Tải bản đầy đủ (.doc) (177 trang)

luận án tiến sĩ nâng cao chất lượng chính trị của vận động viên ở các trung tâm thể dục thể thao trong quân đội giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (730.9 KB, 177 trang )

0

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận
án là trung thực, có nguồn gốc xuất xứ
rõ ràng.
Tác giả luận án

Vũ Văn Nam


1

MỤC LỤC

Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỞ ĐẦU
Chương 1 TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1.
1.2.
1.3.

3
7
7


11

Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài có liên quan đến đề tài luận án
Các công trình nghiên cứu ở trong nước có liên quan đến đề tài luận án
Khái quát kết quả chủ yếu của các công trình đã công bố liên
quan đến đề tài và những vấn đề luận án tập trung giải quyết

20

Chương 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG CHÍNH TRỊ CỦA VẬN ĐỘNG VIÊN Ở CÁC
TRUNG TÂM THỂ DỤC THỂ THAO TRONG QUÂN ĐỘI

24

2.1.
2.2.

Vận động viên và chất lượng chính trị của vận động viên ở các
trung tâm thể dục thể thao trong quân đội
Quan niệm, những vấn đề có tính nguyên tắc và tiêu chí đánh
giá nâng cao chất lượng chính trị của vận động viên ở các trung
tâm thể dục thể thao trong quân đội

Chương 3 THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG CHÍNH TRỊ CỦA VẬN ĐỘNG VIÊN Ở CÁC TRUNG
TÂM THỂ DỤC THỂ THAO TRONG QUÂN ĐỘI
3.1.
3.2.


Thực trạng nâng cao chất lượng chính trị của vận động viên ở
các trung tâm thể dục thể thao trong quân đội
Nguyên nhân và một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng chính
trị của vận động viên ở các trung tâm TDTT trong quân đội

24
48
67
67
87

Chương 4 YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG CHÍNH TRỊ CỦA VẬN ĐỘNG VIÊN Ở CÁC TRUNG
TÂM THỂ DỤC THỂ THAO TRONG QUÂN ĐỘI GIAI
103
ĐOẠN HIỆN NAY
4.1.

Những yếu tố tác động và yêu cầu nâng cao chất lượng chính
trị của vận động viên ở các trung tâm thể dục thể thao trong
quân đội giai đoạn hiện nay
103
4.2.
Những giải pháp nâng cao chất lượng chính trị của vận động viên
ở các trung tâm thể dục thể thao trong quân đội giai đoạn hiện nay 113
KẾT LUẬN
155
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG
BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

158
159
174


2

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.
13.
14.
15.

Chữ viết đủ

Chữ viết tắt


Bản lĩnh chính trị
Bộ Quốc phòng
Bộ Tổng Tham mưu
Cán bộ chính trị
Công tác đảng, công tác chính trị
Cơ quan chính trị
Chất lượng chính trị
Chính trị viên
Đội ngũ cán bộ
Giáo dục chính trị
Phẩm chất chính trị
Quân đội nhân dân
Quân ủy Trung ương
Thể dục thể thao
Vận động viên

BLCT
BQP
BTTM
CBCT
CTĐ, CTCT
CQCT
CLCT
CTV
ĐNCB
GDCT
PCCT
QĐND
QUTW

TDTT
VĐV


3

MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Các trung tâm TDTT trong quân đội là những đơn vị thể thao có bề dày
thành tích trong sự nghiệp thể thao của cả nước; là nơi tổ chức quản lý, huấn
luyện, đào tạo và tập huấn các đội thể thao thành tích cao của quân đội làm
nhiệm vụ thi đấu quốc gia và quốc tế. Từ khi thành lập đến nay, các trung tâm
TDTT quân đội đã đào tạo được một lực lượng lớn VĐV tài năng cho thể thao
quân đội và cả nước. Nhiều thế hệ VĐV của quân đội đã giành được nhiều
thành tích xuất sắc trên đấu trường khu vực và thế giới. Thành tích xuất sắc
của họ đã giúp thể thao Quân đội luôn khẳng định vị thế là một trong ba tỉnh,
thành, ngành dẫn đầu cả nước; là động lực thúc đẩy phong trào tập luyện thể
thao, rèn luyện thể lực nâng cao sức khỏe của cán bộ, chiến sĩ toàn quân, đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống.
Chất lượng chính trị của VĐV là thành tố cơ bản, quan trọng tạo thành
giá trị và sức mạnh toàn diện của đội ngũ VĐV; có ý nghĩa quyết định đến
khả năng hoàn thành nhiệm vụ của mỗi VĐV, tác động trực tiếp đến chất
lượng, hiệu quả thực hiện chủ trương của QUTW, BQP về đẩy mạnh phát triển
thể thao thành tích cao trong quân đội.
Những năm qua, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của QUTW, BQP,
cấp ủy, cán bộ chủ trì các cấp, các trung tâm TDTT quân đội đã thường xuyên
quan tâm bồi dưỡng, giáo dục, rèn luyện nâng cao CLCT của VĐV. Đại đa số
VĐV ở các trung tâm TDTT quân đội có nhận thức, giác ngộ chính trị đúng
đắn, lập trường tư tưởng vững vàng, an tâm công tác. Hầu hết VĐV đã ý thức
rõ được vinh dự và trách nhiệm, tích cực tu dưỡng, rèn luyện phấn đấu không

ngừng tiến bộ, trưởng thành về mọi mặt, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Tuy nhiên, hoạt động nâng cao CLCT của VĐV ở các trung tâm TDTT quân
đội vẫn chưa được quan tâm đúng mức; CLCT của VĐV nhiều mặt chưa đáp
ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của thể thao quân đội trong tình hình mới.


4

Hiện nay, trong điều kiện hội nhập với thể thao thế giới, Đảng ta chủ
trương coi trọng giáo dục đạo đức, ý chí, lòng tự hào dân tộc cho VĐV là
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
đào tạo tài năng thể thao. QUTW, BQP chủ trương giữ vững mục tiêu là một
trong những trung tâm hàng đầu của quốc gia đối với thể thao thành tích cao
quân đội. Trong khi đó, mặt trái của nền kinh tế thị trường, những tiêu cực
của xã hội, sự chống phá của các thế lực thù địch đã tác động sâu sắc đến
nhận thức, tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ, trong đó có VĐV ở các trung tâm
TDTT quân đội. Sự quan tâm và kỳ vọng của người hâm mộ thể thao vừa là
động lực, vừa tạo áp lực lớn về thành tích đối với mỗi VĐV. Điều đó, đòi hỏi
phải tăng cường giáo dục, bồi dưỡng nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức
lối sống và nâng cao CLCT của VĐV ở các trung tâm TDTT quân đội, bảo
đảm cho họ có quan điểm lập trường đúng đắn, BLCT vững vàng, ý chí quyết
tâm cao trong tập luyện, thi đấu, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Đây
vừa là yêu cầu cơ bản, thường xuyên, vừa là yêu cầu cấp thiết của công tác đào
tạo VĐV ở các trung tâm TDTT quân đội giai đoạn hiện nay.
Từ những lý do trên, tác giả lựa chọn vấn đề “Nâng cao chất lượng
chính trị của vận động viên ở các trung tâm thể dục thể thao trong quân
đội giai đoạn hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ, đây là vấn đề có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn cấp thiết.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu, luận giải làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn; đề xuất
những giải pháp nâng cao CLCT của VĐV ở các trung tâm TDTT trong quân
đội giai đoạn hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án và
xác định những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục giải quyết.


