Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGÀNH GIÁO DỤC ĐÀO TẠO VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.21 KB, 29 trang )

THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGÀNH GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
VIỆT NAM
1.1. TỔNG QUAN VỀ NGÀNH GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO VIỆT NAM
Hệ thống giáo dục của nước ta đang trong giai đoạn phát triển về chất và lượng,
quy mô đào tạo tăng nhanh, từng bước đáp ứng nhu cầu học tập và đào tạo của xã hội.
Tuy nhiên, hệ thống giáo dục hiện nay vẫn chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội, chưa thực sự gắn với nhu cầu sử dụng nguồn nhân lực có trình độ cao của các
ngành, địa phương và cả nước. Chính vì vậy, vấn đề đảm bảo và nâng cao chất lượng
giáo dục đang được các cấp, các ngành và xã hội đặc biệt quan tâm. Mâu thuẫn giữa
nguồn lực và chất lượng là căn bệnh được chỉ ra của hệ thống này, nhưng tìm ra phương
thuốc đặc trị cho nó lại không dễ. Dưới đây là một số thành tựu và một số hạn chế về
giáo dục – đào tạo Việt Nam.
1.1.1. Những thành tựu đạt được:
1.1.1.1. Về quy mô:
Cho đến nay, hệ thống giáo dục mới ở Việt Nam từ mầm non đến đại học về cơ
bản được xác lập, mạng lưới trường học phát triển rộng khắp từ nông thôn đến thành
thị, từ miền ngược đến miền xuôi; đã xây dựng được hệ thống các trường dân tộc nội
trú với điều kiện tương đối tốt để đào tạo con em các dân tọc ít người. Hệ thống các
trường ngoài công lập được hình thành đã góp phần đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng
cao của nhân dân.
Số học sinh và sinh viên cúng tăng đáng kể trong giai đoạn 2003 - 2008, ta có bảng
sau:
Bảng 1: Số học sinh và sinh viên trong giai đoạn 2003 - 2008:
Đơn vị: nghìn người
2003-2004 2004-2005 2005-2006 2006-2007 2007-2008
1. Giáo dục tiểu học 8346,0 7744,8 7304,0 7029,4 6860,3
2. Giáo dục THCS 6569,8 6616,7 6371,3 6152,0 5803,3
3. Giáo dục THPT 2589,6 2761,1 2975,3 3075,2 3021,6
4. Gióa dục ĐH-CĐ 1131,0 1319,8 1387,1 1666,2 1928,4
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Số lượng học sinh và sinh viên ngày càng tăng nhanh. Đặc biệt là số lượng sinh


viên trong các trường ĐH và CĐ đã tăng đáng kể, từ 1131 nghìn sinh viên trong năm
học 2003 – 2004 đã tăng lên đến 1928,4 nghìn sinh viên vào năm học 2007 – 2008.
Điều này chứng tỏ người dân ngày càng quan tâm đến việc học tập và nâng cao trình độ
học vấn cho bản thân.
Trải qua nhiều thăng trầm với nhiều khó khăn, mạng lưới giáo dục - đào tạo được
duy trì và tiếp tục phát triển trên toàn quốc. Số trường học tăng rất nhanh ở các bậc học,
cụ thể là: ở giáo dục mầm non số trường học tăng từ 9975 vào năm 2003 lên đến 11.696
trường vào năm 2008; giáo dục phổ thông thì số trường học tăng từ 26.352 trường vào
năm 2003 lên đến 27.898 vào năm 2008. Hiện nay cả nước đã có khoảng 345 trường
ĐH và CĐ, trong đó có 288 trường công lập và 57 trường ngoài công lập. Sự phát triển
về quy mô đào tạo ở các trường học trong những năm qua đã góp phần đáp ứng nhu cầu
học tập của nhân dân và cung ứng nhân lực cho nền kinh tế, góp phần nâng cao tỷ lệ lao
động được qua đào tạo xấp xỉ 30% vào năm 2007.
