HOẠT ĐỘNG CHO VAY TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA NHTM ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
1.1. Các vấn đề cơ bản về doanh nghiệp nhỏ và vừa.
1.1.1 Khái niệm về DNN&V
Có nhiều căn cứ để phân loại doanh nghiệp, khi nói đến DNN&V là nói đến
cách phân lọai doanh nghiệp dựa vào quy mô của doanh nghiệp. Mỗi quốc gia trên
thế giới có đặc điểm riêng về nền kinh tế, trình độ phát triển nên những quy định
chung về DNN&V cũng khác nhau. Tuy nhiên, có thể đưa ra một khái niệm chung
nhất về DNN&V như sau: “ Doanh nghiệp nhỏ và vừa là những cơ sở sản xuất –
kinh doanh có tư cách pháp nhân, kinh doanh vì mục đích lợi nhuận, có quy mô
doanh nghiệp trong những giới hạn nhất định tính theo các tiêu thức vốn, lao động,
doanh thu, giá trị gia tăng thu được trong từng thời kì theo quy định của từng quốc
gia”.
Như vậy có thể nói, tiêu thức phân loại doanh nghiệp được sử dụng phổ biến
trên thế giới là:
+ Vốn sản xuất
+ Số lao động thường xuyên
+ Doanh thu
+ Lợi nhuận
+ Giá trị gia tăng
Trong số các tiêu thức trên thì quy mô vốn và số lượng lao động là những tiêu
thức được sử dụng phổ biến nhất. Ở mỗi nước, sự phân chia DNN&V cững không
giống nhau và còn phụ thuộc vào lĩnh vực kinh doanh, ví dụ như: ở Nhật Bản các
DNN&V thuộc khu vực sản xuất phải có số vốn dưới 1 triệu USD và số lao động
không quá 300 người, còn khu vực thương mại dịch vụ thì có vốn dưới
300.000USD và lao động không quá 100 người. Tại Đài Loan, các doanh nghiệp
trong ngành xây dựng có số vốn dưới 1,4 triệu USD, lao động dưới 300 người;
trong khu vực công nghiệp khai khoáng có số vốn dưới 1,4 triệu USD và không
quá 500 lao động là DNN&V.
Tại Việt Nam, Nghị định số 90/2001/NĐ – CP ra ngày 23/11/2001 quy định
rõ: “DNN&V là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng kí kinh doanh theo
pháp luật hiện hành, có vốn dăng kí không quá 10 tỷ đồng hoặc có số lao động
trung bình hàng năm không quá 300 người ”.
Theo quy định này, DNN&V ở nước ta gồm các loại hình cơ sở sản xuất kinh
doanh tồn tại trong tất cả các thành phần kinh tế, và thuộc các hình thức sở hữu
sau:
+ Doanh nghiệp Nhà nước
+ Công ty Cổ phần, hợp danh
+Công ty trách nhiệm hữu hạn
+ Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
+ Doanh nghiệp tư nhân
+ Hợp tác xã
+ Hộ kinh doanh các thể
1.1.2 Đặc điểm cơ bản của DNN&V
Trong thời gian qua, các DNN&V đã và đang chiếm một vị trí quan trọng đối
với nền kinh tế của bất kì một quốc gia nào. Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế và
tự do thương mại như hiện nay DNN&V càng phát huy được lợi thế, bao gồm:
1.1.2.1 Những ưu thế:
- DNN&V rất năng động, linh hoạt, có khả năng thích ứng cao trước sự thay đổi
của thị trường. DNN&V có thể chuyển đổi hàng hóa mà mình cung cấp, chuyển
hướng kinh doanh theo nguyên tắc kết hợp chuyên môn hóa với đa dạng hóa trên cơ
sở đổi mới công nghệ, tăng cường liên doanh liên kết. Đồng thời với cơ sở vật chất kĩ
thuật không lớn, DNN&V dễ dàng chuyển đổi hướng sản xuất hoặc thu hẹp quy mô
mà không sợ gây ra những hậu quả nặng nề.
- Với tính chất nhỏ gọn, DNN&V chỉ cần đầu tư ít vốn vẫn có khả năng trang
bị những máy móc với công nghệ cao và tương đối hiện đại. Tổ chức gọn nhẹ góp
phần tiết kiệm chi phí quản lí, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
- DNN&V cần ít diện tích đất sản xuất tập trung, có khả năng sản xuất nhỏ lẻ,
do đó có thể tận dụng được các nguồn lực phân tán, phát huy được tiềm lực tại các
địa phương trong cả nước như: khai thác tài nguyên tại chỗ, thu hút lao động có
sẵn tại địa phương.