5

Luận giải, làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn về CLCT và nâng cao
CLCT của VĐV ở các trung tâm TDTT trong quân đội.
Đánh giá đúng thực trạng và rút ra một số kinh nghiệm nâng cao CLCT
của VĐV ở các trung tâm TDTT trong quân đội.
Phân tích những yếu tố tác động, xác định yêu cầu và đề xuất những giải
pháp nâng cao CLCT của VĐV ở các trung tâm TDTT quân đội giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Nâng cao CLCT của VĐV ở các trung tâm
TDTT trong quân đội.
Phạm vi nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu CLCT và nâng cao CLCT
của VĐV là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên quốc phòng,
hạ sĩ quan, chiến sĩ và VĐV chưa vào biên chế từ 18 tuổi trở lên ở các trung
tâm TDTT quân đội. Phạm vi điều tra, khảo sát ở 5 trung tâm TDTT quân đội.
Các tư liệu, số liệu khảo sát phục vụ đề tài luận án được giới hạn chủ yếu từ
năm 2010 đến nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, công tác cán bộ, xây dựng Quân đội vững mạnh về

chính trị; đường lối, quan điểm của Đảng về TDTT và đào tạo VĐV thể
thao thành tích cao.
Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn hoạt động xây dựng, huấn luyện, tập huấn, thi đấu của các
trung tâm TDTT quân đội. Thực trạng CLCT và nâng cao CLCT của VĐV ở
các trung tâm TDTT quân đội. Các báo cáo sơ kết, tổng kết công tác xây dựng
Đảng, CTĐ, CTCT của các trung tâm TDTT quân đội. Kết quả điều tra, khảo
sát thực tế của tác giả về CLCT và nâng cao CLCT của VĐV ở các trung tâm
TDTT quân đội giai đoạn hiện nay.


6

Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin, luận án sử dụng
tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành và liên
ngành, trong đó chú trọng các phương pháp lôgíc, lịch sử, phân tích, tổng
hợp, so sánh, thống kê, hệ thống, cấu trúc, tổng kết thực tiễn, khảo sát thực tế,
điều tra xã hội học và phương pháp chuyên gia.
5. Những đóng góp mới của luận án
Xây dựng quan niệm CLCT và nâng cao CLCT của VĐV ở các trung
tâm TDTT trong quân đội; xác định những vấn đề có tính nguyên tắc và tiêu
chí đánh giá nâng cao CLCT của VĐV ở các trung tâm TDTT trong quân đội.
Rút ra một số kinh nghiệm nâng cao CLCT của VĐV ở các trung tâm
TDTT trong quân đội.
Đề xuất một số giải pháp mới về nâng cao CLCT của VĐV ở các
trung tâm TDTT trong quân đội giai đoạn hiện nay. Đó là các giải pháp:
“Xác định đúng nội dung, vận dụng linh hoạt các hình thức, biện pháp giáo
dục chính trị tư tưởng; đạo đức, lối sống; ý thức tổ chức kỷ luật của VĐV ở
các trung tâm TDTT quân đội” và giải pháp: “Phát huy tính tích cực, chủ

động của VĐV ở các trung tâm TDTT quân đội đối với tự học tập, rèn
luyện nâng cao CLCT”.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận về CLCT, nâng cao CLCT của VĐV ở các trung tâm TDTT quân đội.
Đồng thời, cung cấp cơ sở khoa học cho QUTW, BQP, cấp uỷ, cán bộ chủ trì,
CQCT các cấp và các trung tâm TDTT quân đội xác định chủ trương, biện
pháp lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao CLCT của VĐV ở các trung tâm TDTT quân đội.
Luận án có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác giảng dạy,
nghiên cứu khoa học ở các nhà trường quân đội.
7. Kết cấu của luận án
Gồm phần mở đầu, 4 chương (9 tiết), kết luận, danh mục các công trình khoa
học đã được công bố của nghiên cứu sinh, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.


7

Chương 1
TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài có
liên quan đến đề tài luận án
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về công tác đảng, công tác chính trị
trong lực lượng vũ trang
A.A. Ê-Pi-Sép (1975), “Một số vấn đề công tác đảng, công tác
chính trị trong các lực lượng vũ trang Liên Xô” [63]. Tác giả đã đề cập
đến một số vấn đề về nền tảng sức mạnh của các lực lượng vũ trang Liên
Xô; những đặc điểm và nhiệm vụ của CTĐ, CTCT trong các lực lượng
vũ trang; xây dựng những người bảo vệ đất nước Liên Xô vững vàng về
tư tưởng; công tác giáo dục tinh thần và rèn luyện tâm lý; việc rèn luyện

tư tưởng và bồi dưỡng lý luận cho các sĩ quan xô viết. Tác giả cho rằng:
“Vấn đề GDCT và rèn luyện tinh thần và tâm lý hiện nay đóng một vai
trò to lớn trong lý luận quân sự, trong công tác huấn luyện và giáo dục
quân sự” [63, tr.303].
A.I. Ki-Tốp, V.N. Cô-Va-Lép và V.K. Lu-Gie-Ren-cô (1976), “Quân
đội hiện đại và kỷ luật” [69]. Qua nghiên cứu thực tiễn phong phú của các
lực lượng vũ trang Liên Xô, các tác giả đã khái quát những kinh nghiệm
tiên tiến và đề ra phương hướng, biện pháp cơ bản của việc tăng cường hơn
nữa tính tổ chức và kỷ luật của quân đội trong điều kiện tác chiến hiện đại.
Các tác giả đã luận giải khá sâu sắc về mối quan hệ giữa ý thức kỷ luật với
tinh thần sẵn sàng lập công. Khẳng định rèn luyện tư tưởng là cơ sở của ý
thức kỷ luật của quân nhân Xô-viết, các tác giả cho rằng: “Hệ thống GDCT
tư tưởng và quân sự trong các lực lượng vũ trang chúng ta bao gồm những
hình thức tác động vào bộ đội về tinh thần và đạo đức.., tạo cho họ thói quen
thực tiễn là hành động có kỷ luật và phương pháp tổng hợp trong việc hình
thành nhân cách” [69, tr.105].


8

A.A. Ê-Pi-Sép (1980), “Công tác tư tưởng trong các lực lượng vũ
trang xô viết” [64]. Đây là công trình tổng kết về công tác tư tưởng trong các
lực lượng vũ trang Xô viết, rút ra những vấn đề có tính nguyên tắc, có giá trị
hướng dẫn hành động, gắn liền với việc xây dựng lực lượng vũ trang Xô viết.
Tác giả luận bàn sâu sắc quan điểm tổng hợp trong tiến hành công tác tư
tưởng, trong đó có những vấn đề liên quan đến các nội dung, hình thức, biện
pháp quản lý tư tưởng, theo tác giả truyền thống chiến đấu của lực lượng vũ
trang là một phương tiện giáo dục tư tưởng: “Việc kỷ niệm những ngày ấy có
tác dụng củng cố sự thống nhất, đoàn kết của người Xô-viết, tăng cường lòng trung
thành đối với Tổ quốc vĩ đại, tinh thần yêu nước của người Xô-viết” [64, tr.208].

