Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Các tổ chức xã hội dân sự trong mối quan hệ giữa nhà nước và kinh tế thị trường : Luận văn ThS. Nhân văn khác: 602203

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 92 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

THÁI THỊ TÚ ANH

CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI DÂN SỰ TRONG MỐI QUAN HỆ
GIỮA NHÀ NƢỚC VÀ KINH TẾ THỊ TRƢỜNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: TRIẾT HỌC

HÀ NỘI – 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

THÁI THỊ TÚ ANH

CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI DÂN SỰ TRONG MỐI QUAN HỆ
GIỮA NHÀ NƢỚC VÀ KINH TẾ THỊ TRƢỜNG

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 03 01

Chủ tịch Hội đồng

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học


PGS.TS. Nguyễn Anh Tuấn

TS. Phạm Quỳnh

HÀ NỘI – 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của cá
nhân tôi. Nội dung và các trích dẫn nêu trong luận văn là trung thực.
Tác giả luận văn

Thái Thị Tú Anh


LỜI CẢM ƠN
Tơi xin bày tỏ lịng biến ơn sâu sắc tới TS.Phạm Quỳnh đã hướng dẫn
khoa học, tận tình giúp đỡ, chỉ bảo và góp ý cho luận văn của tơi được hồn
thành.
Tơi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa Triết học, Phòng Quản lý
Đào tạo đã làm việc đầy trách nhiệm, tạo điều kiện thuận lợi cho tơi trong q
trình học tập và hồn thành luận văn.
Tơi xin trân trọng cảm ơn Lãnh đạo Trường Đại học Thuỷ Lợi - nơi tôi
công tác đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt q trình học tập và
nghiên cứu.
Tơi xin được cảm ơn các Thầy, Cô giáo, các nhà khoa học của khoa Triết
học - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã có những chia sẻ,
đóng góp tâm huyết, trách nhiệm và định hướng cho tôi để cơng trình nghiên

cứu của tơi được hồn thành.
Cảm ơn gia đình, đồng nghiệp, bạn bè đã quan tâm, động viên, chia sẻ
với tơi trong suốt q trình học tập và nghiên cứu./.
Tác giả

Thái Thị Tú Anh


MỤC LỤC
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

2

MỞ ĐẦU

3

Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƯỚC, KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
VÀ CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI DÂN SỰ
11
1.1. Một số vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa nhà nước và kinh tế thị trường ...........11
1.2. Một số vấn đề lý luận về xã hội dân sự và tổ chức xã hội dân sự ............................23
Chương 2 VAI TRÒ CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI DÂN SỰ TRONG MỐI QUAN
HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
38
2.1. Các tổ chức xã hội dân sự tham gia cùng nhà nước trong hoạt động bảo vệ quyền
và lợi ích chính đáng cho người dân trong nền kinh tế thị trường ..................................38

2.2. Các tổ chức xã hội dân sự vừa hỗ trợ thực hiện chức năng xã hội của nhà nước,
vừa tham gia phản biện xã hội, giám sát các hoạt động của cơ quan nhà nước trong nền
kinh tế thị trường ................................................................................................................41
2.3. Các tổ chức xã hội dân sự thực hiện chức năng tự điều tiết những vấn đề phát sinh
từ hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường ........................45
Chương 3 VAI TRÒ CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI DÂN SỰ TRONG MỐI QUAN
HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 1986
ĐẾN NAY
49
3.1. Khái quát chung về đặc điểm của các tổ chức xã hội dân sự trong mối quan hệ giữa
nhà nước và kinh tế thị trường ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay ..................................49
3.2. Sự tác động của các tổ chức xã hội dân sự trong mối quan hệ giữa nhà nước và
kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay ............................................................................54
3.3. Một số vấn đề đặt ra trong sự tác động của các tổ chức xã hội dân sự đến mối quan
hệ giữa nhà nước và kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay .........................................74
KẾT LUẬN