- Vốn đầu tư ban đầu của DNN&V tuy ít nhưng mang lại hiệu quả kinh tế cao,
thu hồi vốn nhanh do đó có khả năng thu hút nhiều cá nhân, tổ chức ở mọi thành
phần kinh tế đầu tư vào khu vực này.
1.1.2.2 Những bất lợi:
- Khả năng cạnh tranh thấp dó tiềm lực về kinh tế yếu: DNN&V có vốn
chủ sở hữu ít, mặt khác thường thiếu tài sản thế chấp nên rất khó để vay vốn
ngân hàng, còn việc huy động vốn trên thị trướng chứng khoán cũng rất khó
khăn. Nguồn vốn mà doanh nghiệp huy động được chủ yếu là từ người thân,
bạn bè. Do đó DNN&V luôn thiếu vốn làm hạn chế cũng như bỏ lỡ mất cơ hội
kinh doanh, không đáp ứng được yêu cầu mở rộng sản xuất, dẫn đến khả năng
tự tích lũy của các doanh nghiệp cũng bị hạn chế.
- Khả năng hạn hẹp trong việc đào tạo phát triển nguồn nhân lực, nghiên cứu,
cải tiến công nghệ, đổi mới sản phẩm: do hạn chế về vốn nên có những kế hoạch
và chiến lược phát triển tốt bị bỏ qua dẫn đến khả năng cạnh tranh trên thị trường
của các doanh nghiệp này thấp.
- DNN&V với quy mô kinh doanh không lớn, khả năng tài chính hạn hẹp, sức
cạnh tranh thấp do đó trong nhiều trường hợp thường bị động vì phụ thuộc vào
hướng phát triển của các doanh nghiệp lớn.
1.1.3 Vai trò của DNN&V
Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, song với những lợi thế của mình các
DNN&V ngày càng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của mỗi
quốc gia, kể cả nước có trình độ phát triển cao. Nhật Bản và các quốc gia châu Á
đều đánh giá cao vai trò của DNN&V trong quá trình phát triển kinh tế của mình,
trong đó Đài Loan được nhắc đến như là một điển hình tành công, là vương quốc
của DNN&V. Năm 2000, DNN&V Đài Loan chiếm khoảng 96% tổng số doanh
nghiệp, tạo ra khoảng 40% sản lượng công nghiệp, hơn 50% giá trị xuất khẩu và
tạo ra hơn 70% công ăn việc làm mới. Đặc biệt, nhờ có DNN&V mà nền kinh tế
Đài Loan đã giữ được ổn định trong cuộc khủng hoảng tài chính khu vực năm
1997. Ở Đức, khu vực DNN&V nắm giữ một vị trí quan trọng đối với nền kinh tế,
nó tạo ra 50% GDP, chiếm hơn 1/2 doanh thu chịu thuế của các doanh nghiệp,
cung cấp các loại hàng hóa dịch vụ, đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng
trong và ngoài nước.
Tại Việt Nam, các DNN&V được phát triển một cách chính thức kể từ khi
có sự ra đời của Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật công ty áp dụng vào năm
1990 và sửa đổi thành Luật doanh nghiệp năm 1999. Từ đó, số lượng DNN&V
ở nước ta ngày càng gia tăng một cách mạnh mẽ. Hiện nay, DNN&V ở Việt
Nam chiếm khoảng 97% trong tổng số hơn 200.000 doanh nghiệp đã thành lập
trên toàn quốc. Các doanh nghiệp này đang đóng góp khoảng 26% GDP, 31%
giá trị tổng sản lượng công nghiệp, tạo ra hơn 49% việc làm phi nông nghiệp ở
nông thôn và thu hút hơn 26% lao động trong cả nước. Tuy nhiên đây chỉ là con
số đóng góp trực tiếp, ngoài ra DNN&V còn có vai trò lớn trong mối quan hệ
gắn kết với các doanh nghiệp lớn hơn.
Như vậy ta có thể khẳng định rằng đối với bất kì nền kinh tế nào thì DNN&V
cũng đóng một vai trò quan trọng, thể hiện ở:
- Làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn, đóng góp đáng kể vào sự
phát triển ổn định của của mỗi quốc gia. Khi các DNN&V hoạt động tích cực và
hiệu quả thì sẽ tạo ra môi trường cạnh tranh thực sự, phá vỡ một phần thế độc
quyền của một số doanh nghiệp lớn, làm cho hàng hóa dịch vụ rẻ hơn, phục vụ tốt
nhu cầu của người tiêu dùng. Ngoài ra các DNN&V có khả năng thay đổi mặt
hàng, công nghệ, chuyển hướng kinh doanh nhanh làm cho nền kinh tế năng động
hơn. Mặt khác, các DNN&V đóng góp vào GDP với một tỷ trọng tương đối lớn, do
đó việc phát triển DNN&V có vai trò quan trọng trong sự phát triển của nền kinh
tế.