Đ.A. Vôn-cô-gô-nôp (1980), “Phương pháp luận công tác giáo dục tư
tưởng” [144]. Tác giả khẳng định xây dựng thế quan cộng sản chủ nghĩa là
nhiệm vụ trung tâm của công tác giáo dục tư tưởng; xây dựng thế giới quan
cộng sản, lập trường giai cấp công nhân theo nguyên tắc tính đảng, tính khoa
học, đấu tranh chống hệ tư tưởng tư sản. Nguồn gốc hình thành thế giới quan
cộng sản chủ nghĩa cho cán bộ, chiến sĩ trong quân đội xã hội chủ nghĩa, là
chủ nghĩa Mác - Lênin, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân. Luận bàn về
phương hướng chủ yếu của công tác giáo dục - tư tưởng, tác giả đề cập đến
công tác GDCT, giáo dục đạo đức, giáo dục pháp luật và giáo dục quân sự.
Tác giả nhấn mạnh “biểu hiện sâu sắc nhất của lập trường tích cực trong cuộc
sống là sự thống nhất giữa lời nói và việc làm, giữa ý nghĩ và hành vi. Nếu
ngược lại thì công tác giáo dục đạo đức sẽ không có kết quả” [144, tr.130]
Chương Tư Nghị (1998), “Công tác đảng, công tác chính trị trong học viện,
nhà trường Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc trong thời kỳ đổi mới” [87].
Giáo trình luận giải về phương pháp tiến hành hoạt động CTĐ, CTCT trong
các nhiệm vụ, trong đó có phương pháp lên lớp chính trị là phương pháp chủ
yếu của giáo dục tư tưởng trong Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc.
Đồng thời, nêu ra các phương pháp giảng dạy truyền thống đó là: dạy bằng
phương pháp gợi ý, từ xa đến gần, từ nông đến sâu, dạy bằng cách nói chuyện


9

thông tục hóa; lời nói phải rõ ràng; lời nói phải gây hứng thú; dùng động tác
và tư thế để phụ họa cho lời nói; tiết sau ôn tập nội dung và khái niệm của tiết
trước; phải có đề cương. Với cán bộ phải có hình thức thảo luận và vận dụng
tốt những phương pháp giảng dạy hiện đại đó là: giảng dạy theo phương pháp
gợi ý; phương pháp hướng dẫn; phương pháp thống nhất ba tính (tính tư
tưởng, tính tri thức, tính hấp dẫn); phương pháp hình ảnh trực quan; phương
pháp giảng dạy theo hình thức thảo luận và nghiên cứu.

1.1.2. Các công trình nghiên cứu về nhân tố chính
trị - tinh thần; giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao bản
lĩnh chính trị của cán bộ, chiến sĩ
Sỏn Xay Chăn Nha Lạt (2012), “Giáo dục chính trị - tư tưởng cho

hạ sĩ quan, binh sĩ Quân đội nhân dân Lào hiện nay” [18]. Luận án chỉ
ra những vấn đề lý luận về GDCT tư tưởng cho hạ sĩ quan, binh sĩ. Theo
tác giả GDCT tư tưởng là quá trình tác động tự giác với mục tiêu, nội
dung, phương pháp phù hợp của chủ thể đối với hạ sĩ quan, binh sĩ; phát
triển PCCT, năng lực chính trị thực tiễn của họ để hoàn thành nhiệm vụ
của mình, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Do
vậy, GDCT tư tưởng cho hạ sĩ quan, binh sĩ phải kiên định tính Đảng, tính
giai cấp; mang tính chiến đấu, tính phê phán cao; tổ chức và tiến hành
phải thực sự khoa học, chặt chẽ; phải gắn với thực tiễn hành động và cuộc
sống của đội ngũ này; phải quán triệt phương châm kết hợp chặt chẽ giữa
xây và chống, lấy xây là chính và kết hợp công tác GDCT tư tưởng với
công tác tổ chức trong mỗi đơn vị. Trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng,
chỉ rõ nguyên nhân của những ưu điểm và hạn chế, khuyết điểm, rút ra
một số bài học kinh nghiệm về công tác GDCT tư tưởng cho hạ sĩ quan,
binh sĩ. Luận án đề xuất 5 giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng GDCT
tư tưởng cho hạ sĩ quan, binh sĩ QĐND Lào hiện nay.
Thim Sảo Đuông Chăm Pa (2016), “Nâng cao chất lượng giáo dục
chính trị cho hạ sĩ quan, binh sĩ ở các trung đoàn bộ binh Quân đội nhân dân


10

Lào hiện nay” [62]. Theo tác giả, GDCT cho hạ sĩ quan, binh sĩ ở các trung
đoàn bộ binh QĐND Lào là một hình thức hoạt động của công tác tư
tưởng - văn hoá của Đảng nhằm phổ biến những nguyên lý cơ bản của chủ

nghĩa Mác - Lênin, quan điểm Cay Xỏn Phôm Vi Hản, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ của cách mạng, của
quân đội và đơn vị giúp hạ sĩ quan, binh sĩ hình thành, củng cố, phát triển
thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng nhằm nâng cao BLCT,
phẩm chất đạo đức, lối sống trong sáng và năng lực hoạt động thực tiễn,
hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ.
Trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng, rút ra một số bài học kinh
nghiệm về công tác GDCT tư tưởng cho hạ sĩ quan, binh sĩ, luận án đề
xuất 5 giải pháp, đó là: Nâng cao nhận thức, vai trò, trách nhiệm của các
tổ chức, các lực lượng; đổi mới chương trình, nội dung, hình thức và
phương pháp GDCT; bồi dưỡng năng lực tiến hành GDCT; phát huy tính
tích cực, chủ động của hạ sĩ quan, binh sĩ trong tự học, tự rèn luyện và kết
hợp với phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các lực lượng trong và
ngoài quân đội nhằm nâng cao chất lượng GDCT cho hạ sĩ quan, binh sĩ ở các
trung đoàn bộ binh QĐND Lào hiện nay.
Seng Thoong Un nang (2016), “Bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ
tiểu đoàn bộ đội chủ lực Quân đội nhân dân Lào giai đoạn hiện nay”
[134]. Theo tác giả, BLCT của ĐNCB tiểu đoàn bộ đội chủ lực QĐND Lào
là một phẩm chất cơ bản, là yếu tố quan trọng cấu thành phẩm chất, năng
lực của họ, đó là biểu hiện tập trung nhất của một trong hai mặt đức và tài
của người cán bộ; là PCCT phát triển đến trình độ cao, tự giác và sáng tạo,
thể hiện rõ năng lực làm chủ về chính trị trong thực hiện nhiệm vụ, đặc
biệt trước những thách thức cao độ, nhất là vào những thời điểm có tính
bước ngoặt. Nâng cao BLCT cho ĐNCB tiểu đoàn là một nội dung quan
trọng của công tác chính trị - tư tưởng của QĐND Lào, gồm các hoạt
động: tuyên truyền, giáo dục sâu rộng chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng,


