GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN
ĐẦU TƯ TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM CHI
NHÁNH ĐÔNG ĐÔ
2.1. Định hướng và mục tiêu phát triển của chi nhánh trong năm 2007
2.1.1. Định hướng và mục tiêu phát triển của toàn chi nhánh
Trên cơ sở tổng kết, đánh giá đầy đủ, toàn diện hoạt động kinh doanh năm 2006 về
những kết quả đạt được, những tồn tại và thách thức đối với toàn chi nhánh và dự báo tình
hình phát triển kinh tế- xã hội đất nước năm 2007- năm đầu tiên Việt Nam thực hiện các
cam kết WTO. Đồng thời căn cứ vào định hướng phát triển của toàn bộ hệ thống
NHĐT&PT, chi nhánh Đông Đô đã nghiên cứu và đưa ra định hướng mục tiêu phát triển
trong năm 2007- năm thứ 3 thực hiện kế hoạch 3 năm 2005-2007, là năm thứ 2 thực hiện
kế hoạch 5 năm 2006-2010 như sau:
a. Mục tiêu tổng quát
- Tăng tốc vươn lên, khẳng định ưu thế cạnh tranh, nắm bắt thời cơ thực hiện hội
nhập sâu rộng để tạo nền tảng cho toàn bộ chi nhánh phát triển bền vững.
- Tạo bước chuyển cách mạng trong hoạt động kinh doanh từ tư duy đến hành động
trong quản trị, tác nghiệp gắn liền với đầu tư, khai thác và ứng dụng các công nghệ tiên
tiến và nguồn lực sẵn có đảm bảo chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh theo chuẩn
mực quốc tế.
- Tạo bước đột phá lớn về mạng lưới ATM, hoàn thành tốt việc triển khai các dự án
hiện đại hóa ngân hàng, nghiên cứu phát triển các loại sản phẩm dịch vụ hiện đại tiện ích
đưa vào thị trường trong năm 2007.
- Hoàn thành chiến lước phát triển thương hiệu, triển khai đồng bộ quảng bá thương
hiệu, chiến lược tiếp thị, đưa hình ảnh BIDV (NHĐT&PTVN) đến khách hàng, đối tác
trong và ngoài nước một cách chuyên nghiệp và có đẳng cấp.
- Tập trung khai thác nguồn lực, tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo lại, đào tạo mới
để tạo bước chuyển đổi về chất lượng trong quy hoạch, đào tạo và bổ nhiệm cán bộ của chi
nhánh.
b. Định hướng và mục tiêu cụ thể
*Về công tác huy động vốn:
- Chấp hành nghiêm chỉnh mọi quy định chỉ đạo của NHĐT&PTVN trong công tác
huy động vốn.
- Nâng cao tỷ trọng huy động vốn trung và dài hạn nhằm đáp ứng cho vay đầu tư
phát triển. Đa dạng hóa sản phẩm huy động nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu gửi tiền của
khách hàng.
- Mở rộng danh mục khách hàng như: khách hàng ngoài quốc doanh, các công ty cổ
phần, các công ty TNHH… Đặc biệt chú trọng tới việc thu hút những khách hàng có tiềm
năng lớn về tiền gửi qua chính sách ưu đãi về phí, lãi suất. Đồng thời tiếp tục duy trì mối
quan hệ với những khách hàng truyền thống của chi nhánh.
- Điều chỉnh mức lãi suất theo diễn biến thị trường, đảm bảo được khả năng cạnh
tranh về lãi suất. Tăng dần tỷ trọng tiền gửi thanh toán, tăng thu dịch vụ.
- Đẩy mạnh kinh doanh tiền tệ trên hệ thống liên ngân hàng đảm bảo công tác dự trữ
sơ cấp, thứ cấp an toàn, hiệu quả, mua bán ngoại tệ để tăng chu chuyển vốn và tạo các khả
năng sinh lời của vốn, tăng thu nhập cho hoạt động kinh doanh vốn.
- Tiếp tục đưa các sản phẩm tiện ích, hấp dẫn phù hợp với đặc điểm từng khu vực
trên cơ sở ứng dụng công nghệ hiện đại để tăng cường huy động vốn từ dân cư, từ các tổ
chức kinh tế xã hội, từ các doanh nghiệp.
