Tải bản đầy đủ (.pdf) (147 trang)

Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo xây dựng và củng cố chính quyền từ năm 1954 đến năm 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 147 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

TRẦN XUÂN TĂNG

ĐẢNG BỘ TỈNH NAM ĐỊNH LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG VÀ
CỦNG CỐ CHÍNH QUYỀN TỪ NĂM 1954 ĐẾN NĂM 1975

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Hà Nội - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

TRẦN XUÂN TĂNG

ĐẢNG BỘ TỈNH NAM ĐỊNH LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG VÀ
CỦNG CỐ CHÍNH QUYỀN TỪ NĂM 1954 ĐẾN NĂM 1975

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60220315

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS CAO VĂN LIÊN

Hà Nội - 2014




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu
trong Luận văn là hoàn toàn trung thực, chƣa từng đƣợc công bố trong bất kỳ công
trình nào của các tác giả khác.
Tác giả Luận văn
Trần Xuân Tăng


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành đề tài này, ngoài sự cố gắng của bản thân tôi đã nhận đƣợc rất
nhiều sự quan tâm giúp đỡ nhiệt tình của thầy cô, bạn bè, ngƣời thân và đồng
nghiệp.
Trƣớc tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo trong Khoa
Lịch sử trƣờng Đại học

hoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học

uốc gia

à Nội

Các thầy, cô giáo đã tham gia giảng dạy, trang bị những kiến thức bổ ích trong suốt
thời gian học tập.
Đặc biệt, tôi xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Cao Văn Liên ngƣời đã tận tình hƣớng dẫn giúp đỡ và động viên tôi trong quá trình thực hiện đề
tài và hoàn thành bản Luận văn này
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ về tƣ liệu của cán bộ Thƣ viện tỉnh

Nam Định, Văn phòng Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định, Cục Thống kê
tỉnh Nam Định, Sở Nội vụ tỉnh Nam Định, Trung tâm lƣu trữ Quốc Gia… đã giúp
đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn tới gia đình, tất cả ngƣời thân, bạn bè, những
ngƣời luôn bên cạnh động viên giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện đề
tài.
Hà Nội, ngày 30 tháng 11 năm 2014
Học viên

Trần Xuân Tăng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .....................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................................2
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn ...........................................................................4
4 Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ...........................................................................5
5 Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu .....................................5
6 Đóng góp của luận văn ............................................................................................6
7. Kết cấu của luận văn ...............................................................................................6
Chƣơng 1: Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo xây dựng và củng cố chính quyền
từ năm 1954 đến năm 1965 .......................................................................................7
1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chính
quyền nhà nước ..........................................................................................................7
1.1.1 uan điểm của C.Mác về chính quyền nhà nƣớc...............................................7
1 1 2 uan điểm của V.I.Lênin về chính quyền nhà nƣớc........................................16
1 1 3 Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về chính quyền nhà nƣớc ...........................................20
1.2 Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo xây dựng và củng cố chính quyền từ năm
1954 đến năm 1965 ..................................................................................................25

1.2.1 Khái quát tình hình tỉnh Nam Định trước năm 1954 .......................................25
1.2.1.1 Vài nét về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và lịch sử tỉnh Nam Định tác
động đến quá trình xây dựng và củng cố chính quyền..............................................25
1.2.1.2 Khái quát về quá trình xây dựng và củng cố chính quyền ở tỉnh Nam Định
trƣớc năm 1954 .........................................................................................................31
1.2.2 Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Nam Định về xây dựng và củng cố chính quyền
từ năm 1954 đến năm 1965 .......................................................................................47
1.2.2.1 Chủ trƣơng của Đảng Cộng sản Việt Nam ...................................................47
1.2.2.2 Chủ trƣơng của Đảng bộ tỉnh Nam Định về xây dựng và củng cố chính
quyền từ năm 1954 đến năm 1965 ............................................................................50
1.2.3 Quá trình chỉ đạo xây dựng và củng cố chính quyền của Đảng bộ tỉnh Nam
Định từ năm 1954 đến năm 1965 ..............................................................................58


1.2.3.1 Xây dựng và củng cố chính quyền thực hiện nhiệm vụ tiếp quản và khôi
phục kinh tế (1954 - 1957) ........................................................................................58
1 2 3 2 Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo xây dựng và củng cố chính quyền phục vụ
công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa (1958 - 1960) ....................................................61
1 2 3 3 Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo xây dựng và củng cố chính quyền trong
thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) ..............................................68
Chƣơng 2: Công tác xây dựng và củng cố chính quyền của Đảng bộ tỉnh Nam
Hà từ năm 1965 đến năm 1975 ...............................................................................75
2.1 Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Nam Hà về xây dựng và củng cố chính quyền
giai đoạn 1965 – 1975 ..............................................................................................75
2.1.1 Bối cảnh lịch sử và chủ trƣơng chung của Đảng .............................................75
2.1.2 Chủ trƣơng của Đảng bộ tỉnh Nam Hà về xây dựng và củng cố chính quyền từ
năm 1965 đến năm 1975 ...........................................................................................88
2.2 Quá trình chỉ đạo xây dựng và củng cố chính quyền của Đảng bộ tỉnh Nam
Hà từ năm 1965 đến năm 1975 ...............................................................................92
2.2.1 Xây dựng và củng cố chính quyền đáp ứng nhiệm vụ “Vừa sản xuất, vừa chiến

đấu” (1965 - 1968) ....................................................................................................92
2 2 2 Đảng bộ tỉnh Nam à lãnh đạo xây dựng và củng cố chính quyền khôi phục
kinh tế và chiến đấu chống Mỹ, cứu nƣớc (1969 - 1972) .........................................96
2.2.3 Xây dựng củng cố chính quyền khắc phục hậu quả chiến tranh ổn định và phát
triển kinh tế - xã hội, dồn sức chi viện cho chiến trƣờng (1973 - 1975).................102
Chƣơng 3: NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM ...................................108
3.1 Nhận xét............................................................................................................108
3.1.1 Thành quả .......................................................................................................108
3.1.2 Một số hạn chế ...............................................................................................113
3.2 Một số kinh nghiệm chủ yếu............................................................................116
KẾT LUẬN ............................................................................................................119
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................123
PHỤ LỤC ...............................................................................................................131


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thực tiễn cách mạng thế giới đã chỉ ra rằng: Chính quyền là vấn đề cơ bản
của mọi cuộc cách mạng và vì vậy làm cách mạng cốt yếu là để giành chính quyền,
giữ chính quyền, kiện toàn chính quyền để dùng chính quyền ấy thực hiện nhiệm vụ
cách mạng đặt ra.
Ngay từ sau Cách mạng tháng Mƣời Nga (1917) đến nay, không một nhà
nƣớc cách mạng nào trên thế giới lại không phải đƣơng đầu với sự phản kích của kẻ
thù trong và ngoài nƣớc. Với giai cấp công nhân và nông dân việc giành chính
quyền mới chỉ là nhiệm vụ bƣớc đầu và cũng chƣa phải là nhiệm vụ khó khăn nhất.
Việc không ngừng xây dựng và củng cố chính quyền thực sự vững mạnh đủ sức tổ
chức công cuộc cải tạo xã hội, xây dựng xã hội mới, chống lại mọi thế lực thù địch
đặt ra rất nặng nề và lâu dài. Thực tiễn ở cách mạng nhiều nƣớc đã chứng minh lời
nhận định của Lênin: “Giành chính quyền đã khó, việc giữ chính quyền lại còn khó
hơn” [118, tr 380]