81

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

83

1


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ADB

Ngân hàng phát triển châu Á


AFEO

Tổ chức Hành động vì mơi trường

CBO

Tổ chức cộng đồng

CCS

Trung tâm Xã hội dân sự

CSO

Tổ chức xã hội dân sự

CIVICUS

Liên hội quốc tế các tổ chức xã hội dân sự

DOC

Bộ Thương mại Hoa Kỳ

ENV

Trung tâm Giáo dục Thiên nhiên

ITC


Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ

MO

Tổ chức quần chúng

NGO

Tổ chức phi chính phủ

NPO

Tổ chức phi lợi nhuận

PO

Tổ chức nhân dân

SSA

Liên minh Tôm miền Nam Hoa Kỳ

VACNE

Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam

VASEP

Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam


VCCI

Phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam

VIDS

Viện những vấn đề Phát triển

VINATAS
VUFO

Hội tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng
Hiệp hội Hồ bình, Hữu nghị và Đoàn kết Việt Nam

VUSTA

Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam

VWAA

Liên hiệp Văn học và Nghệ thuật Việt Nam

WB
XHDS

Ngân hàng Thế giới
Xã hội dân sự

2



MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Ngày nay, các tổ chức xã hội dân sự đang ngày càng phát triển với nhiều hình

thức tổ chức phong phú, hoạt động trên nguyên tắc tự nguyện, tự quản, tự trang trải về
tài chính, đề cao sự đồng thuận, chia sẻ về lợi ích. Các tổ chức này, trong đa số trường
hợp là cầu nối giữa nhân dân với nhà nước, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân
dân, tham gia vào quá trình hoạch định chính sách và tư vấn, phản biện các chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước.
Ở nước ta, thực tiễn hơn 30 năm đổi mới cho thấy, trong điều kiện phát triển
kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, các tổ chức xã
hội dân sự có điều kiện để phát triển nhanh về số lượng và phong phú về loại hình,
hình thức tổ chức, đa dạng về phương thức hoạt động. Vai trò của các tổ chức xã
hội dân sự ngày càng trở nên quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề xã hội mà
nhà nước "không với tới" hoặc kém hiệu quả trong đời sống các cộng đồng dân cư;
góp phần giảm thiểu các tác động tiêu cực của kinh tế thị trường.
Hiện nay, chúng ta cũng có thể nhận thấy rõ, thị trường có những khuyết tật và
cơ chế thị trường có thể bị thất bại trong việc giải quyết một số vấn đề phát triển, ví
dụ như khủng hoảng, đói nghèo, cơng bằng xã hội, môi trường, v.v. Để khắc phục
chúng và tránh khỏi thất bại thị trường, khơng chỉ có vai trị điều tiết, quản lý của
nhà nước mà cịn có sự tham gia của các tổ chức xã hội dân sự để điều chỉnh và
cùng tham gia giải quyết các vấn đề xã hội.
Những hạn chế trong mối quan hệ giữa nhà nước và kinh tế thị trường chỉ có
thể được khắc phục một cách hiệu quả khi xây dựng và phát triển xã hội dân sự, tức
là phát huy vai trò của các tổ chức xã hội dân sự, huy động sự tham gia rộng rãi của
người dân và cộng đồng vào công việc xã hội. Thực tiễn đã khẳng định sự hình

thành và phát triển của các tổ chức xã hội dân sự là một tất yếu khách quan gắn liền
với q trình xây dựng nền kinh tế thị trường, hồn thiện nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo điều kiện để người dân được làm

3


những việc mà pháp luật không cấm, nhằm thoả mãn nhu cầu và lợi ích ngày càng
phong phú, đa dạng của mình.
Từ những lý do kể trên, tác giả lựa chọn vấn đề “Các tổ chức xã hội dân sự trong
mối quan hệ giữa nhà nước và kinh tế thị trường” làm đề tài luận văn của mình.
2.

Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, vấn đề xã hội dân sự được giới nghiên cứu lý luận

quan tâm, chú ý. Qua sự tìm tịi, nghiên cứu và tiếp cận với những tư liệu liên quan
đến đề tài, tác giả tổng quan tư liệu chủ yếu trên ba nhóm chủ đề lớn như sau:
2.1. Nhóm các cơng trình nghiên cứu về xã hội dân sự
Phạm Văn Đức (2015), Lịch sử triết học của xã hội dân sự [10], Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội đã nêu rõ các quan điểm của một số nhà triết học tiêu biểu trong
lịch sử triết học như Aristotle, T.Hobber, J.Locke, Montesquieu, J.J.Rousseau,
I.Kant, G.W.F.Hegel và kể cả K.Marx về xã hội dân sự. Đồng thời, tác phẩm cũng
trình bày một số quan điểm và cách tiếp cận hiện đại của chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa
cộng đồng và chủ nghĩa cộng hòa về vấn đề xã hội dân sự. Hơn hết, tác phẩm đã chỉ
ra mô hình xã hội dân sự ở một số nước trên thế giới và cũng cho thấy được quan
điểm của tác giả về các mơ hình xã hội dân sự nêu trên.
Vũ Duy Phú (2008), Xã hội dân sự - Một số vấn đề chọn lọc [36], Nxb Tri
thức, Hà Nội đã đi vào khái quát vị trí, chức năng, sự đa dạng của xã hội dân sự,
quan hệ giữa xã hội dân sự với các tổ chức nhà nước và thị trường ở trong nước và

trên thế giới. Đặc biệt là trong điều kiện tồn cầu hóa đã mở rộng và nền kinh tế tri
thức đang phát triển, tác phẩm khẳng định rằng vấn đề xã hội dân sự lại càng cần
được tiếp tục phân tích và phổ biến rộng rãi trong nhân dân.
Ngồi ra, cịn có một số bài báo cũng đề cập nhiều đến vấn đề xã hội dân sự
như: bài trao đổi ý kiến của tác giả Phạm Xuân Nam (2009), "Quan điểm của chủ
nghĩa Marx về xã hội dân sự trong chế độ dân chủ và những tư tưởng gần gũi của
Hồ Chí Minh" [29], Tạp chí Triết học, số 07 (218). Trong bài viết, tác giả đã phân
tích nhằm làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Marx về xã hội dân sư, đặc biệt là tư
tưởng của Hồ Chí Minh về chế độ dân chủ và nhà nước dân chủ kiểu mới gắn với

4


mọi công việc của người dân trong xã hội. Trên cơ sở phân tích các quan điểm về
xã hội dân sự, tác giả đã rút ra 4 nhận định cơ bản; trong đó có ý kiến đề nghị Đảng
và nhà nước cần thừa nhận, tạo điều kiện và chăm lo cho sự phát triển của xã hội
dân sự theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Trần Hữu Quang (2009), “Một số quan niệm cổ điển về xã hội dân sự”, Tạp
chí Khoa học xã hội [40], số 07 (131). Ở bài viết này, tác giả trình bày khái quát
lịch sử sinh thành của khái niệm xã hội dân sự ở các nhà tư tưởng cổ điển phương
Tây, đồng thời cho thấy diễn trình chuyển biến của khái niệm này.
Trần Hữu Quang (2009), “Một số quan niệm đương đại về xã hội dân sự”, Tạp
chí Khoa học xã hội [41], số 12 (136). Bài viết này điểm lại một số quan niệm về
khái niệm xã hội dân sự trên thế giới trong vòng vài chục năm trở lại đây.
2.2. Nhóm các cơng trình nghiên cứu về nhà nước và mối quan hệ giữa nhà
nước và kinh tế thị trường
Nguyễn Đăng Dung (2007), Ý tưởng về một nhà nước chịu trách nhiệm[4],
Nxb Đà Nẵng nghiên cứu về một nhà nước của nhân dân, từ một nhà nước dân chủ
đi đến một nhà nước đại diện và sự thay thế này dẫn đến việc nhà nước phải chịu
trách nhiệm. Từ đó, tác phẩm đi đến kết luận về trách nhiệm của chính quyền nhà