11


đạo đức Cay Xỏn Phôm Vi Hản; đường lối, quan điểm của Đảng Nhân dân
cách mạng Lào, nhiệm vụ của cách mạng Lào, QĐND Lào và đơn vị; bồi
dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng và lối sống cao đẹp của người cán bộ
quân đội và kiên quyết đấu tranh với những quan điểm, tư tưởng phản
động, sai trái của các thế lực thù địch.
Neang Phat (2017), “Xây dựng đội ngũ cán bộ Quân đội Hoàng gia
Campuchia hiện nay” [89]. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của Quân đội
Hoàng gia Campuchia; tác giả đã khái quát nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ
Quân đội Hoàng gia Campuchia; xác định những yêu cầu cơ bản về số lượng,
cơ cấu, phẩm chất và năng lực, phương pháp, tác phong công tác của đội ngũ
cán bộ Quân đội Hoàng gia Campuchia; trong đó tác giả nhấn mạnh đội ngũ
cán bộ Quân đội Hoàng gia Campuchia phải có BLCT trung kiên, tuyệt đối
trung thành với nhà Vua, với đất nước và Quân đội Hoàng gia; có phẩm chất
đạo đức, lống sống phù hợp với truyền thống của dân tộc. Tác giả luận giải
làm rõ 04 vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng đội ngũ cán bộ Quân đội
Hoàng gia Campuchia và xác định 04 nhóm tiêu chí đánh giá xây dựng đội
ngũ cán bộ Quân đội Hoàng gia Campuchia. Đánh giá thực trạng, chỉ rõ
nguyên nhân của những ưu điểm và hạn chế, khuyết điểm trong xây dựng đội
ngũ cán bộ Quân đội Hoàng gia Campuchia. Tổng kết 04 kinh nghiệm có giá
trị vận dụng xây dựng đội ngũ cán bộ Quân đội Hoàng gia Campuchia. Xác
định 05 yêu cầu và đề xuất 06 giải pháp tăng cường xây dựng đội ngũ cán bộ
Quân đội Hoàng gia Campuchia hiện nay.
1.2. Các công trình nghiên cứu ở trong nước có liên
quan đến đề tài luận án
1.2.1. Các công trình nghiên cứu về công tác giáo
dục chính trị tư tưởng, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo
đức của cán bộ, chiến sĩ, vận động viên
Dương Văn Lượng (1994), “Nâng cao phẩm chất chính trị quân nhân



12

của Quân đội nhân dân Việt Nam trong giai đoạn mới” [72]. Dưới góc độ
triết học, luận án cho rằng PCCT trong QĐND Việt Nam là phẩm chất xã hội
cơ bản, chủ đạo trong hệ thống phẩm chất nhân cách quân nhân, phản ánh
chất lượng và giá trị của quân nhân về mặt giác ngộ giai cấp, giác ngộ dân tộc
được hình thành trong quá trình quân nhân hoạt động chiến đấu, giáo dục rèn
luyện và tham gia các quan hệ xã hội. Luận án khẳng định, nhờ có giác ngộ
chính trị cao, có tình cảm cách mạng trong sáng, có BLCT vững vàng mà
quân nhân sẵn sàng chiến đấu quên mình vì sự nghiệp cách mạng của Đảng,
của giai cấp, của dân tộc. Trong hệ giải pháp, tác giả tập trung phân tích việc
đổi mới, nâng cao chất lượng GDCT tư tưởng; xây dựng môi trường chính trị
thuận lợi; đấu tranh ngăn chặn sự “xâm lăng” của môi trường tư sản để bồi
dưỡng tri thức, nâng cao tình cảm, ý chí, niềm tin, lý tưởng cách mạng và những
PCCT, đạo đức phù hợp yêu cầu, nhiệm vụ của quân đội giai đoạn hiện nay.
Lê Duy Chương (2008), “Một số vấn đề về nâng cao chất lượng giáo
dục chính trị cho hạ sĩ quan, binh sĩ ở đơn vị cơ sở” [20]. Cuốn sách của tác
giả đã nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn về GDCT cho hạ sĩ quan,
binh sĩ. Tác giả đã luận giải quan niệm về GDCT cho hạ sĩ quan, binh sĩ; nội
dung chất lượng GDCT và đưa ra hệ thống tiêu chí đánh giá chất lượng
GDCT cho hạ sĩ quan, binh sĩ; thực trạng chất lượng của chủ thể và chất
lượng của hạ sĩ quan, binh sĩ; rút ra nguyên nhân và tổng kết những kinh
nghiệm. Đặc biệt, cuốn sách đã chỉ ra đặc điểm tác động, phương hướng, yêu
cầu nâng cao chất lượng GDCT và đề xuất những giải pháp nâng cao chất
lượng công tác GDCT cho hạ sĩ quan, binh sĩ ở đơn vị cơ sở hiện nay, gồm:
Tiếp tục đổi mới chương trình, nội dung, hình thức và phương pháp GDCT;
phát huy vai trò của tổ chức đảng, CQCT, ĐNCB chính trị và các tổ chức quần
chúng ở đơn vị cơ sở chiến đấu; phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức, các lực
lượng trong và ngoài quân đội đối với việc nâng cao chất lượng GDCT cho hạ sĩ
quan, binh sĩ ở các đơn vị cơ sở chiến đấu hiện nay.



13

Lê Ngọc Trung (2012), “Nghiên cứu thực trạng và giải pháp giáo
dục đạo đức cho vận động viên Việt Nam trong thời kỳ hội nhập ” [126].
Tác giả đã khái quát quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quan điểm của
Đảng, Nhà nước, ngành TDTT về giáo dục đạo đức cho VĐV TDTT. Tập
trung nghiên cứu khung lý luận về đạo đức và đạo đức thể thao; các yếu tố
tác động và quy định đạo đức thể thao VĐV. Đồng thời đánh giá thực
trạng công tác giáo dục đạo đức; xây dựng tiêu chí đánh giá và quy trình
thực hiện các tiêu chí giáo dục đạo đức thể thao cho VĐV; trên cơ sở đó
luận án đề xuất 04 nhóm giải pháp giáo dục đạo đức thể thao Việt Nam
trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
Trương Thành Trung (2012), “Đổi mới nội dung, phương thức công tác
tư tưởng trong Quân đội nhân dân Việt Nam thời kỳ mới” [127]. Đề tài đã đưa
ra quan niệm đổi mới nội dung, phương thức công tác tư tưởng trong QĐND
Việt Nam. Trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng, chỉ ra nguyên nhân, rút ra 5
bài học kinh nghiệm đổi mới nội dung, phương thức công tác tư tưởng trong
quân đội; dự báo về các nhân tố tác động tiêu cực đến tư tưởng của cán bộ, chiến
sĩ trong thời gian tới. Đề tài nhận định “Đối với chiến sĩ, khi không giác ngộ sâu
sắc mục tiêu, lý tưởng chiến đấu thì dễ có tư tưởng ngại phục vụ quân đội, không
sẵn sàng hy sinh, cống hiến cho sự nghiệp cách mạng” [127, tr.102]. Trên cơ sở
đó, đề xuất 07 nhóm giải pháp, đó là: Đổi mới tư duy của các chủ thể lãnh
đạo; đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận đáp ứng những đòi hỏi
của công tác tư tưởng trong quân đội thời kỳ mới; hoàn thiện quy trình,
phương pháp quản lý và giải quyết tư tưởng của bộ đội ở đơn vị cơ sở; đẩy
mạnh xây dựng môi trường văn hóa và tổ chức tốt đời sống vật chất, tinh thần
của bộ đội; xây dựng và phát huy sức mạnh của ĐNCB chuyên trách; các tổ
chức quần chúng và gắn đổi mới nội dung, phương thức công tác tư tưởng với

đổi mới công tác tổ chức, công tác chính sách và từng bước hiện đại hóa trang
bị, phương tiện công tác tư tưởng.