hi chƣa có chính quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam phải lãnh đạo giành cho
đƣợc chính quyền về tay nhân dân

hi đã có chính quyền phải luôn luôn củng cố,

giữ vững chính quyền, tăng cƣờng sức mạnh của chính quyền về mọi mặt. Nghiên
cứu về chính quyền có nhiều nội dung, trong đó nội dung về xây dựng và củng cố
chính quyền là một nội dung quan trọng.
Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra
đời. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi (1954), miền Bắc hoàn toàn
đƣợc giải phóng. Trong sự nghiệp chung của cả nƣớc, nhân dân miền Bắc nói chung
và nhân dân Nam Định nói riêng cũng bắt tay vào công cuộc hàn gắn vết thƣơng
chiến tranh, khôi phục và từng bƣớc phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội. Bên cạnh
những kết quả mà nhân dân Nam Định nói riêng đã đạt đƣợc qua các đợt cải cách
ruộng đất, sửa chữa sai lầm trong cải cách, nhất là thời kỳ 1954 – 1957 và hoàn thành
công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội trong giai
đoạn 1958 – 1960, hoàn thành thắng lợi kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965),

1


bƣớc sang thời kỳ 1965 – 1975, một thời kỳ vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa
chiến đấu bảo vệ quê hƣơng, góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Trên thực tế, công cuộc xây dựng và củng cố chính quyền dân chủ nhân dân ở Nam
Định trong giai đoạn 1954 – 1975 đã đạt đƣợc những thành tựu to lớn và để lại cho
ngày nay rất nhiều bài học mang ý nghĩa lý luận, thực tiễn sâu sắc. Việc nghiên cứu
vấn đề này nhằm lý giải một số vấn đề quá khứ đặt ra, để soi rọi vào hiện tại, đặc biệt
là trong công cuộc đổi mới hiện nay của Nam Định.
Với những lý do trên, tôi đã chọn đề tài “Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo
xây dựng và củng cố chính quyền từ năm 1954 đến năm 1975” làm đề tài cho bản

Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Về lý luận, các học thuyết về Nhà nƣớc của chủ nghĩa Mác – Lênin là một
trong những vấn đề đƣợc các nhà khoa học xã hội ở các nƣớc nghiên cứu nhiều, để
vận dụng vào cuộc đấu tranh giành và giữ chính quyền.
Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhiều lãnh đạo của Đảng và Nhà
nƣớc đã có những bài nói và viết quan trọng về củng cố, xây dựng và bảo vệ chính
quyền nhà nƣớc.
Bên cạnh đó, suốt hơn 60 năm qua kể từ ngày cách mạng tháng Tám thành
công, nƣớc Viêt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, đã có nhiều nhà nghiên cứu lịch sử
trong và ngoài nƣớc quan tâm nghiên cứu về vấn đề chính quyền và nhà nƣớc ở
Việt Nam Dƣới nhiều góc độ khác nhau, những công trình nghiên cứu đó, đã trực
tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến các vấn đề của công cuộc xây dựng và củng cố chính
quyền nhân dân.
Công trình phản ánh những vấn đề lý luận chung về chính quyền trong các
giai đoạn lịch sử. Những nghiên cứu này tƣơng đối nhiều, vì tầm quan trọng của
vấn đề giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nƣớc trong lịch sử cách mạng Việt
Nam. Có thể thấy vấn đề đƣợc đề cập trong các sách, bài viết của các đồng chí lãnh
đạo cao cấp của Đảng và Nhà nƣớc, đƣợc đề cập ít nhiều trong hầu hết các công
trình nghiên cứu về lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, về lịch sử Việt Nam hiện đại.

2


Trong các tác phẩm này, tính khái quát thực tiễn và tổng kết lý luận về giành, giữ và
xây dựng, củng cố chính quyền nhà nƣớc, trên bình diện chung và ở từng giai đoạn
lịch sử cụ thể đƣợc thể hiện một cách rõ nhất. Có thể coi đây, từ những nhận thức
chung về vấn đề chính quyền của chủ nghĩa Mác – Lênin, thực tiễn vấn đề giành
chính quyền, giữ chính quyền, xây dựng và củng cố chính quyền ở Việt Nam đƣợc
tổng kết mang ý nghĩa lý luận cao. Tiêu biểu nhƣ các công trình của: đồng chí Đỗ

Mƣời (1995), “Xây dựng và hoàn thiện chính quyền ngang tầm phát triển của đất
nước, xứng đáng với lòng tin yêu của nhân dân”, Tạp chí Cộng sản số 3; của tác giả
Thanh Sơn (1995), “50 năm xây dựng và hoàn thiện chính quyền nhân dân”, Tạp
chí Cộng sản số 11; của Hồ Chí Minh (1986), “Về Đảng cầm quyền”, Nxb Sự thật;
của Phạm Văn Đồng (1964), “Nhà nước dân chủ nhân dân Việt Nam”; của Trƣờng
Chinh (1985), “Mấy vấn đề về nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Những tác phẩm này chủ yếu đề cập đến quan điểm, đƣờng lối lãnh đạo xây dựng
chính quyền trên các phƣơng diện và là một vấn đề rất cần thiết mà luận văn có thể
kế thừa khi giải quyết đề tài.
Những công trình phản ánh những nội dung liên quan đến hoạt động của
chính quyền trong các giai đoạn lịch sử, ở các địa phƣơng cụ thể. Những nghiên cứu
này bao gồm các công trình mang tính thông sử và đặc biệt là các bộ sách về lịch sử
Đảng bộ tỉnh Nam Định nhƣ: của tác giả Lê Ngọc (1985), “Một số kinh nghiệm về
xây dựng và bảo vệ chính quyền trong 40 năm qua”, Tạp chí nghiên cứu lịch sử số
4; “Trách nhiệm nhân dân và cán bộ đối với chính quyền cách mạng”, Nxb Sƣ thật,
Hà Nội năm 1971; PGS Lê Mậu Hãn (chủ biên), “Lịch sử Quốc hội Việt Nam 1960
- 1976”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003… Những công trình này đã cung
cấp cho đề tài tƣ liệu và sự nhìn nhận mang tính khái quát về xây dựng chính quyền
nói chung.
Các công trình liên quan trực tiếp đến quá trình xây dựng, củng cố chính
quyền ở tỉnh Nam Định trong các thời kỳ. Nguồn tƣ liệu chính phục vụ cho nội
dung luận án là các tài liệu đang lƣu trữ tại trung tâm lƣu trữ Tỉnh ủy, Ủy ban nhân
dân tỉnh Nam Định, trong văn phòng Tỉnh ủy, Ban tuyên giáo Tỉnh ủy, Trung tâm

3


lƣu trữ báo Nam Định Đó là các văn bản gốc, gồm các báo cáo, các nghị quyết,
biên bản cuộc họp… của Đảng bộ tỉnh Nam Định trong những năm 1954 – 1975.
Nguồn tƣ liệu này khá phong phú và một số bộ phận quan trọng chƣa đƣợc xử lý.