nước Việt Nam, giúp độc giả thấy được vai trò thực sự của nhà nước Việt Nam.
Nguyễn Đăng Dung (2009), Nhà nước là những con số cộng giản đơn [5],
Nxb Lao động nêu rõ, muốn có một nhà nước chịu trách nhiệm thì cách thức tổ
chức của nhà nước phải hết sức đơn giản bằng những con số cộng đơn giản hai số
hạng, và mỗi số hạng phải chịu trách nhiệm về những hành vi của mình. Muốn làm
được điều đó, trước hết phải phân biệt giữa nhà nước và xã hội công dân, nhà nước
chỉ được phép làm những gì mà người dân khơng thể làm được.
N.M.Voskresenskaia, N.B.Daviletshina (2008), Chế độ dân chủ - Nhà nước và
xã hội [52] do Phạm Nguyên Trường dịch, Nxb Tri thức, Hà Nội trình bày một cách
mạch lạc về những điều hết sức cơ bản: Thế nào là dân chủ? Xã hội và các giá trị
dân chủ, quyền con người trong xã hội dân chủ, xã hội dân sự, các hình thức tổ chức

5


chính quyền và nhà nước, văn hóa chính trị và văn hóa quyền lực,... Tác phẩm được
viết như một thử nghiệm đầu tiên trong việc soản thảo sách giáo khoa về dân chủ.
Tài liệu học tập và nghiên cứu môn học (2006), Lý luận chung về nhà nước và
pháp luật (tập I) [18], Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội trình bày quy luật ra đời, tồn tại và
phát triển của hai định chế nhà nước và pháp luật; đồng thời còn bàn đến vấn đề bản
chất, vai trò, chức năng và mối quan hệ hữu cơ giữa nhà nước và pháp luật nói chung,
nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa nói riêng trên cơ sở của chủ nghĩa Marx - Lenin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm đổi mới của Đảng và pháp luật hiện hành.
Sách kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế (2012) Nhà nước pháp quyền. Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn [53], khoa Triết học, trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, Đại học Quốc Gia Hà Nội đã tập hợp những bài viết tiêu biểu đề cập đến
những khía cạnh khác nhau của vấn đề đó. Mặc dù đề cập đến những vấn đề khác
nhau nhưng những bài viết này đều bàn về những vấn đề lý luận chung về nhà nước
pháp quyền; thực tiễn nhà nước pháp quyền và những vấn đề đặt ra trong quá trình
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

2.3. Nhóm các cơng trình nghiên cứu về mối tương quan giữa xã hội dân sự với
nhà nước và kinh tế thị trường
Nguyễn Mạnh Bình (2012), "Hoàn thiện cơ chế pháp lý giám sát xã hội đối
với việc thực thi quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay" [2], Nxb Chính trị Quốc
gia đã chỉ rõ, trong tiến trình xây dựng và hồn thiện nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta hiện nay, việc mở rộng
dân chủ đi đôi với thực hiện quyền giám sát của người dân là một đòi hỏi tất yếu
khách quan. Sự tham gia của nhân dân thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
quần chúng vào các quá trình hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của nhà nước, góp phần hồn thiện các chủ trương, chính sách, pháp
luật sát hợp với thực tiễn của đời sống xã hội, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp,
chính đáng và thể hiện được ý chí, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân. Vì vậy,
xây dựng cơ chế pháp lý giám sát xã hội hữu hiệu đối với việc thực hiện quyền lực
nhà nước ở Việt Nam hiện nay là một vấn đề cần thiết.