Việc mở rộng quy mô, đa dạng hóa loại hình nhà trường (bán công, dân lập, tư
thục) và phát triển các hình thức giáo dục không chính quy đã tạo thêm cơ hội học tập
cho nhân dân, trước hết là thanh thiếu niên, góp phần thúc đẩy sự phát triển hệ thống
giáo dục quốc dân và bước đầu hình thành xã hội học tập
Giáo dục ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa phát triển mạnh
và có tiến bộ rõ rệt. Mạng lưới trường, lớp về cơ bản đã bảo đảm cho con em các dân
tộc được học tập ngay tại xã, thôn, bản. Việc củng cố, phát triển các trường phổ thông
dân tộc nội trú và tăng chỉ tiêu cử tuyển đã tạo thêm điều kiện cho con em các dân tộc
thiểu số ở địa bàn kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được đào tạo ở ĐH, CĐ, tạo nguồn
cán bộ cho các vùng này. Đã thí điểm và chuẩn bị ban hành chính sách học nghề nội trú
cho thanh niên, thiếu niên con em đồng bào dân tộc. Tiếng nói và chữ viết của 8 dân tộc
thiểu số đã được đưa vào giảng dạy ở trường tiểu học; trong đó tiếng Hoa và tiếng
Khơmer được dạy cả ở trường THCS.
Tuy nhiên thực tế phát triển quy mô của bậc học này lại không theo chủ quan của
quy hoạch đào tạo. Hiện nay các cơ quan quản lý vẫn đang loay hoay tìm ra hướng khắc
phục những bất hợp lý về quy mô học sinh, đó là việc phân bố ngành học, các nhà
trường không đồng đều, phần lớn các trường tập trung ở vùng Đồng bằng sông Hồng

(31%) và miền Đông nam bộ (24%), là những vùng kinh tế - xã hội phát triển. Trong
khi đó các vùng như Tây Bắc chỉ chiếm (3%), Tây Nguyên (4%), Nam Trung bộ (5%) -
đây đều là những vùng mà giáo dục rất cần được phát triển vì những kỹ năng nghề
nghiệp được đào tạo một cách căn bản là nhân tố tích cực để xoá đói, giảm nghèo ở
những vùng đất này.
Chính phủ đã có nhiều chính sách và biện pháp tăng đầu tư cho các vùng khó
khăn như chương trình 135, chương trình kiên cố hóa trường, lớp học v.v. Nhờ vậy, cơ
sở vật chất của giáo dục ở vùng khó khăn tiếp tục được củng cố, tăng cường. Việc
miễn, giảm học phí, cấp học bổng và các chính sách hỗ trợ khác đã tạo điều kiện cho
đại bộ phận con em các gia đình nghèo, diện chính sách được học tập, trước hết ở các
cấp học phổ cập.
Cơ sở vật chất, thiết bị dạy học ở các cấp, bậc học, ở mọi vùng miền đã được cải
thiện đáng kể trong 5-6 năm qua, nhất là từ khi thực hiện chủ trương đổi mới chương
trình giáo dục phổ thông và kiên cố hoá trường, lớp học. Một số địa phương, một số
trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề đã nỗ lực để từng bước
hiện đại hoá cơ sở vật chất, thiết bị dạy học.
1.1.1.2. Về chất lượng:
Chất lượng giáo dục nước ta trong những năm đổi mới đang từng bước được cải
thiện. Số lượng các trường được phổ cập giáo dục ngày càng tăng và chất lượng cũng
được tốt hơn. Lực lượng lao động được đào tạo đã và đang góp phần quan trọng vào sự
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tất cả học sinh, sinh viên được giáo dục toàn
diện từng mặt về trí, đức, thể, mỹ, kỹ năng nghề nghiệp. Phần lớn, trong các cuộc thi trí
tuệ của khu vực cũng như trên toàng thế giới, học sinh Việt Nam luôn đạt các giải cao
mang vinh quang vê cho tổ quốc.