Bên cạnh đó, các tƣ liệu mang tính chất tổng kết chung nhƣ: “Lịch sử Đảng bộ tỉnh
Nam Định”, tập 1+2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001.
Những phần tài liệu trên, giúp cho tôi những hiểu biết rộng hơn rõ hơn
những vấn đề lý luận chính quyền, nhà nƣớc. Những tác phẩm bài viết trên đây chủ
yếu mang tính chất tổng kết và định hƣớng cho độc giả đang tìm hiểu về vấn đề cần
nghiên cứu.
Về lịch sử địa phƣơng tỉnh Nam Định đã có những công trình mang tính khái
quát, hay dƣới góc độ biên niên. Còn viết về một thời kỳ lịch sử cụ thể, về lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội ở địa phƣơng có tính hệ thống, mới chỉ thực là
bƣớc đầu.
Nhìn chung các nhóm công trình nói trên rất cần thiết đối với thực hiện đề
tài, tác giả có thể kế thừa nhiều nội dung quan trọng, đặc biệt là vấn đề tƣ liệu. Tuy
nhiên chƣa có một công trình nào đề cập đến vấn đề nội dung của đề tài.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1 Mục đích
Làm rõ quá trình Đảng bộ Nam Định lãnh đạo xây dựng hệ thống tổ chức
chính quyền từ 1954 - 1975

ua đó khẳng định những thành tựu, rút ra những kinh

nghiệm góp phần trong việc xây dựng, bảo vệ chính quyền trong giai đoạn hiện nay.
3.2 Nhiệm vụ
- Sƣu tập và hệ thống hóa những tài liệu liên quan đến đề tài, trên cơ sở đó trình
bày theo tiến trình lịch sử các chủ trƣơng và biện pháp xây dựng và củng cố chính
quyền qua hai giai đoạn 1954 - 1965 và 1965 - 1975.
- Nêu lên những thành tựu, hạn chế trong lãnh đạo xây dựng hệ thống tổ chức
chính quyền của Đảng bộ Nam Định trong những năm 1954 đến năm 1975 và rút ra

4



những kinh nghiệm để phục vụ công tác xây dựng chính quyền nói chung trong tình
hình mới hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là những nhận thức, chủ trƣơng, chỉ đạo
của Đảng bộ tỉnh Nam Định trong lĩnh vực xây dựng củng cố chính quyền từ năm
1954 đến năm 1975
4.2 Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ Nam Định đối với việc
xây dựng hệ thống chính quyền nói riêng, xây dựng và bảo vệ chính quyền ở
Nam à nói chung cũng nhƣ những kết quả, kinh nghiệm trong sự lãnh đạo của
công tác này.
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Nam Định
về chính quyền từ khi tiếp quản (1954) đến khi kết thúc cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nƣớc, cả nƣớc chuyển thời kỳ mới: Xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ
nghĩa năm 1975
- Về không gian: Luận văn xác định địa bàn nghiên cứu tỉnh Nam Định
(1954 - 1965) và Nam Định trong tỉnh Nam Hà (1965 - 1975).
5. Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Đã thực hiện trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề nhà nƣớc, về vai trò của chính
quyền nhà nƣớc trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
* Nguồn tài liệu
Các văn kiện của Đảng, Nhà nƣớc liên quan đến vấn đề xây dựng chính
quyền, các văn kiện của Đảng bộ, Uỷ ban nhân dân, Hội đồng nhân dân tỉnh Nam
Định là những nguồn tài liệu quan trọng nhất. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng
nguồn tài liệu từ những công trình nghiên cứu có liên quan
* Phƣơng pháp nghiên cứu


5


Chủ yếu luận văn sử dụng phƣơng pháp lịch sử kết hợp với những phƣơng
pháp logic, phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp hệ thống, phƣơng pháp thống kê,
phƣơng pháp tổng hợp, đặc biệt là khảo sát thực tiễn để làm sáng tỏ vấn đề.
6. Đóng góp của luận văn
- Cung cấp những tƣ liệu đã đƣợc hệ thống hóa về sự lãnh đạo, chỉ đạo của
Đảng bộ Nam Định đối với công tác xây dựng hệ thống chính quyền từ năm 1954
đến năm 1975, trong đó có cả những tƣ liệu gốc.
- Luận văn có giá trị tham khảo cho các nghiên cứu về xây dựng chính
quyền.
- Góp phần xây dựng lịch sử địa phƣơng
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, bố cục
của Luận văn đƣợc chia làm 3 chƣơng:
Chương 1: Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo xây dựng và củng cố chính
quyền từ năm 1954 đến năm 1965
Chương 2: Công tác xây dựng và củng cố chính quyền của Đảng bộ tỉnh
Nam Hà từ năm 1965 đến năm 1975
Chương 3: Một số nhận xét và bài học kinh nghiệm

6


Chƣơng 1
Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo xây dựng và củng cố chính quyền
từ năm 1954 đến năm 1965
1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về chính

quyền nhà nƣớc
1.1.1 Quan điểm của C.Mác về chính quyền nhà nước
Sự phát triển của lực lƣợng sản xuất đã tạo ra những chuyển biến vô cùng
lớn lao về kinh tế xã hội. Công xã nguyên thủy lâm vào vòng suy sụp và tan rã,
nhƣờng bƣớc cho sự ra đời của nhà nƣớc.
Kim loại đƣợc dùng để chế tạo công cụ sản xuất đã mở ra thời đại kim khí.
Từ đây năng xuất lao động có bƣớc phát triển nhảy vọt. Những dấu vết của việc chế
tạo công cụ đồng sớm nhất hiện nay chúng ta biết đƣợc là thuộc thiên niên kỷ thứ
IV trƣớc Công nguyên, cƣ dân Lƣỡng Hà, Ai Cập dùng nhiều công cụ đồng trong
sản xuất và đời sống. Khoảng nửa cuối thiên niên kỷ thứ II trƣớc Công nguyên,
vùng Tây Nam Á và Ai Cập xuất hiện nghề luyện sắt và công cụ sắt đƣợc sử dụng.
Những công cụ bằng kim loại nhất là công cụ sắt cùng với kinh nghiệm sản xuất
của con ngƣời tích lũy đƣợc, đã tạo nên bƣớc phát triển nhảy vọt trong trồng trọt và
nghề thủ công. Nhiều vùng ở Bắc Phi và Châu Á, cƣ dân còn biết làm những công
trình thủy lợi để tƣới tiêu nƣớc. Trồng trọt phát triển đã thúc đẩy nghề chăn nuôi
cũng phát triển. Do vậy, đã dẫn đến sự phân công lao động xã hội lần thứ nhất: nghề
trồng trọt và nghề chăn nuôi tách rời nhau, có những bộ lạc chuyên về chăn nuôi và
những bộ lạc chuyên về trồng trọt. Các nghề thủ công phát triển mạnh, dẫn đến hình
thành những nhóm ngƣời chuyên làm nghề thủ công. Từ đó nghề thủ công tách khỏi
nông nghiệp Đây là sự phân công lao động xã hội lần thứ hai. Sự chuyên môn hóa
của các ngành sản xuất làm xuất hiện và phát triển việc trao đổi sản phẩm giữa các
bộ lạc, giữa các vùng từ Bắc Phi sang châu Á, từ phƣơng Đông sang phƣơng Tây
Sự phát triển của lực lƣợng sản xuất và nền kinh tế nguyên thủy đã dẫn đến
những hệ quả rất quan trọng. Sự xuất hiện tƣ hữu về tƣ liệu sản xuất Năng suất lao
động đƣợc nâng cao, làm cho sản phẩm xã hội tăng nhanh Ngoài phần tiêu dùng