*Về hoạt động tín dụng
- Tăng cường cho vay ngắn hạn tập trung vào những ngành nghề có khả năng cạnh
tranh. Tăng tỷ trọng cho vay hỗ trợ sản xuất, kinh doanh với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Tăng cường tối đa dư nợ cho vay có tài sản bảo đảm bằng nhiều hình thức khác
nhau, kiểm soát rủi ro tín dụng, an toàn nguồn vốn.
- Thực hiện phân loại nợ, chuyển nợ, gia hạn nợ. Rà soát, hoàn thiện lại thủ tục và
hồ sơ pháp lý của các khoản vay, để có sự điều chỉnh quản lý hợp lý.
- Thành lập Ban chỉ đạo của chi nhánh, kết hợp với toàn hệ thống để tập trung chỉ
đạo công tác thu nợ xấu ngoại bảng để tăng tiềm lực tài chính cho hệ thống.
- Tăng cường phân tích, đánh giá phân loại khách hàng để có định hướng quan hệ
tín dụng, chính sách lãi suất phù hợp.
- Quán triệt tới từng cán bộ tín dụng định hướng hoạt động của ngân hàng, đồng
thời thường xuyên kiểm tra, kiểm soát việc tuân thủ quy trình, quy chế cho vay. Đảm bảo
tính minh bạch, tuân thủ nghiêm các quy định về tín dụng.
- Tăng cường kiểm tra, kiểm soát, giáo dục đạo đức nghề nghiệp, kiên quyết xử lý
kịp thời những hiện tượng tiêu cực, nhũng nhiễu, thoái hóa, tham ô trong công tác tín dụng.
- Thực hiện tốt việc kiểm tra, giám sát trước, trong và sau khi cho khách hàng vay
vốn.
* Về phát triển mạng lưới, phát triển dịch vụ của chi nhánh
- Tiếp tục mở rộng thêm số lượng các phòng giao dịch và quỹ tiết kiệm.
- Tiếp tục đẩy mạnh và phát triển các hoạt động dịch vụ bao gồm dịch vụ gắn với tín
dụng và phi tín dụng, coi trọng chất lượng dịch vụ.
- Thực hiện bán chéo các sản phẩm dịch vụ, nhanh chóng đưa các sản phẩm dịch vụ
chất lượng cao phục vụ nhóm khách hàng đối tác chiến lược, khách hàng mục tiêu.
- Khai thác tối đa cơ sở hạ tầng công nghệ hiện có để nghiên cứu, ứng dụng các sản
phẩm dịch vụ có chất lượng và tiện ích cao.
- Hoàn thiện và chuẩn hóa các dịch vụ cung ứng cho các loại hình doanh nghiệp để
thực sự cung cấp dịch vụ trọn gói, tạo sự gắn bó lâu dài giữa chi nhánh và doanh nghiệp.
2.1.2. Định hướng và mục tiêu phát triển của hoạt động thẩm định
- Đánh giá đúng vai trò hết sức quan trọng của công tác thẩm định đối với hiệu quả
sử dụng vốn của ngân hàng. Thẩm định chính xác sẽ giúp cho ngân hàng lựa chọn được dự
án có hiệu quả, và đưa ra quyết định tài trợ hợp lý đối với dự án.
- Tăng cường công tác thu thập, phân tích lựa chọn thông tin về các kế hoạch phát
triển kinh tế- xã hội của cả nước, của thành phố, kế hoạch đầu tư của các bộ, ngành…để
làm cơ sở dữ liệu cho công tác thẩm định sau này.
- Tiếp tục hoàn thiện quy trình thẩm định theo hướng ngày càng hợp lý, khoa học,
đồng bộ đảm bảo được sự phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng, và các cán bộ.
- Nội dung thẩm định: đảm bảo được tính khách quan, toàn diện và đồng bộ khi
phân tích và đánh giá các khía cạnh của dự án. Đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ với các
cơ quan chuyên môn, các chuyên gia về những lĩnh vực liên quan tới dự án.
- Tiếp tục nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ thẩm định không chỉ về chuyên môn
nghiệp vụ mà còn cả những hiểu biết về kinh tế- xã hội.