Nội dung giảng dạy và kiến thức của học sinh phổ thông có tiến bộ, toàn diện
hơn và tiếp cận dần với phương pháp học tập mới. Trong giáo dục nghề nghiệp, chất
lượng đào tạo của một số ngành nghề như y dược, nông nghiệp, cơ khí, xây dựng, giao
thông vận tải, v.v. về cơ bản đã đáp ứng yêu cầu của thực tế sản xuất và đời sống hiện
nay. Đặc biệt, sự tiến bộ về nhận thức chính trị và trách nhiệm xã hội của học sinh, sinh
viên cùng với đội ngũ giáo viên, giảng viên đã góp phần vào việc bảo đảm ổn định

chính trị của đất nước trong điều kiện có nhiều biến động của tình hình quốc tế và âm
mưu, hành động của các thế lực thù địch đối với nước ta thời gian vừa qua.
1.1.1.3. Nguyên nhân đạt được những thành tựu đó:
- Truyền thống hiếu học của dân tộc đã tiếp tục được phát huy mạnh mẽ, thể hiện
trong từng gia đình, từng dòng họ, từng cộng đồng dân cư. Nhân dân đã không tiếc
công sức, tiền của đầu tư và khuyến khích động viên con em vượt khó khăn, chăm chỉ
học tập; hỗ trợ và tạo điều kiện cho các nhà trường thực hiện dạy tốt, học tốt.
- Sự lãnh đạo của Đảng, của Quốc hội, sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ và
chính quyền các cấp; sự quan tâm, tham gia đóng góp của các tổ chức, đoàn thể và toàn
xã hội đối với giáo dục. Trong khoảng 10 năm, BCH Trung ương đã dành 3 hội nghị
chuyên đề bàn về giáo dục. Quốc hội đã thông qua Luật Giáo dục và quyết định nhiều
chủ trương lớn về phát triển giáo dục. Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
các chính sách và trực tiếp chỉ đạo ngành giáo dục triển khai thực hiện các chủ trương
của Đảng và Quốc hội. Các địa phương đã quan tâm chỉ đạo và đầu tư để tăng cường cơ
sở vật chất và giải quyết chế độ cho giáo viên. Toàn xã hội không chỉ đóng góp tiền của,
công sức, mà cả về trí tuệ cho việc xây dựng và phát triển giáo dục, tham gia trực tiếp
vào các hoạt động giáo dục.
- Lòng yêu nước, yêu người, yêu nghề và những nỗ lực của đội ngũ nhà giáo. Đội
ngũ này không chỉ truyền đạt các kiến thức chuyên môn, mà còn thực hiện nhiệm vụ
giáo dục đạo đức, lý tưởng cho học sinh, sinh viên; giải thích các chủ trương, đường lối
của Đảng và Nhà nước trong nhân dân, trong xã hội. Những giáo viên công tác ở các
vùng núi, vùng sâu, vùng xa đã vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đóng góp to lớn vào
sự nghiệp trồng người.
1.1.2. Những tồn tại:
1.1.2.1. Về quy mô:
Cơ sở vật chất, dụng cụ dùng cho giảng dạy chưa đáp ứng nhu cầu học tập và
giảng dạy ngày càng cao của giáo viên và học sinh, sinh viên trong cả nước. Quy mô
giáo dục đại học, cao học và trung học chuyên nghiệp còn quá ít, chưa đáp ứng nhu cầu
học tập ngày càng cao của xã hội. Giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng khó
khăn đang có dấu hiệu giảm sút cả về quy mô và chất lượng.

1.1.2.2. Về chất lượng:
Theo đánh giá của các chuyên gia thì chất lượng giáo dục nnước ta vẫn còn yếu
kém và bất cập. Lối học vẫn còn nặng về truyền đạt kiến thức để đối phó với các kỳ thi,
chưa chú trọng đến việc xây dựng tư duy sáng tạo. Trình độ ngoại ngữ, tin học vẫn còn
rất yếu, kỹ năng nghề nghiệp vẫn còn hạn chê nhiều. Và điều đặc biệt là chưa chú trọng
đến việc giáo dục nhân cách đạo đức, lối sống, động cơ học tập cho học sinh và sinh
viên.