7


hàng ngày, con ngƣời đã có của cải dƣ thừa để dành. Quá trình phân hóa tài sản bắt

đầu diễn ra và phát triển theo những con đƣờng: Trong cộng đồng những ngƣời có
địa vị chiếm đƣợc nhiều của cải dƣ thừa của tập thể; do sự phát triển của sức sản xuất,
đại gia đình phụ quyền đƣợc phân thành nhiều gia đình nhỏ bao gồm vợ chồng và con
cái, mỗi gia đình nhỏ ấy là một đơn vị kinh tế có tài sản riêng nhƣ công cụ sản xuất,
tƣ liệu lao động và những thứ đó đƣợc truyền lại cho con cái từ đời này qua đời khác,
củng cố thêm chế độ tƣ hữu; của cải và tù binh trong chiến tranh cũng là nguồn tài
sản quan trọng bị những ngƣời có địa vị trong bộ lạc thắng trận chiếm đoạt.
Công xã nông thôn xuất hiện thay thế công xã thị tộc phụ hệ đang dần dần
tan rã. Sự phân hóa tài sản và địa vị giàu nghèo trong xã hội đã dẫn đến tình trạng
những ngƣời giàu có muốn từ bỏ bà con thân thuộc túng thiếu, vì nghĩa vụ giúp đỡ
những ngƣời anh em họ hàng theo phong tục cổ truyền đã gây trở ngại cho việc tích
lũy của cải cho gia đình Còn nhiều ngƣời khác vì nghèo khổ phải đi đến vùng đất
khác để sinh sống. Mối quan hệ dòng máu kết dính các thành viên trong thị tộc bộ
lạc bị cắt đứt. Ranh giới của thị tộc và bộ lạc bị xáo trộn và phá vỡ. Thay vào đó là
một hình thức tổ chức cộng đồng mới, công xã nông thôn trong cƣ dân nông nghiệp
và công xã du mục trong cƣ dân chăn nuôi. Theo C.Mác: công xã nông thôn mang
tính hai mặt, trong công xã vừa có chế độ tƣ hữu tài sản, vừa có chế độ sở hữu
chung của công xã. Ruộng đất của công xã đƣợc chia cho các gia đình cày cấy theo
kỳ hạn nhất định và gia đình đƣợc chiếm hữu thành quả lao động của mình Điều đó
đẩy mạnh sự phát triển của tài sản tƣ hữu. Quá trình phát triển của chế độ tƣ hữu tất
yếu dẫn đến việc hình thành các tập đoàn ngƣời trong xã hội có địa vị kinh tế khác
hẳn nhau, xuất hiện các giai cấp chủ nô, bình dân và nô lệ. Mâu thuẫn giai cấp đối
kháng nảy sinh, dần dần phát triển tới mức không thể điều hòa đƣợc. Giai cấp chủ
nô giàu có cần phải có một tổ chức mới để củng cố và tăng cƣờng địa vị của mình.
Đó là bộ máy bạo lực, gồm bộ máy quan chức hành chính, tòa án, nhà tù, quân đội,
cảnh sát… để thống trị, áp bức, bóc lột và đàn áp những ngƣời lao động. Tổ chức
mới này là nhà nƣớc.

8



Từ việc xác định quan điểm xuất phát trong nghiên cứu về nhà nƣớc, Mác và
Ăngghen đã đi tới những quan điểm cụ thể hơn về nhà nƣớc, trong đó có việc xác định
nội hàm căn bản của khái niệm nhà nƣớc, vạch ra tính chất, đặc trƣng của nhà nƣớc.
Điều cần nhấn mạnh trƣớc hết là, “nhà nƣớc” đƣợc Mác và Ăngghen hiểu theo
hai nghĩa: Xã hội đƣợc tổ chức theo một cách xác định và bộ máy nhà nƣớc, hay nhà
nƣớc chính trị biểu hiện tập trung của cách thức tổ chức xã hội ấy

uan điểm trên đã

thể hiện rõ ràng trong tác phẩm Phê phán triết học pháp quyền của Hêghen; đồng
thời với việc Mác phê phán quan điểm biện chứng duy tâm của Hêghen về nhà nƣớc.
Trong tác phẩm nói trên, Mác đã chỉ ra hai nghĩa của nhà nƣớc là: 1. Tổng thể của sự
tồn tại của nhân dân; 2. Nhà nước chính trị [13, tr. 427].
Trong tác phẩm của các ông, có lúc khái niệm “nhà nƣớc” đƣợc Mác và
Ăngghen hiểu đồng thời theo cả hai nghĩa, có lúc hiểu theo nghĩa thứ hai và đặc
biệt một phần quan trọng trong các luận bàn về nhà nƣớc, Mác và Ăngghen đã
phân tích sự vận động biện chứng của hai nghĩa này trong khái niệm “nhà nƣớc”
nhƣ là sự phản ánh quá trình chuyển hóa biện chứng khách quan giữa nhà nƣớc và
xã hội. Có thể minh họa cho khẳng định này bằng một ý kiến của Mác khi ông cho
rằng: “Gia đình và xã hội công dân là những bộ phận hiện thực của nhà nước, là
những tồn tại tinh thần hiện thực của ý chí, là những phương thức tồn tại cảu nhà
nước. Gia đình và xã hội công dân tự chúng cấu thành nhà nước. Chúng chính là
động lực” [13, tr. 314].
Những tính chất và đặc trƣng của nhà nƣớc với tính cách là bộ máy nhà nƣớc
hay nhà nƣớc chính trị, đƣợc quy định không phải bởi tƣ duy của nhà triết học pháp
quyền, cũng không phải do chỗ nó là trạng thái tha hóa của một ý niệm với các tính
quy định sẵn có nào đó, mà gắn liền với quá trình tha hóa của nhà nƣớc, thoát thai
khỏi đời sống xã hội, do chính quá trình hình thành và chuyển hóa các mặt đối lập
trong bản thân đời sống xã hội, trƣớc hết là quá trình hình thành và chuyển hóa các

lợi ích của các thành viên trong đời sống xã hội của con ngƣời hiện thực.
Nhà nƣớc thực chất là hiện thân của một mâu thuẫn Đó là lợi ích chung tự
mâu thuẫn chính mình, là hình thức lợi ích chung mâu thuẫn với nội dung lợi ích