14

Bộ Quốc phòng (2013) “Đổi mới công tác giáo dục chính trị tại đơn vị
trong giai đoạn mới” [09]. Đề án xác định 04 nguyên tắc đổi mới là: Phải
quán triệt và thực hiện đúng quan điểm, đường lối, nghị quyết, chỉ thị của
Đảng, nguyên tắc công tác tư tưởng, phục vụ cho nhiệm vụ chính trị của Quân
đội, đơn vị. Đổi mới toàn diện, có trọng điểm, phù hợp với đặc điểm các đối
tượng giáo dục, với tình hình, yêu cầu nhiệm vụ của đơn vị, đồng bộ với
nhiệm vụ huấn luyện chiến đấu và các nhiệm vụ của quân đội trong tình hình
mới. Đổi mới trên cơ sở kế thừa, phát triển các nội dung, hình thức, phương
pháp đã có, bảo đảm thiết thực, chất lượng và hiệu quả. Tiến hành đồng bộ
các giải pháp, đột phá vào công tác lãnh đạo, chỉ đạo, phát huy sức mạnh tổng
hợp để nâng cao chất lượng GDCT. Về nội dung đổi mới, đề án xác định tập
trung đổi mới chương trình, nội dung GDCT; đổi mới hình thức, phương pháp
GDCT và đổi mới về công tác đầu tư, bảo đảm.
Phạm Ngọc Viễn (2014)“Tâm lý vận động viên thể thao” [142]. Cuốn
sách đi sâu phân tích bản chất tâm lý VĐV thể thao; những nhân tố của tâm lý
VĐV thể thao. Đặc biệt cuốn sách còn chỉ rõ những trạng thái tâm lý phổ biến
của VĐV thể thao và phương pháp điều chỉnh tâm lý VĐV thể thao, như
phương pháp điều chỉnh tâm trạng, phương pháp tư vấn tâm lý và phương
pháp trị liệu tâm lý cho VĐV thể thao. Khi bàn về tâm lý hoạt động thể thao,
tác giả cho rằng “Bản chất tâm lý của một môn thể thao là sự tồn tại khách
quan, không phụ thuộc vào thái độ và ý chủ quan của những người tham gia.
Mỗi VĐV luôn phải không ngừng tập luyện để đáp ứng được yêu cầu tâm lý
có tính đặc trưng riêng ở từng môn thể thao đã quy định” [142, tr.69]
Trường Sĩ quan Chính trị (2015), “Đổi mới môn học giáo dục chính trị

trong đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giai
đoạn mới” [128]. Cuốn Kỷ yếu Hội thảo khoa học đề cập khá sâu sắc, toàn
diện và khoa học về vị trí, vai trò, tính cấp thiết và những giải pháp đổi mới
chương trình, nội dung môn học GDCT trong đào tạo CBCT cấp phân đội


15

hiện nay. Có nhiều bài viết nghiên cứu, làm rõ thực trạng chất lượng công tác
GDCT tại đơn vị cơ sở và hạn chế trong bồi dưỡng kỹ năng thực hành GDCT
của người học, nhất là kiến thức thực hành GDCT gắn với những yêu cầu, nội
dung đổi mới GDCT trong Đề án của BQP. Ngoài ra, các bài viết còn tập
trung nghiên cứu, đề xuất các giải pháp bồi dưỡng nâng cao năng lực, kỹ năng
chuẩn bị và thực hành giảng bài chính trị; kỹ năng sư phạm, kỹ năng quản lý
và tổ chức học tập chính trị, nhất là phải biết “dạy, kèm, lo, kết, mở”; kỹ năng
sử dụng phương tiện dạy học hiện đại trong GDCT hiện nay.
Nguyễn Đắc Vinh (2015), “Nâng cao nhận thức chính trị, lý tưởng
sống đúng đắn, ý thức trách nhiệm sống với cộng đồng trong thanh niên,
xứng đáng truyền thống tự hào của cha anh” [143]. Tác giả nhấn mạnh, với
vị trí, vai trò là chủ nhân tương lai của nước nhà, yêu cầu đặt ra với thanh niên
Việt Nam là “Nâng cao ý thức chính trị; quan tâm và có trách nhiệm hơn đối
với những vấn đề của quê hương, đất nước...; năng động, chủ động học hỏi
những cái mới, cái tiến bộ của nhân loại; chủ động và tự tin hơn trong quá
trình hội nhập quốc tế” [143, tr.37].
Đỗ Duy Môn (2015), “Nâng cao chất lượng giáo dục chính trị cho hạ
sĩ quan, chiến sĩ ở các đơn vị cơ sở theo phương pháp hỏi - đáp” [85]. Tác
giả đi sâu bàn về bài giảng chính trị theo phương pháp hỏi - đáp và khẳng
định đây là phương pháp GDCT giữ vị trí chủ đạo trong quá trình huấn luyện,
giáo dục ở đơn vị. Để nâng cao chất lượng giảng bài chính trị, theo tác giả cần
phải thiết kế bài giảng bảo đảm mang tính vừa sức, phù hợp đối tượng; phát

huy vai trò chủ động trong chuẩn bị bài giảng và thực hành giảng của cán bộ
GDCT; khuyến khích tự giác học tập của hạ sĩ quan, binh sĩ.
Lê Huy Bình (2016), “Nâng cao chất lượng giáo dục chính trị trong quân
đội hiện nay” [17]. Tác giả khái quát vị trí, vai trò của GDCT trong quân đội.
Đồng thời chỉ ra, trước yêu cầu xây dựng quân đội trong thời kỳ đẩy mạnh công