Chất lượng giáo viên chưa đáp ứng nhu cầu phát triển của ngành giáo dục – đào
tạo trong thời kỳ mới. Bên cạnh đó, đời sống giáo viên còn gặp rất nhiều khó khăn,
truyền thống tôn sư trọng đạo tốt đẹp ngàn đời nay của dân tộc bị suy giảm. Thêm vào
đó là hệ thống các trường sư phạm còn yếu, chất lượng thấp, không thu hút được người
tài. Đội ngũ giáo viên trong các trường dạy học tăng mạnh về quy mô và chất lượng
trong giai đoạn 2003 – 2008, từ 755,4 nghìn người vào năm 2003 lên đến 800,6 vào
năm 2008. Mặc dù số lượng giáo viên dạy học tăng nhanh như vậy nhưng vẫn thiếu và
yếu so với yêu cầu. Những hạn chế về chất lượng của giáo viên vẫn là năng lực chuyên
môn, năng lực thực hành còn yếu, kiến thức và kỹ năng sư phạm còn bộc lộ nhiều hạn
chế mặc dù phần đông đã được đào tạo qua các trường ĐH và CĐ. Nhiều giáo viên
chưa tiếp cận được phương pháp giảng dạy hiệu quả. Kỹ năng chuẩn bị bài giảng, giảng
bài, kiểm tra đánh giá, kỹ năng quản lý lớp học, tâm lý học người lớn, phương pháp
nghiên cứu, tổ chức quản lý xưởng thực hành thực tập, sử dụng phương tiện dạy học,
khả năng ngoại ngữ và tin học ...
Tình trạng dạy thêm, học thêm tràn lan tồn tại từ nhiều năm nay, có những biểu
hiện tiêu cực nhưng chưa tìm được giải pháp cơ bản để ngăn chặn có hiệu quả.
Tệ nạn sử dụng văn bằng, chứng chỉ không hợp pháp; hiện tượng “học giả, bằng
thật”, không trung thực trong học tập và thi cử, sao chép luận văn, luận án có xu hướng
lan rộng, ảnh hưởng xấu đến chất lượng đào tạo, đến đạo đức của thế hệ trẻ và lòng tin
của xã hội. Bệnh thành tích đã tác động đến quá trình giảng dạy, học tập, đánh giá học
sinh, cũng như công tác quản lý giáo dục, và đây là một trong những nguyên nhân làm
cho việc đánh giá tình hình giáo dục, nhất là về chất lượng, chưa phản ánh hết thực
chất.

Bên cạnh đó ngành giáo dục còn có những hạn chế sau:
+ Cơ cấu giáo dục bất hợp lý.
+ Quảm lý giáo dục chậm chuyển biến, phân công, phân cấp trách nhiệm, quyền
hạn giữa các ngành các cấp chưa hợp lý.
+ Sử dụng và quản lý các nguồn đầu tư cho giáo dục kém hiệu quả, chưa thực sự
tập trung vào những hướng ưu tiên.
+ Cán bộ quản lý các cấp thiếu về số lượng và yếu về chất lượng, ít được đào tạo,
bồi dưỡng.
1.1.2.3. Nguyên nhân:
(*) Tư duy giáo dục chậm được đổi mới, chưa theo kịp yêu cầu phát triển của đất
nước cũng như đòi hỏi của sự chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế-xã hội và hội nhập
quốc tế.
- Các bộ, ngành, các cấp chính quyền địa phương chưa quán triệt sâu sắc các quan
điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục, chưa cụ thể hóa kịp thời và
đầy đủ trong việc hoạch định một số chính sách và tổ chức thực hiện các hoạt động giáo
dục.
- Chưa nhận thức đầy đủ để có giải pháp đối với các vấn đề mới nảy sinh trong
mối quan hệ giữa kế hoạch phát triển giáo dục và thị trường lao động; giữa mở rộng
quy mô và nâng cao chất lượng, hiệu quả; giữa đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng cao
của nhân dân và khả năng hạn hẹp của nền kinh tế; giữa đầu tư của Nhà nước và đóng
góp của nhân dân; giữa tình trạng phân hóa giàu nghèo và yêu cầu bảo đảm công bằng
xã hội trong giáo dục.
- Chưa nhận thức đầy đủ về vai trò của công tác dự báo và nghiên cứu khoa học
giáo dục.