9


riêng gắn với lợi ích của một bộ phận xã hội và theo quan điểm của chủ nghĩa Mác,
bộ phận này là giai cấp thống trị về mặt kinh tế. So với bộ phận đại diện cho lợi ích
chung và nắm quyền lực công trong xã hội nguyên thủy, nhà nƣớc trong xã hội có
giai cấp mang trong mình mặt đối lập với chính mình Đó là tình trạng tha hóa của
tổ chức quyền lực công, của lợi ích chung Chính trình độ phát triển của lao động,
hay nói cách khác là mâu thuẫn trong đời sống kinh tế giữa năng suất lao động với
nhu cầu cần đƣợc thỏa mãn, đã đƣa tới sự hình thành những giai cấp mà sự thỏa
mãn nhu cầu của một giai cấp đƣợc quyết định bởi việc nó có nắm giữ hay không tƣ
liệu sản xuất và dựa trên cơ sở thủ tiêu sự thỏa mãn nhu cầu của các giai cấp, tầng
lớp khác, đã tạo nên mâu thuẫn trên trong nhà nƣớc và cũng chỉ có sự phát triển của
lực lƣợng sản xuất biểu hiện ra ở năng suất lao động mới có thể xóa bỏ đƣợc mâu
thuẫn đó, khi mà của cải đƣợc sản xuất ra thỏa mãn một cách hoàn toàn cho tất cả
mọi thành viên của xã hội, nói cách khác không còn mâu thuẫn giữa lợi ích chung
với lợi ích riêng

hi đó, nhà nƣớc sẽ đồng nhất trở lại với xã hội mất đi tính chính

trị của nó.
Sự chuyển hóa biện chứng trong đời sống xã hội làm cho nhà nƣớc ra đời.
Điều này xuất hiện trong lịch sử với sự xuất hiện của giai cấp tƣ hữu và đặc biệt trở
nên điển hình trong xã hội mà giai cấp tƣ sản là giai cấp nắm quyền thống trị về
kinh tế. Về vấn đề trên, Mác và Ăngghen đã viết: “Vì giai cấp tư sản không còn là
một đẳng cấp nữa mà là một giai cấp, nên nó bắt buộc phải tự tổ chức không phải

trên quy mô địa phương mà trên quy mô toàn quốc, và phải gắn cho những lợi ích
thông thường của nó một hình thức phổ biến. Do chỗ sở hữu tư nhân được giải
thoát khỏi cộng đồng nên nhà nước đã tồn tại độc lập bên cạnh và bên ngoài xã hội
công dân, nhưng thực ra nhà nước ấy chẳng phải là cái gì khác mà chỉ là hình thức
tổ chức mà những người tư sản buộc phải dùng đến để đảm bảo lẫn cho nhau sở
hữu và lợi ích của họ, ở ngoài nước cũng như trong nước” [14, tr. 90].
Mâu thuẫn nội tại của nhà nƣớc thể hiện trƣớc hết ở chỗ, trong xã hội tồn tại
mâu thuẫn giữa lợi ích chung và lợi ích riêng nên nhà nƣớc nào cũng mang bản chất
giai cấp Đó là vì nhà nƣớc này nảy sinh ra từ nhu cầu phải kiềm chế những sự đối

10


lập giai cấp; vì nhà nƣớc đồng thời cũng nảy sinh giữa cuộc xung đột của các giai
cấp ấy, cho nên nhà nƣớc là: “nhà nước của giai cấp có thế lực nhất, của cái giai
cấp thống trị về mặt kinh tế và nhờ có nhà nước mà cũng trở thành giai cấp thống
trị về mặt chính trị và do đó có thêm được những phương tiện mới để đàn áp và bóc
lột giai cấp bị áp bức” [18, tr. 255].
uan điểm về bản chất giai cấp của nhà nƣớc thể hiện ra nhƣ công cụ để giai
cấp thống trị đàn áp các giai cấp bị bóc lột nhằm thực hiện lợi ích kinh tế của mình
trong xã hội phân chia thành các giai cấp – chủ thể của các lợi ích riêng đối lập
nhau là một quan điểm căn bản của chủ nghĩa Mác – Lênin

uan điểm này đƣợc

Mác và Ăngghen nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần trong những luận bàn về vấn đề nhà
nƣớc. Có thể thấy rõ điều này, chẳng hạn trong những luận điểm sau: “Cái lực
lượng cố kết xã hội văn minh là nhà nước, nhà nước này trong tất cả những thời kỳ
điển hình vẫn chỉ là nhà nước của giai cấp thống trị. Và trong mọi trường hợp, về
thực chất vẫn là bộ máy dùng để đàn áp giai cấp bị áp bức bóc lột” [18, tr. 261], và

“chính quyền nhà nước chẳng qua là một tổ chức mà các giai cấp thống trị, địa chủ
và các nhà tư bản đã lập nên cho mình để bảo vệ đặc quyền xã hội của mình…”
[20, tr. 525].
uan điểm về bản chất giai cấp của mọi nhà nƣớc cũng đúng với nhà nƣớc
vô sản, dù rằng đây không còn là nhà nƣớc theo nguyên nghĩa đƣợc dùng để chỉ các
nhà nƣớc trƣớc nó, mà là “nhà nƣớc nửa nhà nƣớc” là hình thức cuối cùng của mọi
nhà nƣớc chính trị Mác và Ăngghen chỉ rõ rằng, nhà nƣớc chẳng qua chỉ là một bộ
máy của một giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp khác Điều đó, trong chế độ
cộng hòa dân chủ hoàn toàn giống nhƣ trong chế độ quân chủ.
Chính nhờ hình thức đại diện cho lợi ích chung, nhờ sự tồn tại nhƣ một
quyền lực công, cho nên nhà nƣớc có một sức mạnh đặc biệt trong xã hội có giai
cấp và vì thế, giai cấp nào muốn nắm quyền lãnh đạo xã hội đều buộc phải chiếm
đoạt và sử dụng bộ máy nhà nƣớc Đây là mục tiêu của tất cả các cuộc cách mạng
xã hội.

11


Chính bản chất nhƣ vậy, đã mang lại tính chính trị cho các thiết chế và quyền
lực công cộng Nói cách khác, đặt trong xã hội phân chia thành các giai cấp đối lập,
các thiết chế công cộng và quyền lực công đều mang tính chính trị. Mác và
Ăngghen viết: “Nhà nước là hình thức mà các cá nhân thuộc một giai cấp thống trị
dùng để thực hiện lợi ích chung của họ và là hình thức dưới đó toàn bộ xã hội công
dân của một thời đại được biểu hiện một cách tập trung, nên từ đó có thể rút ra kết
luận là mọi thiết chế công cộng đều thông qua nhà nước và mang một hình thức
chính trị” [14, tr. 90]. Ở một chỗ khác, các ông nói rõ thêm rằng: “khi những đối
kháng giai cấp đã mất đi trong tiến trình của sự phát triển và toàn bộ sản xuất đã
tập trung trong tay những cá nhân đã liên hợp lại với nhau thì quyền lực công cộng
cũng mất tính chất chính trị của nó” [15, tr. 628].
Sự phân tách của nhà nƣớc ra khỏi xã hội trở nên điển hình trong xã hôi tƣ

sản đã đƣợc các nhà lý luận của giai cấp tƣ sản nhận thức và cố gắng tìm cách để lý
giải Tuy nhiên trƣớc Mác chƣa có một sự lý giải nào phản ánh đúng bản chất của
vấn đề. Phải đến Mác và Ăngghen, bí mật của mối quan hệ giữa nhà nƣớc với xã
hội mới đƣợc sáng tỏ. Chính sự vận động trong đời sống xã hội, mà tập trung nhất ở
đời sống kinh tế đã làm cho nhà nƣớc tách ra, trở thành một bộ phận độc lập, đối lập
với xã hội. Và trong mối quan hệ giữa nhà nƣớc với xã hội, xã hội luôn là cái quyết
định hay cụ thể hơn nữa chính trình độ phát triển của lao động, quá trình sản xuất và
tái sản xuất ra đời sống trực tiếp đã quyết định không chỉ nhà nƣớc mà mọi yếu tố
của kiến trúc thƣợng tầng Nói chung, quan điểm này đã hình thành ở Mác ngay khi
tiến hành phê phán triết học pháp quyền của Hêghen. Trong tác phẩm Phê phán
triết học pháp quyền của Hêghen, Mác đã viết: “Trên thực tế, gia đình và xã hội
công dân là những tiền đề của nhà nước, chính chúng mới là yếu tố thực sự tích
cực, nhưng trong tư duy tư biện thì tất cả điều đó đều bị đặt lộn ngược” [13, tr.
313] Điều đó có nghĩa là: “Phải coi xã hội hiện tồn… là cơ sở của nhà nước hiện
tồn” [17, tr. 46], hay nói cách khác: “Nói chung không phải nhà nước chế định và
quyết định xã hội công dân mà xã hội công dân chế định và quyết định nhà nước,