- Đảm bảo thời gian thẩm định dự án: nếu thẩm định theo đúng thời gian đã quy
định thì đảm bảo cho dự án được tiến hành đúng như tiến độ đã dự kiến. Nếu thời gian
thẩm định kéo dài có thể làm mất đi cơ hội chiếm lĩnh thị trường của dự án đã đề ra. Theo
như quy định chỉ tiêu chất lượng của NHĐT&PTVN: đối với dự án nhóm A tổng thời gian
xem xét là 25 ngày, trong đó thời gian thẩm định là 19 ngày; đối với dự án nhóm B tổng
thời gian xem xét là 18 ngày, trong đo thời gian thẩm định là 14 ngày; đối với những dự án
còn lại tổng thời gian xem xét là 9 ngày, thời gian thẩm định là 4 ngày.
2.2. Về phía Nhà nước và cơ quan hữu quan
2.2.1. Xây dựng một hệ thống luật pháp ổn định lâu dài
Để hoạt động của các Ngân hàng nói chung, và hoạt động thẩm định nói riêng đạt
được hiệu quả cao, thì vai trò của Nhà nước và các cơ quan hữu quan đặc biệt quan trọng,
nhất là trong điều kiện hiện nay khi nước ta đã ra nhập WTO và đang thực hiện chính sách
mở cửa.
Tại sao lại phải cần tới sự ổn định của luật pháp. Khi một khách hàng vay vốn, đặc
biệt vay vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh, thì họ thường vay vốn trung và dài hạn tức
là tối thiểu là từ 3 (hoặc 5 năm) trở lên. Đối với một dự án đầu tư, thời gian tồn tại của dự
án thường kéo dài, trong quá trình thẩm định thường giả định các quy định của pháp luật là
không thay đổi. Như vậy, khi có sự thay đổi của các quy định, thì căn cứ để tính toán các
chỉ tiêu cũng khác nhau, thậm chí cách xác định hiệu quả của dự án cũng khác nhau. Điều
đó có thể dẫn tới dự án nếu như căn cứ vào các quy định trước kia là hiệu quả, nhưng so
với quy định mới thì có thể lại trở nên kém hiệu quả, thậm chí không được chấp nhận. Đặc
biệt, khi có sự thay đổi về các quy định lãi suất, hạn mực tín dụng, chính sách thuế có thể
dẫn tới sự thay đổi lớn về kế hoạch trả nợ của dự án, ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của
doanh nghiệp.
Do đó mà yêu cầu đặt ra lúc này là Nhà nước và các cơ quan hữu quan cần nghiên
cứu để xây dựng được một hệ thống luật pháp ổn định, để đảm bảo cho các chủ đầu tư dễ
dàng trong việc lập dự án, đảm bảo chất lượng của công tác thẩm định. Điều này đặc biệt
quan trọng khi Việt Nam đã gia nhập WTO, đây chính là một trong những điểm nổi bật để
thu hút những nhà đầu tư nước ngoài vào làm ăn lâu dài tại Việt Nam.
Ngoài ra, cũng cần phải có những văn bản quy định cụ thể trách nhiệm của các bên
tham gia vào quá trình thẩm định như: Ngân hàng thương mại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các
bộ chủ quản, chủ đầu tư…để tránh sự chồng chéo trong hoạt động thẩm định, cũng như
quản lý dự án đầu tư, và cũng là nâng cao chất lượng của công tác thẩm định.
Đồng thời, các bộ ngành cũng cần phải đưa ra các chỉ tiêu định mức chung về kỹ
thuật, các chỉ tiêu về tài chính để đánh giá doanh nghiệp thuộc ngành mình. Qua đó, làm cơ
sở cho các cán bộ thẩm định dễ dàng hơn trong việc đánh giá năng lực của doanh nghiệp.
2.2.2. Xây dựng một hệ thống kiểm toán và kế toán hoàn chỉnh, có hiệu lực
Trên thực tế hiện nay hệ thống kế toán và kiểm toán của nước ta chưa thực sự có
hiệu lực, phát huy hết được vai trò của nó. Hiện nay đang tồn tại một thực trạng đó là, đa
phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và các doanh nghiệp nhỏ lẻ đang áp dụng chế độ
kế toán hết sức sơ sài và tùy tiện. Trong một công ty có thể tồn tại rất nhiều sổ kế toán
được lập ra với nhiều mục đích khác nhau như là: để trốn thuế, để chống lại sự kiểm tra
của các cơ quan kiểm toán, đảm bảo tính hợp pháp hóa của hoạt động kế toán, và có thể để
làm đẹp các kết quả tài chính của doanh nghiệp đảm bảo có thể vay vốn của ngân hàng một
cách dễ dàng…Chính điều này đã làm cho hoạt động tài chính của các doanh nghiệp trở
nên kém minh bạch, các số liệu mà doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng để thẩm tra đôi
khi là không đúng với thực tế, thậm chí được thổi phồng lên, nhằm mục đích cuối cùng là
được vay vốn. Do đó, khi tiến hành thẩm định cán bộ thẩm định sẽ không thể căn cứ hoàn
toàn vào những kết quả kinh doanh mà doanh nghiệp gửi tới cho mình. Nhưng để có được
con số chính xác là một điều rất khó khăn, điều này đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới chất
lượng của công tác thẩm định.