(*) Quản lý về giáo dục còn yếu kém và bất cập:
- Cơ chế quản lý giáo dục chưa tương thích với nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN và nhu cầu phát triển nguồn nhân lực của đất nước. Quản lý nhà nước về
giáo dục còn nặng tính quan liêu, chưa thoát khỏi tình trạng ôm đồm, sự vụ. Công tác
xây dựng quy hoạch, kế hoạch còn nhiều bất cập.
- Hệ thống luật pháp và các chính sách về giáo dục chưa hoàn chỉnh, thiếu hiệu

lực. Còn thiếu các đạo luật cụ thể về điều kiện phát triển và bảo đảm chất lượng như
Luật Giáo viên; về các bộ phận của hệ thống giáo dục quốc dân như Luật Giáo dục đại
học, Luật Giáo dục nghề nghiệp v.v. Một số quy định về đầu tư, quản lý nhân sự, đất
đai, tài chính v.v. chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho việc thống nhất quản lý và
phát triển giáo dục. Đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước còn dàn trải, không đủ bảo
đảm nhu cầu phát triển giáo dục, trong khi đó chưa có chính sách đủ mạnh để huy động
các nguồn đầu tư khác trong xã hội. Chính sách về học phí có nhiều điểm không còn
phù hợp, nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung, dẫn đến tình trạng địa phương và nhà
trường đặt ra quá nhiều khoản thu, gây bức xúc trong xã hội. Chính sách tuyển dụng, sử
dụng cán bộ thiên về bằng cấp, chưa chú ý đúng mức đến năng lực thực tế dẫn đến tình
trạng “học giả, bằng thật” và một số hiện tượng tiêu cực khác.
- Công tác chỉ đạo, điều hành còn nhiều yếu kém, bất cập, chậm đưa ra những
quyết sách đồng bộ ở tầm vĩ mô. Việc phân công, phân cấp và cơ chế phối hợp giữa Bộ
GD&ĐT, Bộ LĐ-TB&XH với các bộ, ngành, địa phương chậm được thể chế hoá. Các
cấp chính quyền ở nhiều địa phương vẫn còn thiếu chủ động trong việc thực hiện các
chủ trương và giải quyết các vấn đề cụ thể về giáo dục; chưa quan tâm đầy đủ đến việc
khắc phục bệnh thành tích và các tiêu cực trong giáo dục. Quản lý của ngành giáo dục
và của địa phương đối với các cơ sở ngoài công lập còn lúng túng, một mặt chưa tạo
điều kiện thuận lợi để các trường này phát triển, mặt khác, chưa ngăn chặn kịp thời tình
trạng lợi dụng chính sách xã hội hoá nhằm thu lợi bất chính. Công tác kiểm tra, thanh
tra giáo dục, đặc biệt là thanh tra chuyên môn còn bất cập, kém hiệu quả. Trình độ và
năng lực của một bộ phận cán bộ quản lý giáo dục còn thấp, chưa theo kịp yêu cầu đổi
mới mạnh mẽ sự nghiệp giáo dục.
(*) Hệ thống đội ngũ giáo viên chưa đáp ứng được nhu cầu về quy mô cũng như
chất lượng:
Có thể nhận thấy những nguyên nhân dẫn tới sự thiếu hụt, bất cập về đội ngũ giáo
viên là do nhiều trường dạy học không có chỉ tiêu biên chế hoặc không tuyển được do
nhiều nguyên nhân do đồng lương trả còn thấp, điều kiện làm việc chưa hấp dẫn. Thêm
nữa giáo viên các trường ngoài công lập thường có độ tuổi cao hơn (không ít giáo viên
đã ở tuổi nghỉ chế độ) và có nhiều giáo viên hợp đồng từ các trường dạy học phổ thông

hoặc từ các trường cao đẳng, đại học. Độ tuổi trung bình của giáo viên vào khoảng xấp
xỉ 40 tuổi nên cũng hạn chế khả năng nâng cao trình độ của bản thân. Nhiều giáo viên
với khả năng sử dụng ngoại ngữ và máy tính phục vụ công tác chuyên môn còn yếu đã
cản trở việc cập nhật tri thức mới về chuyên môn và phương pháp giảng dạy. Cho dù về
cơ bản hiện nay những giáo viên này tham gia tích cực đảm bảo được việc dạy và học
trong hệ thống. Tuy nhiên kết quả đạt được ở đây cũng chưa tương xứng với mong
muốn. Những khiếm khuyết đã nêu đang ảnh hưởng lớn đến chất lượng đào tạo trong
các nhà trường.