12


rằng do đó phải lấy những quan hệ kinh tế ấy để giải thích chính trị và lịch sử chính
trị, chứ không phải ngược lại” [18, tr. 321].
Khi vận dụng quan điểm duy vật lịch sử vào nghiên cứu một số trƣờng hợp
nhà nƣớc cụ thể, Mác và Ăngghen đã để lại cho chúng ta nhiều nhận định đáng
quan tâm Trƣớc hết là về nhà nƣớc phƣơng Đông. Đây có thể nói là những biến thể
của mô hình chung. Khi nghiên cứu xã hôi phƣơng Đông, Mác và Ăngghen đã chỉ
ra một đặc điểm của xã hội phƣơng Đông, đó là sự tồn tại dai dẳng các công xã
nông thôn và sự biệt lập giữa chúng chính là cơ sở tự nhiên cho nhà nƣớc phƣơng
Đông Mác và Ăngghen viết: “Tình trạng hoàn toàn biệt lập đó giữa từng công xã
với nhau, tình trạng quả là đã tạo nên trên cả nước những lợi ích giống nhau,

nhưng tuyệt nhiên không phải là những lợi ích chung, là cơ sở tự nhiên của chế độ
chuyên chế phương Đông” [19, tr. 762].
Có thể thấy, theo quan niệm của Mác và Ăngghen, nhà nƣớc chính trị có hai
đặc trƣng tiêu biểu, đó là: “so với tổ chức thị tộc trước kia thì đặc trưng thứ nhất
của nhà nước là ở chỗ nó phân chia thần dân của nó theo địa vực… Đặc trưng thứ
hai của nhà nước là sự thiết lập một quyền lực công cộng…” [18, tr 253], trong đó
quyền lực công cộng tách rời quần chúng nhân dân đƣợc coi là đặc trƣng chủ yếu.
Cách đây 143 năm, một sự kiện trọng đại diễn ra trong phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế, đó là Công xã Pa-ri, một nhà nƣớc vô sản đầu tiên trên thế
giới, đƣợc thành lập sau cuộc khởi nghĩa của công nhân ở Thủ đô Pa-ri (Pháp) vào
ngày 18/3/1871. Sự ra đời của Công xã Pa-ri vừa là sự kiểm nghiệm, vừa là sự
chứng minh tính khoa học và cách mạng của học thuyết Mác về sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân.
Đánh giá về ảnh hƣởng sâu sắc của Công xã Pa-ri đến cuộc đấu tranh của giai
cấp công nhân ở châu Âu cuối thế kỷ XIX, các nhà nghiên cứu nhấn mạnh: Công xã
Pa-ri đã khuấy động mạnh mẽ phong trào xã hội chủ nghĩa ở toàn thể châu Âu. Công
xã đã dạy cho giai cấp vô sản châu Âu đặt những vấn đề cách mạng xã hội chủ nghĩa
một cách cụ thể. Tuy có phạm sai lầm và thất bại, nhƣng nó vẫn là một kiểu mẫu vĩ đại
nhất của phong trào vô sản vĩ đại nhất trong thế kỷ XIX.

13


Nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự xuất hiện của Công xã Pa-ri là do có những
mâu thuẫn gay gắt, không thể điều hòa đƣợc giữa giai cấp vô sản và giai cấp tƣ
sản. Tuy nhiên, nguyên nhân trực tiếp là do thất bại nặng nề của nƣớc Pháp trong
cuộc chiến tranh với nƣớc Phổ (1870 - 1871), cùng với chính sách đối ngoại đầu
hàng và chính sách đối nội phản động của Chính phủ Pháp do Chi-e cầm đầu,
phong trào đấu tranh của nhân dân và các lực lƣợng tiến bộ Pháp ngày càng trở
nên mạnh mẽ, đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Thủ đô Pa-ri ngày

18/3/1871 Đến ngày 28/3/1871, Hội đồng Công xã đƣợc tuyên bố thành lập, làm
chức năng quản lý xã hội, gồm các đại biểu của công nhân và nhân dân lao động,
trong đó có nhiều ngƣời đã là thành viên của Quốc tế thứ nhất. Các công xã cách
mạng cũng đƣợc tuyên bố thành lập ở Li-ông, Mác-xây, Tu-lu-dơ và một số thành
phố khác của nƣớc Pháp.
Ngay sau khi ra đời, Công xã Pa-ri đã thi hành nhiều chính sách tiến bộ nhƣ:
bãi bỏ chế độ quân thƣờng trực, thành lập Đội Vệ binh quốc dân để bảo vệ thành
phố và chống lại quân đội Phổ; giải tán cảnh sát và hiến binh; tách hoạt động của
nhà thờ ra khỏi các công việc của trƣờng học và nhà nƣớc Công xã còn thi hành
nhiều chính sách khác nhƣ thực hiện quyền làm chủ xí nghiệp cho công nhân, giải
quyết nạn thất nghiệp, quy định mức lƣơng tối thiểu bắt buộc, thi hành những biện
pháp bảo hộ lao động; cải thiện điều kiện nhà ở và cung cấp lƣơng thực cho dân cƣ;
thực hiện cải cách trƣờng học mà cơ sở của nó là nguyên tắc giáo dục phổ cập,
không mất tiền, có tính chất bắt buộc

Công xã cũng đề ra những quy định về quan

hệ chặt chẽ giữa Công xã với hoạt động của các câu lạc bộ quần chúng, các tổ chức
công đoàn, phụ nữ, tạo mối quan hệ gắn bó giữa nhà nƣớc và quần chúng nhân dân
ội đồng Công xã đã ra những sắc lệnh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng nhƣ: thành
lập các hội liên hiệp công nhân (ở các xí nghiệp do bọn chủ bỏ lại); thực hiện chế
độ kiểm soát của công nhân; tổ chức bầu cử những ngƣời lãnh đạo một số xí nghiệp
nhà nƣớc

Trong chính sách đối ngoại, Công xã Pa-ri thực hiện đƣờng lối hòa bình

và hữu nghị giữa các dân tộc

14



Những biến đổi về đời sống chính trị và văn hóa của xã hội do Công xã bắt
tay thực hiện đã vƣợt xa những cải cách mạnh bạo nhất trong các cuộc cách mạng
trƣớc đó ở nƣớc Pháp nói riêng và trên thế giới nói chung Các biện pháp mà Công
xã đề ra đã góp phần ổn định tình hình, xây dựng và củng cố chế độ xã hội mới
Đây chính là một nhà nƣớc kiểu mới, hình thức chuyên chính vô sản đầu tiên trong
lịch sử thế giới Bộ máy chính quyền Công xã đƣợc xây dựng theo nguyên tắc dân
chủ: tất cả các thành viên của Công xã đều phải thông qua bầu cử và thực hiện lãnh
đạo, quản lý theo tập thể, lấy việc phục vụ lợi ích của nhân dân lao động làm mục
đích cao nhất Nhân dân bầu ra công xã, ngày 26/3/1871 bầu cử