Mặt khác, các công ty kiểm toán ở nước ta đang còn khá non trẻ, thiếu kinh nghiệm.
Thêm vào đó là các quy định, cơ chế chính sách về họat động kế toán và kiểm toán của
Nhà nước chưa cụ thể, chặt chẽ, nên các doanh nghiệp không mấy quan tâm và tự nguyện
thực hiện kiểm toán tài chính của đơn vị mình. Ngoài ra, khi thực hiện kiểm toán tài chính,
thì doanh nghiệp lại mất đi một khoản chi phí tương đối nhất là khi muốn mời các công ty
tên tuổi. Đồng thời do sổ sách của doanh nghiệp không được khách quan, minh bạch nên
doanh nghiệp rất ngại khi tiến hành kiểm toán sẽ phát hiện ra những “việc làm” của mình.
Cũng chính do sự lỏng lẻo trong các quy định cộng với lại sự thiếu kinh nghiệm của
các công ty kiểm toán, nên kết quả kiểm toán của doanh nghiệp được gửi tới Ngân hàng
đôi khi không được hoàn toàn tin tưởng. Ngân hàng chỉ coi đó như một tài liệu tham khảo,
và bản thân cán bộ thẩm định, cán bộ tín dụng sẽ tự tiến hành phân tích, đánh giá căn cứ
vào kinh nghiệm, căn cứ vào những tài liệu thu thập được.
Vấn đề đặt ra lúc này đó là nhà nước cần thảo luận và đưa những quy định chung
thống nhất, chặt chẽ về chế độ kế toán và kiểm toán. Đồng thời hướng dẫn các doanh
nghiệp trong việc thực hiện các quy định về kế toán, kiểm toán. Khuyến khích hình thành
và phát triển các công ty kiểm toán tư nhân, các công ty kiểm toán nước ngoài có chất
lượng. Ngoài ra, nhà nước cũng cần đổi mới những qui định về chứng từ và sổ sách kế
toán theo hướng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp, đồng thời cũng nhằm
bảo đảm tiền đề cho việc giám sát của các cơ quan quản lý Nhà nước.
Khi nhà nước đã xây dựng được một hệ thống kế toán, kiểm toán hoàn chỉnh và có
hiệu lực, thì các doanh nghiệp sẽ phải chú ý và quan tâm tới hoạt động kế toán, kiểm toán
của mình. Chính điều này sẽ góp phần làm cho hoạt động tài chính của doanh nghiệp trở
nên minh bạch hơn. Qua đó tạo điều kiện cho việc thẩm định doanh nghiệp, thẩm định tài
chính tiến hành dễ dàng và hiệu quả hơn, góp phần nâng cao chất lượng của công tác thẩm
định, giúp cho ngân hàng đưa ra quyết định tín dụng một cách chính xác nhất.
2.2.3. Xây dựng một môi trường kinh doanh đồng nhất và cạnh tranh
Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, và cũng đang
từng bước hòa nhập vào nền kinh tế thế giới. Để hòa nhập được với nền kinh tế thế giới thì
trước hết nền kinh tế của ta phải đảm bảo được tính phát triển ổn định, bền vững có như
vậy khi tham gia hòa nhập chúng ta mới không bị thua thiệt. Một trong những điều kiện
quan trọng để nền kinh tế phát triển ổn định và bền vững đó chính là phải có môi trường
kinh doanh đồng nhất và cạnh tranh.