6


Thang Văn Phúc, Nguyễn Minh Phương (2010), Vai trò của các tổ chức xã hội
đối với phát triển và quản lý xã hội [37], Nxb Chính trị Quốc Gia - Sự thật đã cung
cấp tài liệu tìm hiểu về vai trò của các tổ chức xã hội ở các nước trên thế giới và ở
Việt Nam. Cơng trình chủ yếu tập trung giải đáp những câu hỏi lớn như: Thế nào là
tổ chức xã hội? Chúng được hình thành và hoạt động trên cơ sở, nguyên tắc nào? Vai
trò của các tổ chức xã hội đối với phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội trong
điều kiện phát triển kinh tế thị trường và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa? Cần có những chính sách, cơ chế, pháp luật nào để bảo đảm cho các tổ chức
này hoạt động đúng với tính chất của tổ chức nhân dân, góp phần thực hiện mục tiêu
xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn mình?, v.v..
Sách kỷ yếu Hội thảo Khoa học Quốc gia (2010), Các lý thuyết kinh tế trong
bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu và thực tiễn Việt Nam [24], Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội, Hà Nội đã tập hợp các bài viết tiêu biểu bàn về các lý thuyết kinh
tế và những vấn đề rút ra cho Việt Nam. Thơng qua các bài viết của mình, các tác
giả muốn khẳng định vấn đề có tính thời sự, khơng chỉ của Việt Nam mà là của tồn
nhân loại, đó là chắt lọc, tìm tịi như thế nào để hình thành nền tảng lý luận kinh tế
phục vụ mục tiêu phát triển đất nước. Đây là một vấn đề khó, phức tạp và nhạy
cảm; địi hỏi cần tiếp tục nghiên cứu và thảo luận.
Vũ Thị Thu Hường (2010), Mối quan hệ giữa xã hội dân sự và nhà nước pháp
quyền ở Việt Nam [22], khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội đã trình bày sự hình
thành và phát triển các tư tưởng xã hội dân sự và quá trình xây dựng xã hội dân sự ở
Việt Nam. Luận văn đã đi sâu phân tích mối quan hệ giữa xã hội dân sự và nhà
nước pháp quyền ở Việt Nam, từ đó đề ra phương hướng phát triển xã hội dân sự
trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay.
Lê Văn Quang (2004), “Quan hệ giữa nhà nước xã hội chủ nghĩa và đời sống
xã hội dân sự” [43], Tạp chí Triết học, số 3 (154) trình bày quan hệ giữa nhà nước
với xã hội dân sự là quan hệ giữa hệ thống thiết chế điều tiết với khách thể của sự
điều tiết ấy; đồng thời, đó cịn là quan hệ giữa bản thân thiết chế với cơ sở xã hội
của thiết chế ấy. Trong đó, những nội dung quan trọng nhất cần khẳng định chính là

7


phương thức mà nhà nước xã hội chủ nghĩa sử dụng để giải quyết các mối liên hệ
biện chứng giữa tập trung và dân chủ, giữa chính trị và nhân văn, giữa giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa với phát triển kinh tế nhiều thành phần và phát huy đại
đoàn kết dân tộc, giữa thực hiện chức năng xã hội - chính trị và chức năng xã hội dân sự trên các phương diện của đời sống xã hội v.v...
Tóm lại, các cơng trình nghiên cứu kể trên đã nghiên cứu những vấn đề lý luận,
thực tiễn trong vấn đề xã hội dân sự nói chung ; mối quan hệ giữa nhà nước, kinh tế
thị trường và xã hội dân sự nói riêng. Tuy nhiên, do mục đích nghiên cứu của mỗi
cơng trình khác nhau nên chưa có cơng trình nào nghiên cứu chuyên biệt về “Các tổ
chức xã hội dân sự trong mối quan hệ giữa nhà nước và kinh tế thị trường”.

3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

-

Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu vai trị củacác tổ chức xã hội dân sự trong

mối quan hệ giữa nhà nước và kinh tế thị trường. Từ đó, liên hệ một số vấn đề về
vai trò của các tổ chức xã hội dân sự trong mối quan hệ giữa nhà nước và kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay.
-

Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Khái quát một số vấn đề lý luận về nhà nước, kinh tế thị trường và các tổ chức
xã hội dân sự.
+ Phân tích vai trị của các tổ chức xã hội dân sự trong mối quan hệ giữa nhà
nước và kinh tế thị trường.
+ Phân tích sự tác động của các tổ chức xã hội dân sự tại Việt Nam trong mối
quan hệ giữa nhà nước và kinh tế thị trường từ năm 1986 đến nay. Từ đó, đề
xuất một số giải pháp giúp hồn thiện vai trò của các tổ chức xã hội dân sự
trong mối quan hệ giữa nhà nước và kinh tế thị trường ở Việt Nam.

4.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

-

Đối tượng nghiên cứu: Các tổ chức xã hội dân sự trong mối quan hệ giữa nhà


nước và kinh tế thị trường.

