ăn trong thời gian
chờ đưa về nơi cư trú; Đối tượng cần bảo vệ khẩn cấp khác theo quyết định
của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
1.3.3. Khái niệm, đặc điểm thực hiện pháp luật về bảo trợ xã hội
Thực hiện pháp luật là nội dung rất quan trọng trong đời sống xã hội,
có thể khẳng định thực hiện pháp luật là giai đoạn thứ hai sau khi đã thực
hiện giai đoạn đầu tiên là xây dựng pháp luật. Thực hiện pháp luật là giai
đoạn không thể thiếu bởi pháp luật chỉ có thể thực sự phát huy được hiệu
quả, vai trò của mình trong việc điều chỉnh các quan hệ pháp luật, nhằm duy

18


trình trật tự xã hội và tạo hành lang cho toàn xã hội phát triển theo định
hướng của Nhà nước.
Hiện nay có nhiều nghiên cứu đưa ra các khái niệm khác nhau về thực
hiện pháp luật, tuy nhiên tác giả thống nhất với quan điểm của Giáo trình Lý
luận Nhà nước và pháp luật của Đại học Luật Hà Nội, theo đó “thực hiện
pháp luật là hoạt động có mục đích nhằm hiện thực hoá các quy định của
pháp luật, làm cho chúng đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế
hợp pháp của các chủ thể pháp luật”. Từ đó, có thể hiểu thực hiện pháp luật

về BTXH là việc các chủ thể thực hiện các hành vi có mục đích nhằm hiện
thực hoá các quy định của pháp luật về BTXH.
Trên cơ sở tính chất của hạt động thực hiện pháp luật, thực hiện pháp
luật về BTXH có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, thực hiện pháp luật về BTXHthông hành vi của chủ thể.
Hành vi của mỗi chủ thể được hình thành trên cơ sở nhận thức và được biểu
hiện ra bên ngoài dưới dạng hành động hoặc không hành động. Phải có hành
vi cụ thể thì mới có cơ sở để áp dụng chế độ trách nhiệm pháp lý của từng
chủ thể.
Thứ hai, thực hiện pháp luật phải bảo đảm các yêu cầu mà pháp luật về
BTXH đưa ra. Thực hiện pháp luật chính là thực hiện theo các quyền và nghĩa
vụ mà pháp luật BTXH quy định cho mỗi chủ thể, vì vậy mà khi thực hiện
pháp luật thì các chủ thể phải tuân thủ, chấp hành theo các quy định mà hệ
thống pháp luật về BTXH đã đề ra.
Thứ ba, quá trình thực hiện pháp luật về BTXH được đảm bảo thực
hiện bằng quyền lực Nhà nước. Pháp luật là công cụ để Nhà nước quản lý và
điều hành mọi mặt của đời sống xã hội, vì vậy cần có một cơ chế đảm bảo để
các chủ thể trong xã hội nghiêm túc thực hiện, đảm bảo môi trường thực thi

19


×