Nhà nước nên ban hành Luật cạnh tranh nhằm tạo ra một sân chơi bình đẳng cho
mọi thành phần kinh tế, khuyến khích tất cả thành phần tham gia đầu tư, phát triển nền
kinh tế. Khi Luật cạnh tranh có hiệu lực, sẽ không có sự phân biệt giữa các thành phần kinh
tế, kể cả tư nhân, tập thể hay nước ngoài. Đồng thời, các chính sách về tín dụng, cho vay
vốn, hay quy định về cấp giấy phép kinh doanh cũng sẽ không có sự phân biệt đối xử.
Đẩy mạnh việc xây dựng hoàn thiện khung pháp luật phù hợp với nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, tích cực tuyên truyền phổ biến kiến thức pháp luật, hướng dẫn,
đôn đốc kiểm tra các doanh nghiệp thực hiện các quy định của pháp luật, đảm bảo luật
được ban ra là phù hợp và nghiêm minh. Ngoài ra, tiếp tục nghiên cứu sửa đổi bổ sung luật
hiện hành cho phù hợp với yêu cầu phát triển và xu thế hội nhập.
2.3. Về phía NHĐT & PT Việt Nam chi nhánh Đông Đô
2.3.1. Công tác bồi dưỡng nâng cao năng lực cán bộ thẩm định
Con người là một tài sản vô giá của bất cứ một doanh nghiệp nào, đối với Ngân
hàng cũng vậy, đặc biệt đối với hoạt động thẩm định thì con người chính là nhân tố ảnh
hưởng tới chất lượng của công tác thẩm định. Mặt khác, vì đặc thù của công tác thẩm định
nên đòi hỏi cán bộ thẩm định ngoài những kiến thức chuyên môn còn phải có một kiến
thức rộng về nhiều lĩnh vực. Trước hết là sự hiểu biết về những định hướng phát triển của
cả nước, của địa phương và của ngành, tiếp đến là việc nắm bắt được những quy định mới
có liên quan tới hoạt động thẩm định. Ngoài ra, cán bộ thẩm định cũng phải hiểu biết về
các lĩnh vực như: thị trường, tài chính, những kiến thức cơ bản về kỹ thuật. Cán bộ thẩm
định cũng chính là người quyết định đến khả năng cho vay đối với một dự án, do vậy họ
phải chịu áp lực lớn trong công việc. Chính vì thế đòi hỏi cán bộ thẩm định phải có bản
lĩnh, tư cách đạo đức, lập trường vững vàng, tinh thần trách nhiệm cao. Do vậy, đầu tư
nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ thẩm định chính là điều kiện cần thiết để đảm bảo
cho hoạt động tín dụng diễn ra một cách có hiệu quả. Mặt khác, tín dụng lại là một trong
những hoạt động cơ bản của Ngân hàng, nên đầu tư nâng cao chất lượng cán bộ thẩm định
chính là đầu tư cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Vậy để tạo ra được một đội ngũ
cán bộ thẩm định năng động, nhiệt tình, có năng lực, ngân hàng có thể thực hiện các biện
pháp sau:
- Thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng không chỉ về chuyên môn nghiệp vụ, mà còn
mở các lớp bồi dưỡng tin hoc, ngoại ngữ, các lớp phổ biến các quy định mới nhất của nhà
nước, của Ngân hàng Trung Ương về công tác thẩm định, tín dụng. Qua đó, giúp cho cán
bộ thẩm định, tín dụng có điều kiện nắm bắt được những kiến thức mới nhất về nghiệp vụ,
quy trình thực hiện. Đồng thời, thông qua các lớp bồi dưỡng cũng tạo điều kiện cho các
cán bộ thường xuyên trao đổi kinh nghiệm, giao lưu học hỏi để giải quyết những vướng
mắc trong công việc.
- Khuyến khích các cán bộ đi học để nâng cao thêm kiến thức chuyên môn, và các
kiến thức khác phục vụ cho công việc, các kiến thức về thị trường chứng khoán, trái phiếu,
cổ phiếu. Ngân hàng tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích bằng cách: tạo điều kiện về
thời gian, cung cấp kinh phí…
- Đồng thời có những chính sách để thu hút những người tài, những chuyên gia về
làm việc, hoặc làm cố vấn, hoăc làm cộng tác cho ngân hàng. Họ chính là những người có
nhiều kinh nghiệm về mọi lĩnh vực của kinh tế, hiểu biết các quy định của pháp luật, đồng
thời họ có một tầm nhìn xa và rộng, có thể dự đoán được xu thế phát triển của nên kinh tế,
của ngành trong tương lai. Điều này là rất quan trọng cho công tác thẩm định, vì nhờ vào
đó mà khi tiến hành thẩm định một dự án cán bộ thẩm định có thể thấy được xu thế biến
động của dự án trong tương lai, từ đó có những tính toán hợp lý, và xác định liệu dự án còn
có hiệu quả không khi những dự đoán đó xảy ra. Từ đó có thể gợi ý cho chủ đầu tư các
biện pháp phòng ngừa giảm thiểu rủi ro, hoặc tận dụng được lợi thế trong tương lai.