16

nghiệp hóa, hiện đại hóa, đòi hỏi công tác GDCT cần làm tốt trên cả hai phương
diện: giáo dục khoa học xã hội và nhân văn cho các đối tượng học viên đào tạo
trong các nhà trường theo nội dung, chương trình Quy định 917 và làm tốt công
tác giáo dục thường xuyên cho cán bộ, chiến sĩ, quân nhân chuyên nghiệp, CNV
quốc phòng, lao động quốc phòng theo chương trình chung. Đưa ra một số giải
pháp cơ bản nâng cao chất lượng GDCT trong quân đội hiện nay là: phải tăng
cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, chính ủy, CTV và người chỉ huy đối
với công tác GDCT; thường xuyên nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ GDCT,
quản lý và cơ quan tham mưu về công tác GDCT; không ngừng đổi mới nội dung,
hình thức, phương pháp GDCT; thực hiện tốt công tác kiểm tra, đánh giá kết quả
GDCT; đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác GDCT.
Tạ Hữu Hùng (2016), “Nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính
trị của trung đội trưởng ở đơn vị cơ sở” [68]. Tác giả bài báo cho rằng: trung
đội trưởng là người quản lý, chỉ huy huấn luyện, rèn luyện bộ đội, vừa là
người giữ vai trò nòng cốt, trực tiếp tiến hành công tác GDCT ở trung đội, là
tổ trưởng tổ học tập chính trị ở đại đội, trực tiếp tổ chức chuẩn bị và tổ chức
thực hành, điều khiển thảo luận học tập chính trị, nếu được bồi dưỡng và phát
huy tốt sẽ góp phần nâng cao chất lượng GDCT ở đại đội. Tuy nhiên, bài báo
chưa đề cập đến vai trò của trung đội trưởng thông qua quá trình tổ chức các
hoạt động thảo luận, mạn đàm, trao đổi, tự học ở tổ học tập; phát hiện những
bất cập, hạn chế trong tổ chức, cũng như nắm những ý kiến phản hồi của cán

bộ, chiến sĩ và bản thân về năng lực GDCT của CTV.
Nguyễn Văn Minh (2017), “Thực hiện nhiều biện pháp nâng cao chất
lượng giáo dục, quản lý tư tưởng chiến sĩ mới” [84]. Tác giả cho rằng chiến sĩ
mới ở độ tuổi thanh niên, tâm sinh lý đang trong giai đoạn phát triển mạnh, dễ
thay đổi và dễ bị tổn thương; phần lớn lần đầu xa gia đình và tham gia các
hoạt động đặc thù của môi trường quân sự; kiến thức xã hội, kinh nghiệm


17

sống và kỹ năng mềm còn hạn chế; trình độ văn hóa không đồng đều, hội tụ
từ nhiều vùng miền với nhiều phong tục tập quán khác nhau, vì vậy cần phải
thực hiện nhiều biện pháp giáo dục, quản lý tư tưởng đối với họ. Tác giả cho
rằng, đối với ĐNCB, nhất là cán bộ tiểu đội, trung đội là những người cùng
ăn, ngủ, sinh hoạt, học tập; thường xuyên và trực tiếp giáo dục, quản lý tư
tưởng chiến sĩ mới, cần nắm chắc hoàn cảnh từng người, nhất là chiến sĩ là
người dân tộc thiểu số, những trường hợp cá biệt.
1.2.2. Các công trình nghiên cứu về xây dựng, nâng cao bản lĩnh
chính trị, chất lượng chính trị của quân nhân Quân đội nhân dân Việt nam
Nguyễn Đình Tu (1996), “Nâng cao bản lĩnh chính trị của sỹ quan trẻ
Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” [129]. Tác giả quan niệm BLCT của
sỹ quan trẻ là một phẩm chất xã hội cơ bản, chủ đạo trong nhân cách, là
PCCT tinh thần phản ánh mặt giác ngộ giai cấp, giác ngộ dân tộc, là PCCT đã
phát triển đến một trình độ nhất định làm cho sỹ quan trẻ tự quyết định một
cách độc lập, sáng tạo ý nghĩ và hành vi chính trị của mình. Tác giả luận án đã
phân tích thấu đáo, cụ thể thực trạng BLCT của sỹ quan trẻ và đề xuất các giải
pháp vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt, vừa có ý nghĩa cơ bản lâu dài là: gia
tăng hàm lượng trí tuệ trong BLCT của sỹ quan trẻ quân đội ta hiện nay; tăng
cường rèn luyện năng lực, kinh nghiệm hoạt động chính trị thực tiễn cho đội
ngũ sỹ quan trẻ; dân chủ hóa xã hội chủ nghĩa đời sống chính trị - tinh thần của

xã hội và quân đội để nâng cao BLCT của sỹ quan trẻ quân đội ta hiện nay.
Trần Danh Bích (2004), “Nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực hoạt
động thực tiễn của cán bộ chủ trì công tác đảng, công tác chính trị ở đơn vị
cơ sở” [16]. Theo tác giả, BLCT của cán bộ chủ trì CTĐ, CTCT là một phẩm
chất xã hội cơ bản, chủ đạo trong nhân cách. Để nâng cao BLCT, năng lực
hoạt động thực tiễn của cán bộ chủ trì CTĐ, CTCT ở đơn vị cơ sở hiện nay
cần quán triệt và thực hiện tốt một số giải pháp: tạo bước chuyển biến cơ bản
trong nhận thức về vị trí, vai trò và yêu cầu xây dựng ĐNCB chủ trì CTĐ,


18

CTCT ở đơn vị cơ sở; tiếp tục đổi mới, thực hiện tốt các khâu, các bước của
quy trình đào tạo CBCT tại các nhà trường quân đội; phát huy vai trò của các
tổ chức, kết hợp với đẩy mạnh tự học, tự rèn luyện để nâng cao BLCT, năng
lực hoạt động thực tiễn của cán bộ chủ trì CTĐ, CTCT ở đơn vị cơ sở.
Phạm Tuân (2005), “Xây dựng bản lĩnh chính trị, phẩm chất cách
mạng cho cán bộ, công nhân viên, chiến sĩ quân đội làm kinh tế” [130].
Nghiên cứu về BLCT, phẩm chất cách mạng của cán bộ, công nhân viên,
chiến sĩ quân đội làm kinh tế, đề tài đặt trong tổng thể những vấn đề chung về
xây dựng BLCT của giai cấp công nhân Việt Nam; của chương trình xây dựng
quân đội về chính trị trong giai đoạn cách mạng mới. Đề tài luận giải chuyên
sâu về những đặc thù trong định hướng lãnh đạo chính trị đối với các đơn vị
làm kinh tế của quân đội và đề xuất sáu nhóm giải pháp cơ bản là: xây dựng
tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh; đẩy mạnh công tác GDCT, lãnh đạo tư
tưởng nâng cao trình độ năng lực chuyên môn và năng lực quản lý kinh tế,
giáo dục truyền thống, pháp luật và kỷ luật quân đội; tổ chức và xây dựng môi
trường kinh tế, văn hóa, xã hội lành mạnh; tăng cường vai trò của tổ chức công
đoàn và xây dựng thiết chế dân chủ; xây dựng ĐNCB, công nhân viên và đẩy
mạnh công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong các doanh nghiệp quân đội.