8


-

Phạm vi nghiên cứu: Trong khuôn khổ luận văn này, phạm vi nghiên cứu

khoanh vùng phân tích vai trị của các tổ chức xã hội dân sự trong mối quan hệ giữa
nhà nước và kinh tế thị trường biểu hiện ở một số mặt sau:
+ Các tổ chức xã hội dân sự tham gia cùng nhà nước trong hoạt động bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng cho người dân trong nền kinh tế thị trường.
+ Các tổ chức xã hội dân sự vừa hỗ trợ thực hiện chức năng xã hội của nhà
nước, vừa tham gia phản biện xã hội, giám sát các hoạt động của cơ quan nhà
nước trong nền kinh tế thị trường.
+ Các tổ chức xã hội dân sự thực hiện chức năng tự điều tiết những vấn đề
phát sinh từ hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường.
5.

Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

-

Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa

Marx - Lenin, các nhà kinh điển và các nhà khoa học về nhà nước, kinh tế thị
trường và xã hội dân sự.

-

Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp phân tích - tổng

hợp, trừu tượng hoá, khái quát hoá, so sánh đối chiếu trong phương pháp nghiên
cứu cũng như phương pháp trình bày.
6.

Đóng góp của luận văn

-

Luận văn hệ thống hoá, khái quát hoá những vấn đề lý luận về nhà nước, kinh

tế thị trường và các tổ chức xã hội dân sự.
-

Luận văn bước đầu phân tích về sự tác động của các tổ chức xã hội dân sự

trong mối quan hệ giữa nhà nước và kinh tế thị trường ở Việt Nam từ khi đổi mới
đất nước đến nay. Từ đó, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện vai trò
của các tổ chức xã hội dân sự trong mối quan hệ giữa nhà nước và kinh tế thị trường
ở Việt Nam hiện nay.
-

Luận văn có thể coi là một tài liệu tham khảo, cung cấp thêm thông tin về vai

trò của các tổ chức xã hội dân sự trong mối quan hệ giữa nhà nước và kinh tế thị

9



trường dành cho các học giả cũng như sinh viên, học viên cao học các chuyên
ngành triết học, luật học, chính trị học...
7.

Kết cấu của luận văn
Luận văn ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, gồm 3

chương và 8 tiết.

10


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƢỚC, KINH TẾ THỊ TRƢỜNG VÀ
CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI DÂN SỰ
1.1. Một số vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa nhà nƣớc và kinh tế thị trƣờng
1.1.1. Một số vấn đề lý luận về nhà nước và kinh tế thị trường
Bản chất và chức năng của nhà nước
Học thuyết Marx - Lenin đã giải thích một cách đúng đắn và khoa học về bản
chất của nhà nước. Khi nghiên cứu về nguồn gốc và sự ra đời của nhà nước, các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Marx - Lenin đã chỉ rõ, nhà nước chỉ sinh ra và tồn tại
trong xã hội có giai cấp, và chính vì thế nhà nước luôn luôn mang bản chất giai cấp
sâu sắc. Theo đó, chúng ta có thể xác định bản chất của nhà nước như sau: nhà nước
là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị trong xã hội có giai cấp, thực hiện
chun chính giai cấp và chức năng quản lý đặc biệt nhằm bảo vệ lợi ích của giai
cấp thống trị trong xã hội, duy trì trật tự xã hội và phục vụ những nhu cầu thiết yếu
của đời sống cộng đồng [18, tr.18].
Có nhiều cách tiếp cận và xác định chức năng cơ bản của nhà nước. Theo tiêu

chí căn cứ vào phạm vi hoạt động của nhà nước, các chức năng của nhà nước được
chia thành chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Chức năng đối nội là những
phương diện hoạt động chủ yếu của nhà nước trong nội bộ đất nước như: bảo vệ trật
tự xã hội, trấn áp những phần tử chống đối chế độ, bảo vệ và phát triển chế độ kinh
tế, văn hoá... Chức năng đối ngoại thể hiện vai trò của nhà nước trong quan hệ với
các nhà nước và dân tộc khác như: phòng thủ đất nước, chống sự xâm lược từ bên
ngoài, thiết lập mối quan hệ với các quốc gia khác... Các chức năng này có mối
quan hệ mật thiết với nhau, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau.
Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động của nhà nước, có thể chia các chức năng của
nhà nước thành các loại: chức năng kinh tế nhằm điều tiết, quản lý nền kinh tế của
đất nước; chức năng xã hội nhằm giải quyết những vấn đề chung vì sự phát triển
của xã hội như: phát triển văn hoá, ý tế, giáo dục, cơ sở hạ tầng, cung cấp dịch vụ