(*) Bên cạnh các nguyên nhân chủ yếu đã nêu ở trên cần kể đến những tác động
khách quan làm tăng thêm các yếu kém, bất cập của giáo dục:
- Nhu cầu học tập của nhân dân ngày càng cao, trong khi khả năng đáp ứng của
ngành giáo dục và trình độ phát triển kinh tế của đất nước còn hạn chế. Mức đầu tư cho
giáo dục tính trung bình cho 1 người dân còn thấp so với yêu cầu bảo đảm chất lượng
và so với các nước: ở Trung Quốc là 105 USD, ở Thái Lan là 350 USD, ở Malaixia là
720 USD trong khi đó ở Việt Nam là 53 USD.
- Sức đón nhận của thị trường lao động còn hạn chế, chưa thỏa mãn nhu cầu việc
làm của người lao động đã qua đào tạo.
- Tâm lý khoa cử, bằng cấp vẫn chi phối nặng nề việc dạy, học và thi cử. Thái độ
chưa coi trọng các trường ngoài công lập làm hạn chế việc đẩy mạnh xã hội hóa giáo
dục.
1.2. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGÀNH GIÁO DỤC – ĐÀO
TẠO VIỆT NAM.
1.2.1. Sự cần thiết phải đầu tư phát triển ngành giáo dục – đào tạo:
Ngành giáo dục – đào tạo muốn phát triển được và đáp ứng yêu cầu của thời kỳ
mới, nhất thiết phải được đầu tư cả về sức ngời lẫn sức của. Có thể hiểu đầu tư cho giáo
dục – đào tạo là hành động bỏ tiền ra để tiến hành hoạt động nhằm tạo tài sản mới cho
nền kinh tế nói chung và cho ngành giáo dục – đào tạo nói riêng. Giáo dục – đào tạo
vừa gắn với yêu cầu phát triển chung của đâts nước, vừa phù hợp với xu thế phát triển
của thời đại. Phát triển giáo dục chính là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài, đào tạo cong người có văn hoá, khoa học, có kỹ năng nghề nghiệp, lao động tự

chủ, sáng tạo.
Phát triển nguồn nhân lực bao gồm cả về số lượng và chất lượng dân số, nhưng
hiện nay chất lượng giáo dục là trọng tâm của phát triển nguồn nhân lực nhất là đối với
các nước đang phát triển, đông dân số và chất lượng nguồn nhân lực thấp như Việt
Nam. Thực tế cho thấy, lợi ích thu được từ việc đào tạo nguồn nhân lực mà cụ thể là
thông qua giáo dục – đào tạo rất lớn. Trình độ nguồn nhân lực trung bình ở một nước
cao hơn cho phép tăng trưởng kinh tế tố hơn và điều chỉnh tốt hơn đối với các vấn đề
dân số, kế hoạch hoá gia đình, môi trường và nhiều vấn đề khác.
1.2.2. Xu hướng đầu tư phát triển ngành giáo dục – đào tạo:
1.2.2.1. Sự thay đổi về quan niệm giáo dục – đào tạo:
Nền văn hóa Á Đông là một nền văn hóa chịu ảnh hưởng sâu sắc của hệ tư tưởng
phong kiến, Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó. Thời phong kiến, Việt Nam
tiếp thu phương thức giáo dục của Trung Quốc. Nền giáo dục đó đã tạo nên một tầng
lớp quan lại phục vụ xã hội phong kiến. Tuy nhiên nền giáo dục đó chỉ phù hợp với chế
độ phong kiến, lấy kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp làm cơ sở.
Thực dân Pháp sang thống trị, đã cải biến nền kinh tế phong kiến thành nền kinh
tế thuộc địa nửa phong kiến. Một số bộ phận sĩ phu đã truyền bá chữ quốc ngữ. Và sau
khi nhà nước giành độc lập, chúng ta đã có một nền giáo dục dân chủ nhân dân. Những
thành công và đóng góp của nền giáo dục trong phát triển kinh tế - xã hội là không thể
phủ nhận được.