ội đồng Công xã

đƣợc tiến hành và ngày 28/3/1871 kết quả đƣợc công bố Trong số 85 đại biểu trúng
cử, có 25 công nhân, 15 đại biểu thuộc tầng lớp tƣ sản trúng cử nhƣng sớm từ chức
sau đó Phần còn lại gồm các bác sĩ, nhà báo, giáo viên, công chức

hoảng gần 30

đại biểu của ội đồng công xã là hội viên của uốc tế thứ nhất và cũng có cả những
ngƣời ngoại kiều gốc Nga, Ba Lan, Hungary.
Sắc lệnh đầu tiên của Công xã là bãi bỏ quân đội thƣờng trực và bộ máy cảnh
sát cũ Việc giữ an ninh đƣợc thay bằng lực lƣợng công nhân có vũ trang Chính
quyền của giai cấp công nhân cũng đƣợc thành lập Cơ quan tối cao của nhà nƣớc là
ội đồng Công xã có vai trò lập pháp và tổ chức 10 ủy ban chịu trách nhiệm về
hành pháp Mỗi ủy ban này do một ủy viên của

ội đồng Công xã làm chủ tịch

Công xã cũng ra sắc lệnh tách nhà thờ khỏi hoạt động của nhà nƣớc, giới tăng lữ

không can thiệp vào công việc của chính quyền và ngân sách tôn giáo bị hủy bỏ Tất
cả tài sản của các giáo hội trở thành tài sản quốc gia, giáo dục cũng tách khỏi nhà thờ
Tuy chỉ tồn tại trong 72 ngày giƣơng cao ngọn cờ cách mạng, nhƣng Công
xã Pa-ri đã để lại dấu ấn rất sâu đậm trong lịch sử phong trào công nhân quốc tế, bởi
nó đã giáng đòn chí mạng đầu tiên vào chủ nghĩa tƣ bản, đồng thời, báo hiệu sự mở
đầu của thời đại cách mạng vô sản với những bài học sâu sắc về tiến hành cách
mạng, thiết lập và bảo vệ nền chuyên chính vô sản
Đƣơng thời, C Mác đã tổng kết những bài học kinh nghiệm của Công xã Pari bằng tác phẩm “Nội chiến ở Pháp”. Trong tác phẩm này, C Mác đánh giá rất cao

15


tinh thần quật cƣờng, ý chí hy sinh anh dũng và ý nghĩa lịch sử to lớn của Công xã
Ở đây, nhiều vấn đề lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học đƣợc C Mác xác minh,
kiểm nghiệm, bổ sung và phát triển C Mác cũng chỉ ra những nhƣợc điểm, sai lầm
và nguyên nhân dẫn đến thất bại của Công xã Pa-ri.
Với sự phân tích khoa học của C Mác, mỗi nhƣợc điểm, sai lầm của Công xã
Pa-ri đều trở thành bài học kinh nghiệm xƣơng máu giúp cho giai cấp vô sản quốc
tế tiến lên giành đƣợc những thắng lợi sau này trong công cuộc cách mạng Nó cũng
chứng thực vấn đề, giai cấp công nhân không chỉ nắm lấy bộ máy nhà nƣớc sẵn có
để phục vụ cho lợi ích của mình, mà phải “đập tan bộ máy quan liêu - quân sự”, coi
đó là “điều kiện tiên quyết cho mọi cuộc cách mạng nhân dân thực sự” Nhƣng thay
cho bộ máy nhà nƣớc cũ đã bị đập tan, thì phải tổ chức, xây dựng bộ máy nhà nƣớc
kiểu mới nhƣ thế nào, đó là điều mà trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” (năm
1848), C Mác và Ph Ăngghen chƣa dự đoán đƣợc cụ thể

inh nghiệm thực tiễn đấu

tranh giai cấp ở nƣớc Pháp và Công xã Pa-ri đã làm sáng tỏ vấn đề đó C Mác đã
vạch rõ rằng, Công xã là một nhà nƣớc kiểu mới của giai cấp công nhân, là hình

thức cụ thể của chuyên chính vô sản Trong nhà nƣớc đó, bản thân quần chúng nhân
dân trở thành chủ thể của quyền lực: Công xã chính là hình thức chính trị của sự
giải phóng xã hội mà giai cấp công nhân và nhân dân lao động đã tạo ra
Những kinh nghiệm quý báu của Công xã Pa-ri đã làm phong phú thêm kho
tàng lý luận của chủ nghĩa Mác, soi sáng cho giai cấp vô sản quốc tế trên nhiều vấn
đề cơ bản của cách mạng
1.1.2 Quan điểm của V.I.Lênin về chính quyền nhà nƣớc
Là ngƣời kế tục sự nghiệp của Mác và Ăngghen, Lênin đã có những đóng
góp quan trọng cho học thuyết Mác về nhà nƣớc. Lênin tiếp tục quan điểm của Mác
và Ăngghen để khẳng định rằng, nhà nƣớc là một hiện tƣợng lịch sử, sự tồn tại và
tiêu vong của nhà nƣớc là có điều kiện và tùy thuộc vào những điều kiện đó Nói
một cách cụ thể, chỉ có trong xã hội có giai cấp nhà nƣớc mới tồn tại và phản ánh
cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội bằng cách trở thành một công cụ trấn áp trong
tay một giai cấp nhất định. Lênin viết: “Nhà nước chỉ là một tổ chức thống trị của

16


một giai cấp” [118, tr. 303], và nhấn mạnh: “Bất cứ nhà nước nào cũng là một bộ
máy để một giai cấp này trấn áp giai cấp khác, rằng nền cộng hòa tư sản dân chủ
nhất cũng là một bộ máy để giai cấp tư sản áp bức giai cấp vô sản” [117, tr. 122].
Rõ ràng, Lênin đã tiếp tục khẳng định và nhấn mạnh quan điểm của Mác và
Ăngghen về bản chất giai cấp của nhà nƣớc, của dân chủ.
Để nhà nƣớc có thể tự tiêu vong, cần có nhiều điều kiện trong đó có một điều
kiện quan trọng là trƣớc hết nhà nƣớc phải trải qua một hình thức tồn tại đặc biệt của
nó: Nhà nước chuyên chính vô sản Nhƣng để nhà nƣớc chuyên chính vô sản ra đời,
tất yếu phải dùng đến bạo lực cách mạng Theo quan điểm của Lênin, nếu nhà nƣớc
là một sản phẩm của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa đƣợc, nếu nhà
nƣớc là một lực lƣợng đặt lên trên xã hội và ngày càng trở lên xa lạ đối với xã hội thì
rõ ràng việc giải phóng giai cấp bị áp bức không những không thể thực hiện đƣợc nếu