- Thường xuyên tổ chức nhiều buổi thảo luận, trao đổi, báo cáo về tình hình tài
chính, tình hình kinh tế, xã hội của đất nước và khu vực để thấy được thực trạng hiện tại,
cũng như dự báo xu hướng tương lai, để mở rộng thêm tầm nhìn cho không chỉ cán bộ
thẩm định mà còn cho cả các cán bộ trong ngân hàng.
- Trong quá trình tuyển dụng đầu vào, cần có một biện pháp kiểm tra khoa học, hợp
lý để tuyển chọn được những người có kiến thức phù hợp với vị trí công việc yêu cầu.
Ngân hàng cũng cần có những chính sách thu hút nhân tài, các chuyên viên hợp tác và làm
việc với chi nhánh.
Một điểm hạn chế trong công tác thẩm định, đó là cán bộ thẩm định đa phần là
những người tốt nghiệp các trường kinh tế, do đó khi thẩm định về phần kỹ thuật chủ yếu
là chỉ xem xét về giá cả chứ không thể kiểm tra được đặc tính của nó. Để khắc phục hạn
chế này Ngân hàng có thể hợp tác với các tổ chức kinh tế, cộng tác với các chuyên gia về
kỹ thuật, hoặc thuê tư vấn. Họ là những người có kiến thức chuyên sâu về kỹ thuật do đó
sẽ đảm bảo cho hoạt động thẩm định có chất lượng hơn.
Ngoài việc quan tâm tới việc nâng cao năng lực, kiến thức chuyên môn nghiệp vụ
cho cán bộ, Ngân hàng cũng thường xuyên quan tâm tới đời sống vật chất, đời sống tinh
thần của các cán bộ. Bằng cách tạo ra một môi trường cạnh tranh công bằng, tạo điều kiện
cho tất cả mọi người đều có quyền phát huy năng lực của mình, đồng thời có một cơ chế
thưởng phạt phân minh. Ngoài ra, Chi nhánh cũng quan tâm tới đời sống tinh thần của cán
bộ bằng cách: tổ chức các buổi liên hoan, giao lưu văn nghệ, thể thao, tổ chức các kỳ nghỉ
không chỉ cho chính các cán bộ mà còn cho cả gia đình của họ. Qua đó tạo ra một sự thoải
mái, giảm bớt căng thẳng sau một quá trình làm việc. Chi nhánh cũng nên có những khu
tập thể dục thể thao cho cán bộ sau những giờ làm việc căng thẳng. Bên cạnh đó cũng có
những chính sách đãi ngộ khuyến khích kịp thời những người có thành tích cao trong học
tập cũng như công tác.
2.3.2. Nâng cao chất lượng thu thập thông tin
Thông tin là một yếu tố rất quan trọng đối với công tác thẩm định, nó quyết định tới
chất lượng của công tác thẩm định. Khi tiến hành thẩm định các cán bộ thường lấy thông
tin chủ yếu từ những tài liệu mà khách hàng chuyển đến, những thông tin từ các phương
tiện thông tin đại chúng, từ mối quan hệ đã có với chi nhánh… từ đó có những phân tích để
đưa ra kết luận hợp lý nhất. Nhưng trên thực tế những thông tin chưa đảm bảo được độ
chính xác cao, do đó yêu cầu nâng cao chất lượng thu thập thông tin là rất quan trọng.
Để nâng cao chất lượng thu thập thông tin, thì thông tin đó phải được lấy từ nhiều
nguồn không chỉ từ khách hàng, từ thông tin đại chúng, từ mối quan hệ với chi nhánh mà
đó còn là thông tin từ mối quan hệ với các chi nhánh, ngân hàng khác, và lấy từ quá trình
điều tra khảo sát.