Xác định được tính cấp thiết cần phải đổi mới quan niệm trong giáo dục – đào
tạo, đại hội IX của Đảng đã xác định: “Mọi người được học, học thường xuyên, học
suốt đời, cả nước trở thành một xã hội học tập”. Xã hội học tập là mục tiêu của nền giáo
dục mới và xã hội hóa giáo dục là một phương tiện mạnh mẽ để thực hiện xã hội hóa
học tập.
Bên cạnh đó, có nhiều quan niệm mới coi giáo dục là một ngành dịch vụ với sản
phẩm tri thức, có cầu và có cung đã và đang hình thành trên phạm vi toàn thế giới.
Ngành dich vụ giáo dục – đào tạo xét trên một phương diện nào đó, thì nó đang dần dần
vận hành theo cơ chế thị trường và ở đây đầu tư vào giáo dục có vai trò quyết định sức
cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ này.

1.2.2.2. Xu hướng dầu tư phát triển ngành giáo dục – đào tạo:
Xu hướng đầu tư phát triển ngành giáo dục – đào tạo ở Việt Nam đang đi dần
vào quỹ đạo chung của thế giới, bên cạnh đó dựa vào những điều kiện thực tiễn của
Việt Nam để có bước phát triển thích hợp.
Xu hướng đầu tư phát triển ngành giáo dục – đào tạo ở Việt Nam đang được
triển khai với các mục tiêu cụ thể sau:
- Nâng tỷ lệ lao động đã qua đào tạo ở các trình độ vào năm 2010 đạt 40%, trong
đó từ cao đẳng trở lên 6%, trung học chuyên nghiệp 8%, công nhân kỹ thuật 26%. Thực
hiện phổ cập trung học cơ sở trong cả nước:
+ Giáo dục mầm non: đến năm 2010 hầu hết trẻ em đều được chăm sóc, giáo dục bằng
những hình thức thích hợp. Tăng tỷ lệ trẻ dưới 3 tuổi đến nhà trẻ từ 12% năm 2000 lên
15% năm 2005 và 18% năm 2010. Đối với trẻ 3-5 tuổi tăng tỷ lệ đến trường, lớp mẫu
giáo từ 50% năm 2000 lên 58% vào năm 2005 và 67% vào năm 2010; riêng trẻ em 5
tuổi tăng tỷ lệ huy động đến mẫu giáo để chuẩn bị vào lớp 1 từ 81% năm 2000 lên 85%
vào năm 2005 và 95% vào năm 2010. Giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ trong các cơ
sở giáo dục mầm non xuống dưới 20% vào năm 2005, dưới 15% vào năm 2010.+ Giáo
dục phổ thông: thực hiện giáo dục toàn diện về đức, trí , thể, mỹ. Cung cấp học vấn phổ
thông cơ bản, hệ thống và có tính hướng nghiệp; tiếp cận trình độ các nước phát triển
trong khu vực. Tăng tỷ lệ huy động học sinh trong độ tuổi đến trường từ 95% năm 2000
lên 97% năm 2005 và 99% năm 2010.
+ Trung học cơ sở: Cung cấp cho học sinh học vấn phổ thông cơ sở và những hiểu
biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để thực hiện phân luồng sau trung học cơ sở ,
tạo điều kiện để học sinh tiếp tục học tập hoặc đi vào cuộc sống lao động. Đạt chuẩn
phổ cập trung học cơ sở ở các thành phố , đô thị, vùng kinh tế phát triển vào năm 2005,
trong cả nước 2010. Tăng tỷ lệ học sinh trung học cơ sở trong độ tuổi từ 74% năm 2000
lên 80% vào năm 2005 và 90% vào năm 2010.
+ Trung học phổ thông: Tăng tỷ lệ học sinh trong độ tuổi vào trung học phổ thông từ
38% năm 2000 lên 45% vào năm 2005 và 50% vào năm 2010.