không tiến hành một cuộc bạo lực cách mạng, mà cũng không thể thực hiện đƣợc nếu
không thủ tiêu bộ máy chính quyền nhà nƣớc do giai cấp thống trị dựng lên “ hông
có cách mạng bạo lực thì không thể thay thế nhà nƣớc tƣ sản bằng nhà nƣớc vô sản
đƣợc. Việc thủ tiêu nhà nƣớc vô sản, nghĩa là việc thủ tiêu mọi nhà nƣớc, chỉ có thể
thực hiện đƣợc bằng con đƣờng “tiêu vong” thôi” [112, tr. 28].
Tính chất đặc biệt của nhà nƣớc chuyên chính vô sản với tƣ cách hình thức
chuyển tiếp trƣớc khi đạt đến trạng thái tự tiêu vong của nhà nƣớc đƣợc Lênin làm
rõ trong việc phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tính chuyên chính và tính dân
chủ của nhà nƣớc.
Trƣớc hết, Lênin khẳng định rằng, trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tƣ bản
lên chủ nghĩa cộng sản, “sự trấn áp vẫn còn tất yếu, nhƣng nó đã là sự trấn áp của
đa số bị bóc lột đối với thiểu số bóc lột Cơ quan đặc biệt, bộ máy trấn áp đặc biệt là
“nhà nƣớc” vẫn còn cần thiết, nhƣng nó đã là nhà nƣớc quá độ mà không là nhà
nƣớc theo đúng nghĩa của nó nữa” [112, tr. 111].
Và nhà nƣớc vô sản phải là một công cụ, một phƣơng tiện đồng thời là một
biểu hiện tập trung trình độ dân chủ của nhân dân lao động. Dân chủ trong xã hội xã
hội chủ nghĩa chính là nhân dân tham gia vào mọi công việc của nhà nƣớc. Theo

17


quan điểm của Lênin, nhân dân cần có chế độ cộng hòa để cho quần chúng đƣợc
giáo dục về dân chủ Nhƣng điều cần thiết không phải chỉ là cơ quan đại diện theo
kiểu chế độ dân chủ mà là toàn bộ việc quản lý nhà nƣớc từ dƣới lên phải do bản
thân quần chúng tổ chức, quần chúng thực sự tham gia vào từng bƣớc của cuộc
sống và đóng vai trò tích cực trong việc quản lý.
Lênin cho rằng, nếu giai cấp là bản chất của mọi nhà nƣớc thì dân chủ hay
chuyên chính cũng chỉ là hai mặt của bản chất đó mà thôi: “Bất cứ một nhà nước
nào cũng đều có nghĩa là dùng bạo lực; nhưng toàn bộ sự khác nhau là ở chỗ dùng
bạo lực đối với những người bị bóc lột hay đối với kẻ đi bóc lột, ở chỗ có dùng bạo

lực đối với giai cấp những người lao động và những người bị bóc lột hay không”
[115, tr. 380]. Vì vậy, nếu nhƣ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản vẫn tất
yếu tồn tại nhà nƣớc thì nhà nƣớc đó cũng tất yếu mang bản chất giai cấp và vì thế
tính chất chuyên chính là không thể bác bỏ. Lênin viết: “Chỉ người nào mở rộng
việc thừa nhận đấu tranh giai cấp đến mức thừa nhận chuyên chính vô sản thì mới
là người mácxít” [112, tr. 42], và “nhà nước là lĩnh vực thực hiện cưỡng bức. Chỉ
có điên rồ mới từ bỏ cưỡng bức, nhất là trong thời đại chuyên chính vô sản” [114,
tr. 369].
Chuyên chính, theo Lênin là: “Một chính quyền dựa trực tiếp vào bạo lực và
không bị một pháp luật nào hạn chế cả” [117, tr. 296-297], và “chuyên chính cách
mạng của giai cấp vô sản là một chính quyền do giai cấp vô sản giành được và duy
trì bằng bạo lực đối với giai cấp tư sản, chính quyền không bị một luật pháp nào
hạn chế cả” [117, tr. 296-297].
Chuyên chính vô sản không hề độc lập với dân chủ, mà là phần bổ sung là
hình thức thể hiện của dân chủ. Chuyên chính vô sản chỉ đối lập với chuyên chính
của các giai cấp bóc lột, áp bức nhân dân. Theo Lênin, thực chất của chuyên chính vô
sản là: “tổ chức đội tiền phong của những người áp bức thành giai cấp thống trị để
trấn áp bọn áp bức, thì không thể giản đơn đóng khung trong việc mở rộng chế độ
dân chủ được. Đồng thời, với việc mở rộng rất nhiều chế độ dân chủ - lần đầu tiên
biến thành chế độ dân chủ cho người nghèo, chế độ dân chủ cho nhân dân chứ không

18


phải cho bọn nhà giàu, chuyên chính vô sản còn thực hành một loạt biện pháp hạn
chế quyền tự do đối với bọn áp bức, bọn bóc lột, bọn tư bản. Cụ thể hơn, chuyên
chính không nhất thiết có nghĩa là thủ tiêu quyền dân chủ của giai cấp thi hành
quyền chuyên chính đó đối với các giai cấp khác, mà nhất thiết có nghĩa là thủ tiêu
(hay hạn chế về căn bản, như thế cũng là một trong những hình thức thủ tiêu) dân
chủ đối với giai cấp bị chuyên chính hay bị trấn áp” [117, tr. 295] Điều đáng chú ý ở

đây là, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, trong xã hội phân chia thành giai
cấp, các thiết chế và thể chế công cộng nhƣ pháp luật, dân chủ… đều mang tính chính
trị, nghĩa là đều có bản chất giai cấp. Vì thế, thực hiện chuyên chính hay việc thực thi
dân chủ cũng nhƣ việc đặt chuyên chính lên trên mọi quy định của pháp luật hay đặt
pháp luật lên trên hết đều chỉ là những cách nói trùng lắp Chính Lênin đã chỉ rõ:
“Pháp quyền không bao giờ có thể cao hơn chế độ kinh tế và trình độ phát triển văn
hóa của xã hội do chế độ kinh tế quyết định” [112, tr. 115].
Điều khác nhau giữa các chế độ chính trị phải là ở nội dung của các thiết chế
về thể chế ấy. Sự khác biệt căn bản trong nội dung của các thiết chế và thể chế ấy
chính là ở chỗ, trong xã hội xã hội chủ nghĩa – thời kỳ quá độ đi tới xã hội cộng sản,
lực lƣợng đóng vai trò thống trị trong xã hội và vì thế nắm quyền chuyên chính, dân
chủ và pháp luật là đại đa số nhân dân lao động. “Chế độ dân chủ, đó là một nhà
nước thừa nhận việc thiểu số phục tùng đa số, nghĩa là sự tổ chức bảo đảm cho một
giai cấp thực hành bạo lực một cách có hệ thống chống lại một giai cấp khác, bảo
đảm cho một bộ phận của dân cư thi hành bạo lực một cách có hệ thống chống lại
bộ phận khác” [112, tr. 101], và “dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân và trấn áp
bằng vũ lực bọn bóc lột, bọn áp bức nhân dân, nghĩa là tước bỏ dân chủ đối với
bọn chúng - đó là sự biến đổi của chế độ dân chủ trong thời kỳ quá độ từ chu nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa cộng sản” [112, tr. 109].
Nhấn mạnh bản chất giai cấp của pháp luật, đặt việc xây dựng và thực thi
pháp luật trong tình huống cách mạng, Lênin yêu cầu phải xuất phát từ đòi hỏi của
thực tiễn, của tình thế cách mạng mà hành động, chứ không để lệ thuộc vào các quy
định pháp luật hiện hành, khi mà các quy định đó không đầy đủ hoặc không theo kíp

19


×