- Thu hút lao động, tạo ra nhiều việc làm với chi phí đầu tư thấp, góp phần
giảm thất nghiệp. Nhìn chung, theo các số liệu thống kê ở một số nước châu Á
thì các DNN&V chiếm khoảng 81 – 98% số doanh nghiệp, thu hút khoảng 30 –
60% lao động. Ở Việt Nam, số lượng DNN&V chiếm khoảng 97% trong tổng số
doanh nghiệp đã đăng kí hoạt động, đóng góp khoảng 26% GDP của nền kinh
tếvà thu hút khoảng 26% lực lượng lao động trong cả nước.
- Tạo nguồn thu nhập ổn định, thường xuyên cho dân cư, góp phần giảm bớt
chênh lệch về thu nhập giữa các bộ phận dân cư, tạo sự phát triển đồng đều giữa
các vùng trong cả nước do DNN&V có khả năng tận dụng những tiềm năng sẵn có
tại địa phương. Việc phát triển các doanh nghiệp thuộc ngành nghề truyền thống
trong nông thôn hiện nay là một trong những hướng quan trọng và được Nhà nước
hết sức hỗ trợ vì không những làm tăng thu nhập cho người dân mà còn góp phần
giữ gìn bản sắc dân tộc.
- DNN&V hỗ trợ các doanh nghiệp lớn nâng cao hiệu quả kinh tế. Thực tiễn
cho thấy một nền kinh tế có công nghệ hiện đại sẽ không hoàn chỉnh và không hiệu
quả nếu không có những doanh nghiệp lớn và những doanh nghiệp có quy mô nhỏ
hơn. Mối liên hệ thể hiện thông qua việc doanh nghiệp lớn cung cấp nguyên liệu sơ
chế, thành phẩm, thiết bị, máy móc cho các doanh nghiệp nhỏ. Đồng thời các
DNN&V tiếp nhận việc xây dựng cơ sở sản xuất và trang thiết bị, chế tạo các bộ
phận đơn giản, cung cấp các dịch vụ công nghiệp như lắp đặt, sửa chữa bảo dưỡng,
… cho các doanh nghiệp lớn. Ngoài ra, DNN&V còn đóng vai trò làm đại lý, vệ
tinh cho các doanh nghiệp lớn, giúp tiêu thụ hàng hóa, thâm nhập vào các ngõ
ngách của thị trường mà các doanh nghiệp lớn không tới được.
- Khu vực DNN&V đặc biệt là các DNN&V ở nông thôn phát triển góp phần
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghịêp hóa. Các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh tăng lên, phát triển nhiều ngành nghề đa dạng, phong
phú, doanh nghiệp đươc phân bố đều hơn. Các doanh nghiệp ở nông thôn như:
doanh nghiệp chế biến nông sản, phát triển các ngành nghề ở địa phương, …
không những tạo đầu ra cho nguyên liệu từ nông nghiệp, nâng cao giá trị của nông
sản mà còn thu hút lao động từ khu vực nông thôn, góp phần giải quyết việc làm,
tăng thu nhập cho người dân. Có thể nói, sự phát triển của DNN&V ở nông thôn đã
làm hài hòa các mối quan hệ giữa nông nghiệp và công nghiệp, giữa nông thôn và
thành thị, góp phần xây dựng và phát triển nông thôn mới, hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn.
- DNN&V nếu có điều kiện phát triển tốt thì đây chính là môi trường hình
thành và phát triển đội ngũ các nhà kinh doanh năng động. Cùng với việc phát
triển các DNN&V là sự xuất hiện các nhà kinh doanh sang lập, bắt đầu kinh
doanh với quy mô nhỏ và thông qua điều hành quản lý sẽ được thử thách, đào
tạo và tích lũy kinh nghiệm trở thành những nhà doanh nghiệp lớn.
Đối với Việt Nam, một nước có trình độ phát triển kinh tế thấp hơn so với
các nước trong khu vực và trên thế giới, đang trong thời kì đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa thì vai trò của DNN&V lại càng quan trọng. Do đó,
Nghị quyết TW khóa X đã nhấn mạnh: “ DNN&V là lọai hình doanh nghiệp rất
phù hợp để phát huy mọi tiềm năng cho việc phát triển kinh tế và bước đầu thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vì vậy, phải quan tâm tới mọi thuận lợi cho
DNN&V, kinh tế hộ gia đình phát triển”. Đây có thể coi là một chủ trương đúng
của Đảng và Nhà nước ta, phù hợp với đặc điểm nền kinh tế hiện nay.