Viện Khoa học Xã hội và Nhân văn quân sự (2006), “Nâng cao chất
lượng chính trị của đội ngũ cán bộ, nhân viên, công nhân kỹ thuật ở các
doanh nghiệp thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng” [139]. Đề tài chỉ rõ,
CLCT của ĐNCB, nhân viên, công nhân kỹ thuật ở các doanh nghiệp thuộc
Tổng cục Công nghiệp quốc phòng là nhân tố cơ bản trong chất lượng tổng
hợp, xây dựng ĐNCB, nhân viên, công nhân kỹ thuật vững mạnh. Trên cơ sở
khảo sát thực trạng ở các doanh nghiệp thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc
phòng, chỉ rõ những yếu tố tác động trực tiếp đến CLCT và yêu cầu về CLCT
của ĐNCB, nhân viên, công nhân kỹ thuật; đề tài đề xuất 04 nhóm giải pháp
cơ bản, gồm: phát huy vai trò của các cấp ủy đảng, người chỉ huy, đội ngũ


19

CBCT và CQCT; phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng ở các doanh
nghiệp; nâng cao chất lượng tuyển chọn, quản lý, GDCT tư tưởng, kết hợp
với rèn luyện nâng cao tay nghề của ĐNCB, nhân viên, công nhân kỹ thuật và
hoàn thiện cơ chế chính sách, chăm lo đời sống, cải thiện môi trường học tập,
rèn luyện của ĐNCB, nhân viên, công nhân kỹ thuật.
Đỗ Mạnh Hòa (2011), “Nâng cao chất lượng chính trị của lực lượng
dân quân tự vệ hiện nay” [66]. Kết quả nghiên cứu của đề tài đã chỉ rõ nâng
cao CLCT của lực lượng dân quân tự vệ là làm tăng thêm giá trị của các yếu
tố cấu thành CLCT của lực lượng dân quân tự vệ. Để nâng cao CLCT của lực
lượng dân quân tự vệ hiện nay, cần thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các giải
pháp cơ bản, đó là: Nâng cao nhận thức trách nhiệm; phát huy vai trò của các
chủ thể trong nâng cao CLCT của lực lượng dân quân tự vệ. Tăng cường sự
lãnh đạo của cấp ủy Đảng, sự quản lý, điều hành của chính quyền và sự chỉ
huy trực tiếp của cơ quan quân sự địa phương và tham mưu của các ban
ngành, đoàn thể trong xây dựng lực lượng dân quân tự vệ về chính trị.
Thường xuyên quan tâm nâng cao chất lượng tổng hợp của lực lượng dân

quân tự vệ, trước hết là CLCT. Phát huy sức mạnh của các địa phương, cơ
quan, doanh nghiệp bảo đảm thực hiện đầy đủ các chế độ, chính sách của
Đảng, Nhà nước đối với lực lượng dân quân tự vệ hiện nay.
Nguyễn Tiến Chung (2013), “Nâng cao chất lượng chính trị của lực lượng
dân quân tự vệ Quân khu 1 giai đoạn hiện nay” [19]. Luận án đã đi sâu phân tích và
đưa ra quan niệm CLCT của lực lượng dân quân tự vệ Quân khu 1 là tổng hoà của ý
thức, hệ tư tưởng chính trị, PCCT, quan hệ chính trị, năng lực chính trị của từng cán
bộ, chiến sỹ và đội ngũ, được thể hiện ra ở các hoạt động chính trị thực tiễn thực hiện
chức năng, nhiệm vụ chính trị của lực lượng dân quân tự vệ Quân khu 1. Để nâng
cao CLCT của lực lượng dân quân tự vệ Quân khu 1 cần giữ vững và tăng cường sự
lãnh đạo của cấp uỷ đảng; sự quản lý điều hành của chính quyền địa phương các cấp;
phát huy sức mạnh tổng hợp, gắn nâng cao CLCT của lực lượng dân quân tự vệ với


20

xây dựng địa phương vững mạnh; kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng PCCT, đạo đức lối
sống với đấu tranh chống các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch tác động đến
ý thức chính trị của lực lượng dân quân tự vệ Quân khu 1.
Nguyễn Văn Tương (2015), “Nghiên cứu nâng cao bản lĩnh chính trị
của Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam trong thời kỳ mới” [133]. Với đặc thù
của lực lượng chấp pháp trên biển, đề tài tập trung phân tích đặc điểm tình
hình trên biển và nhiệm vụ của Lực lượng Cảnh sát biển, từ đó làm rõ hơn
tính đặc thù về nâng cao BLCT của Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam. Đề tài
đã xây dựng bộ tiêu chí, nguyên tắc và những yêu cầu cụ thể trong nâng cao
BLCT của Lực lượng Cảnh sát biển. Khi nâng cao BLCT của Lực lượng Cảnh
sát biển phải quán triệt các quan điểm của Đảng về xây dựng lực lượng vũ
trang vững mạnh về chính trị; phải gắn chặt với các yếu tố tạo thành sức mạnh
chiến đấu của Lực lượng Cảnh sát biển; với đấu tranh phòng chống âm mưu
“phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang nhân dân của các thế lực thù địch.

1.3. Khái quát kết quả chủ yếu của các công trình đã công bố liên
quan đến đề tài và những vấn đề luận án tập trung giải quyết
1.3.1. Khái quát kết quả chủ yếu những công trình khoa học đã công
bố liên quan đến đề tài luận án
Nhìn một cách tổng quát, từ nhiều góc độ khác nhau, các công trình
nghiên cứu ở ngoài nước, trong nước có liên quan đến đề tài luận án, đã phân
tích làm rõ một số vấn đề trên những nội dung chủ yếu sau:
Một là, các công trình nghiên cứu ở ngoài nước và trong nước đã phân
tích khá sâu sắc, toàn diện quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, của các
Đảng Cộng sản, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về CTĐ, CTCT trong lực lượng vũ trang; về xây dựng, phát huy nhân tố
chính trị tinh thần, nâng cao ý chí chiến đấu, BLCT của quân nhân; khẳng định
tầm quan trọng và tính cấp thiết của việc nâng cao CLCT của cán bộ, chiến sĩ.


21

Hai là, một số công trình khoa học đã tập trung khái quát, luận giải làm
rõ những vấn đề cơ bản về CLCT, đưa ra quan niệm, luận giải vai trò, xác
định những yếu tố cấu thành và biểu hiện của CLCT của con người, tổ chức
trong lực lượng vũ trang; đề xuất, luận giải các giải pháp nâng cao CLCT của
cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang.
Ba là, một số công trình khoa học đã khái quát, luận giải làm rõ đặc
điểm của hoạt động thể thao thành tích cao, tâm lý VĐV và khẳng định tính
tất yếu phải tăng cường GDCT tư tưởng, đạo đức nghề nghiệp, ý thức tổ chức
kỷ luật và tinh thần cống hiến vì màu cờ sắc áo của Tổ quốc đối với VĐV.
Bốn là, một số công trình đã điều tra, khảo sát thực tế, đánh giá đúng
thực trạng CLCT và nâng cao CLCT cho cán bộ, chiến sĩ, lực lượng dân quân
tự vệ; chỉ rõ nguyên nhân và rút ra một số kinh nghiệm giáo dục, rèn luyện nâng
cao CLCT của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang và giáo dục đạo đức cho VĐV

Việt Nam trong thời kỳ hội nhập.
Năm là, một số công trình khoa học đã nghiên cứu, dự báo sự phát triển
của tình hình, chỉ rõ yếu tố tác động đến CLCT và nâng cao CLCT của cán
bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang; xác định phương hướng, yêu cầu và đề xuất
các giải pháp nâng cao CLCT của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang và giáo
dục nâng cao đạo đức, lối sống, ý thức tổ chức kỷ luật cho VĐV.
Kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học trên đây là những tài
liệu tham khảo có giá trị cả về lý luận và thực tiễn, là cứ liệu quan trọng mà
nghiên cứu sinh có thể kế thừa phát triển trong quá trình thực hiện đề tài luận
án. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một
cách cơ bản, hệ thống về nâng cao CLCT của VĐV ở các trung tâm TDTT
trong quân đội dưới góc độ khoa học chuyên ngành xây dựng Đảng và chính
quyền Nhà nước. Vì vậy, đề tài “Nâng cao chất lượng chính trị của vận
động viên ở các trung tâm thể dục thể thao trong quân đội giai đoạn hiện
nay” là công trình khoa học độc lập, không trùng lặp với các công trình khoa
học đã nghiệm thu công bố, các luận án đã bảo vệ.
1.3.2. Những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục giải quyết