+ Giáo dục nghề nghiệp: nâng cao chất lượng dạy nghề gắn với nâng cao ý thức kỷ
luật lao động và tác phong lao động hiện đại. Gắn đào tạo vói nhu cầu sử dụng, với việc

làm trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động.
+ Trung học chuyên nghiệp: thu hút học sinh trong độ tuổi vào các trường trung
học chuyên nghiệp đạt 10% năm 2005, 15% năm 2010. Dạy nghề : thu hút học sinh sau
trung học cơ sở vào học các trường dạy nghề từ 6% năm 2000 lên 10% năm 2005, 15%
năm 2010. Dạy nghề bậc cao: thu hút học sinh sau trung học phổ thông, trung học
chuyên nghiệp vào học các chương trình này đạt 5% năm 2005, 10% năm 2010. .
+ Giáo dục cao đẳng, đại học và sau đại học: Nâng tỷ lệ sinh viên trên một vạn dân từ
118 năm học 2000-2001 lên 200 vào năm 2010. Tăng quy mô đào tạo thạc sỹ từ 11.727
học viên năm 2000 lên 38.000 , nghiên cứu sinh từ 3.870 năm 2000 lên 15.000 vào năm
2010.
+ Giáo dục không chính quy: củng cố và nâng cao kết quả xoá muv chữ cho người lớn,
đặc biệt ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Thực hiện có hiệu quả các chương trình sau xoá
mù chữ, bổ túc trên tiểu học để góp phần thực hiện chủ trương phổ cập giáo dục trung
học cơ sở vào năm 2010.
+ Giáo dục trẻ khuyết tật: Tạo cơ hội cho trẻ khuyết tật được học tập ở một trong các
loại hình lớp hoà nhập, bán hoà nhập hoặc chuyên biệt, đạt tỷ lệ 50% vào năm 2005 và
70% vào năm 2010.
Ở các nước đang phát triển như Việt Nam, xu hướng đầu tư phát triển giáo dục
đang dần dần theo chiều hướng tích cực, đó là: Nhà nước vẫn đóng vai trò chủ chốt
trong huy động nguồn lực đầu tư phát triển ngành giáo dục, đóng vai trò định hướng
trong hoạt động đầu tư. Bên cạnh đó, xu hướng đầu tư đang dần dần được điều chỉnh
theo quy luật thị trường, xu hướng đầu tư vì lợi nhuận và phi lợi nhuận đang đồng thời
tồn tại và phát triển.
1.2.3. Thực trạng đầu tư phát triển ngành giáo dục – đào tạo Việt Nam:
1.2.3.1. Tình hình phát triển ngành giáo dục – đào tạo Việt Nam:
(*) Giáo dục mầm non:
Bước đầu khôi phục và phát triển giáo dục mầm non sau một thời gian dài gặp khó
khăn ở nhiều địa phương. Số xã “trắng” về cơ sở giáo dục mầm non giảm rõ rệt. Năm
học 2003-2004 đã có gần 2,6 triệu trẻ em theo học ở hơn 10.000 cơ sở giáo dục mầm
non, số trẻ 5 tuổi học mẫu giáo chiếm 90% số trẻ trong độ tuổi. Tuy vậy, tỷ lệ trẻ ra lớp

mẫu giáo ở các vùng khó khăn còn thấp, như ở đồng bằng sông Cửu Long mới đạt
42,7%.
Chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ trong các cơ sở giáo dục mầm non có tiến
bộ, song còn thấp và chưa đồng đều giữa các vùng. Một số nơi đã đưa việc dạy chữ vào
lớp mẫu giáo 5 tuổi là không phù hợp với khả năng tiếp thu của trẻ.
Quyết định 161/2002/QĐ-TTCP của Thủ tướng Chính phủ đã tạo điều kiện thuận
lợi cho việc thực hiện chế độ, chính sách hỗ trợ giáo viên và đầu tư xây dựng cơ sở vật
chất đối với giáo dục mầm non ở các vùng khó khăn. Trở ngại lớn nhất hiện nay là, đội
ngũ giáo viên mầm non còn thiếu so với định mức, nhiều giáo viên chưa đạt chuẩn;

×