1.2Hoạt động cho vay trung và dài hạn đối với DNN&V của NHTM
1.2.1 Các vấn đề cơ bản về hoạt động cho vay trung và dài hạn của NHTM
1.2.1.1 Khái niệm cho vay trung, dài hạn của ngân hàng
Cho vay là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa hai chủ thể,
trong đó một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia được sử dụng trong
thời gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền hoặc tài sản ca kết hoàn trả theo thời
gian đã thỏa thuận.
Cho vay trung, dài hạn là các khoản cho vay của ngân hàng có thời hạn từ một năm
trở lên. Việc phân chia cụ thể hoạt động cho vay trung, dài hạn tùy thuộc vào quy
định của từng quốc gia, thông thường:
Cho vay trung hạn là những khoản cho vay có thời hạn từ 12 tháng đến 5 năm để
tài trợ mua sắm tài sản cố định, cải tiến đổi mới kĩ thuật, mở rộng công trình có
thời hạn thu hồi vốn nhanh.
Cho vay dài hạn là những khoản cho vay có thời hạn từ 5 năm trở lên được sử
dụng để xây dựng, cải tạo hay hoàn thiện đồng bộ dây chuyền công nghệ.
1.2.1.2 Đặc điểm của hoạt động cho vay trung, dài hạn của NHTM
Có nhiều căn cứ để phân loại hoạt động cho vay của NHTM, nếu căn cứ vào
thời hạn thì có thể phân thành: cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn và cho vay dài
hạn. Cho vay trung và dài hạn là những khoản vay có kỳ hạn vay từ 12 tháng trở
lên, có những đặc điểm sau:
a, Về đối tượng cho vay: Những khoản cho vay trung, dài hạn chủ yếu được tài
trợ cho những hoạt động đầu tư trung và dài hạn kéo dài từ 1 năm trở lên như mua
sắm thiết bị , đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,
thực hiện các dự án đầu tư.
b, Về lãi suất cho vay: Do mức độ rủi ro cao nên lãi suất cho vay trung, dài
hạn thường cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn. Lãi suất cho vay trung, dài hạn có
thể là lãi suất cố định hoặc lãi suất quy định thay đổi theo mức lãi suất thị trường.
Việc quy định mức lãi suất cụ thể của từng ngân hàng có thể dựa vào mức lãi suất
cơ bản do NHNN công bố hoặc mức lãi suất của một số thị trường liên ngân hàng
quan trọng.
c, Về kì hạn trả nợ: thời gian hoàn vốn của các khoản vay trung, dài hạn là rất
chậm. Nguồn hoàn trả tiền vay của các doanh nghiệp chủ yếu được lấy từ quỹ khấu
hao và một phần từ lợi nhuận chính của dự án mang lại. Để giảm mức độ rủi ro của
loại hình cho vay này, các NHTM thường thông qua việc tạo ra một kì hạn trả nợ
hợp lí. Thông thường thì nợ trung, dài hạn được hoàn trả theo hình thức phân kì, ở
mỗi kì trả nợ người vay sẽ trả một khoản nhất định: có thể theo niên kim cố định
hoặc theo niên kim không cố định. Tất cả các yếu tố như: thời hạn cho vay , kì hạn
trả nợ, số tiền trả nợ từng kì đều đựơc xác định theo tính chất của khoản vay, khả
năng chu chuyển vốn vay phù hợp với chu kì sản xuất kinh doanh, nguồn vốn của
khách hàng và được ghi rõ ràng trong hợp đồng tín dụng và khế ước nhận nợ.
Khi sử dụng vốn vay trung, dài hạn người vay phải tuân thủ theo nguyên tắc
sử dụng vốn đúng mục đích:
Khi muốn vay vốn trung, dài hạn thì người vay phải soạn thảo dự án, kế hoạch
kinh doanh của mình. Đó là cơ sở để người vay phân bổ vốn hợp lý cho các khoản
mục từ đó ngân hàng có thể thẩm định khả năng trả nợ của người vay và tiến hành
cho vay. Các khoản mục sử dụng vốn vay trung và dài hạn có thể bao gồm: Chi phí
thuê mua đất làm mặt bằng sản xuất, chi phí xây dựng nhà xưởng, chi phí hình
thành tài sản cố định … và một phần đầu tư vào tài sản lưu động ròng.
Các dự án, chương trình kinh doanh xin vay vốn phải nằm trong chương trình
phát triển kinh tế chung của địa phương, của vùng, của Nhà nước và các dự án đó
phải được các cơ quan có thẩm quyền thẩm định và cho phép thực hiện. Biết trước