22

Một là, luận giải làm rõ một số vấn đề cơ bản về VĐV ở các trung tâm
TDTT trong quân đội; khái quát và luận giải quan niệm CLCT của VĐV ở các
trung tâm TDTT trong quân đội; các yếu tố tạo thành, vai trò và biểu hiện
CLCT của VĐV ở các trung tâm TDTT trong quân đội.
Hai là, luận giải, làm rõ những vấn đề về nâng cao CLCT của VĐV ở
các trung tâm TDTT trong quân đội. Xây dựng quan niệm, luận giải làm rõ
nội hàm quan niệm và nội dung, hình thức, biện pháp nâng cao CLCT; xác
định những vấn đề có tính nguyên tắc nâng cao CLCT và tiêu chí đánh giá
nâng cao CLCT của VĐV ở các trung tâm TDTT trong quân đội.

Ba là, nghiên cứu, điều tra, khảo sát thực tiễn, thu thập tư liệu, số liệu;
đánh giá đúng thực trạng nâng cao CLCT của VĐV ở các trung tâm TDTT
quân đội; chỉ rõ những nguyên nhân ưu điểm, hạn chế khuyết điểm; tổng kết một
số kinh nghiệm nâng cao CLCT của VĐV ở các trung tâm TDTT quân đội.
Bốn là, phân tích sự tác động của tình hình thế giới, khu vực và trong
nước; nhiệm vụ của Quân đội; định hướng phát triển của ngành TDTT và
nhiệm vụ của các trung tâm TDTT quân đội đến nâng cao CLCT của VĐV;
xác định yêu cầu nâng cao CLCT của VĐV ở các trung tâm TDTT quân đội
giai đoạn hiện nay.
Năm là, nghiên cứu đề xuất những giải pháp nâng cao CLCT của
VĐV ở các trung tâm TDTT trong quân đội giai đoạn hiện nay. Trong từng
giải pháp sẽ làm rõ vị trí, ý nghĩa, cơ sở lý luận, thực tiễn và nội dung, hình
thức, biện pháp cụ thể thực hiện.


23

Kết luận chương 1
Xuất phát từ vai trò quan trọng của CLCT đối với sức mạnh chiến đấu
của quân đội và sức mạnh bảo vệ đất nước của các quốc gia, dân tộc, nên vấn
đề chính trị, CLCT và nâng cao CLCT đối với cán bộ, chiến sĩ trong lực
lượng vũ trang luôn được các nhà khoa học trên thế giới và trong nước quan
tâm, nghiên cứu. Từ nhiều góc độ khác nhau, các đề tài khoa học, luận án và
các bài báo khoa học ở cả trong nước và ngoài nước đã đề cập đến một số vấn
đề về CLCT, nâng cao CLCT của một số đối tượng cán bộ, chiến sĩ ở một số
loại hình tổ chức thuộc lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân. Đây
là nguồn tài liệu quý, gợi mở cho nghiên cứu sinh ở các cấp độ khác nhau về
định hướng nghiên cứu đề tài luận án, những vấn đề có thể kế thừa phù hợp
với đối tượng, phạm vi nghiên cứu, những vấn đề cần tiếp tục bổ sung, phát
triển nhằm thực hiện nội dung nghiên cứu được xác định.

Thông qua kết quả tổng quan các công trình ở nước ngoài và trong
nước có liên quan đến đề tài luận án cho thấy, mỗi công trình khoa học có đối
tượng, phạm vi, phương pháp nghiên cứu cụ thể khác nhau nhưng đều khẳng
định vai trò, tầm quan trọng của CLCT, nâng cao CLCT của quân nhân. Một
số công trình đã đề cập đến quan niệm, nội dung, hình thức, biện pháp nâng
cao CLCT của quân nhân, nhưng cho tới nay chưa có công trình nào đi sâu
nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện, chuyên sâu về “Nâng cao chất
lượng chính trị của vận động viên ở các trung tâm thể dục thể thao trong
quân đội giai đoạn hiện nay” dưới góc độ chuyên ngành xây dựng Đảng và
chính quyền Nhà nước. Vì vậy, đề tài luận án là công trình nghiên cứu độc
lập, không trùng lặp với các công trình khoa học nào đã được công bố.


24

Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG CHÍNH TRỊ CỦA VẬN ĐỘNG VIÊN Ở CÁC TRUNG TÂM THỂ
DỤC THỂ THAO TRONG QUÂN ĐỘI

2.1. Vận động viên và chất lượng chính trị của vận động viên ở các
trung tâm thể dục thể thao trong quân đội
2.1.1. Vận động viên ở các trung tâm thể dục thể thao trong
quân đội
* Các trung tâm thể dục thể thao trong quân đội
Tổ chức, biên chế của các trung tâm TDTT trong quân đội
Các trung tâm TDTT trong quân đội được thành lập theo quyết định
của Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu, hoặc tư lệnh quân khu, bao gồm
Trung tâm TDTT quân đội (TT1) trực thuộc Cục Quân huấn BTTM, Trung
tâm TDTT quốc phòng 2 (TT2) trực thuộc Quân khu 7, Trung tâm TDTT

quốc phòng 3 (TT3) trực thuộc Quân khu 5, Trung tâm TDTT quốc phòng 4
(TT4) trực thuộc Quân khu 9, Trung tâm TDTT quốc phòng 5 (TT5) trực
thuộc Quân chủng Hải quân.
Hiện nay, các trung tâm TDTT trong quân đội trực tiếp quản lý 27 đội
thể thao thành tích cao, thuộc 22 bộ môn gồm: bắn súng, bi sắt, bóng bàn,
bóng chuyền nam trong nhà, bơi, cờ vua, cầu lông, điền kinh, karatedo, kich
Boxing, lặn, pencaksilat, judo, quần vợt, quyền anh, taekwondo, thể dục dụng
cụ, vật, vovinam, võ cổ truyền, wushu (tán thủ), xe đạp, với tổng số 937 VĐV,
trong đó có 274 VĐV là quân nhân, công nhân viên quốc phòng, 663 VĐV
chưa được tuyển dụng vào biên chế quân đội.
Các trung tâm TDTT trong quân đội được biên chế, gồm: ban giám
đốc, cơ quan chuyên môn, cơ quan chính trị, cơ quan hành chính - hậu cần dịch vụ, tài chính và các đội thể thao. Ban Giám đốc có giám đốc, CTV và
phó giám đốc chuyên môn. Có 02 trung tâm được biên chế ban chính trị, gồm
trưởng ban và trợ lý chính trị, 03 trung tâm còn lại được biên chế trợ lý chính


×