11


công,...; chức năng trấn áp nhằm bảo vệ địa vị và quyền thống trị của giai cấp thống
trị, giữ vững an ninh, trật tự, an toàn xã hội; chức năng quốc phòng để chống xâm
lược, bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất nước; chức năng thiết lập các mối quan hệ
ngoại giao, hữu nghị và hợp tác quốc tế.
Căn cứ vào mục đích hoạt động của nhà nước, có thể chia chức năng của nhà
nước thành hai loại là chức năng tổ chức và quản lý, bao gồm một số chức năng cụ
thể như: chức năng kinh tế, xã hội, thiết lập các mối quan hệ hữu nghị và hợp tác
quốc tế....; chức năng bảo vệ như bảo vệ tổ quốc, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an
tồn xã hội... Tuy nhiên, mỗi kiểu nhà nước có bản chất riêng, nên chức năng của
các nhà nước và việc tổ chức bộ máy để thực hiện các chức năng đó cũng có những
đặc điểm riêng.
Nhà nước là một phạm trù lịch sử, luôn vận động, thay đổi phụ thuộc vào các
yếu tố như kinh tế, xã hội, chính trị, văn hoá, lịch sử... Lịch sử phát triển xã hội lồi
người đã chỉ rõ, nhà nước được hình thành và bị quy định bởi cơ sở hạ tầng, nghĩa

là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội. Các kiểu
nhà nước khác nhau đều dựa trên cơ cấu kinh tế của xã hội ở những trình độ phát
triển khác nhau. Nhà nước phải được hình thành và phát triển trên nền tảng cơ cấu
kinh tế thị trường và xã hội dân sự.
Kinh tế thị trường và những đặc trưng cơ bản của nó
Kinh tế thị trường là sản phẩm của nền văn minh nhân loại, nó cũng có một q
trình phát triển lâu dài, có những nét đặc thù ở mỗi quốc gia và mỗi chế độ xã hội.
Chỉ khi nào lực lượng sản xuất và phân cơng đạt tới trình độ cao, sản xuất hàng hoá
phát triển mạnh, trao đổi trở nên phổ biến và thị trường mở rộng, các quan hệ thị
trường và thể chế được hoàn thiện, các loại hình thị trường hình thành đồng bộ và vận
hành thơng suốt thì mới có kinh tế thị trường. Trong lịch sử nhân loại, kinh tế thị
trường ra đời khi xuất hiện phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa tư bản
là xã hội đầu tiên sử dụng kinh tế thị trường phục vụ cho mục tiêu tạo ra của cải, lợi
nhuận và tăng tích luỹ. Có kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và kinh tế thị trường xã
hội chủ nghĩa. Trong đó, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa chính là nền kinh tế thị trường

12


phát triển đến trình độ phổ biến và hồn chỉnh. Nấc thang phát triển cao hơn của kinh
tế thị trường chính là nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là nền kinh tế
thị trường xã hội chủ nghĩa. Để phát triển lên nấc thang này, nền kinh tế thị trường
phải phát triển hết mức, phải trở thành phổ biến trong đời sống kinh tế - xã hội. Như
vậy, kinh tế thị trường được xác định là một nấc thang tất yếu, mang tính phổ biến
trong quá trình phát triển của lịch sử nhân loại.
Sự khác biệt giữa kinh tế thị trường so với kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hố
giản đơn khơng chỉ ở chỗ chúng biểu hiện cho những giai đoạn phát triển kinh tế thị
trường mà còn chủ yếu là ở bản chất xã hội hoá. Nếu xét về nội dung và bản chất,
kinh tế thị trường được hiểu là quan hệ sản xuất và quan hệ kinh tế đặc trưng cho xã
hội hoá, là kiểu tổ chức xã hội và sự kết hợp xã hội các quá trình kinh tế. Kinh tế thị

trường là quan hệ đặc biệt gắn kết lao động cá nhân và lao động xã hội, là quan hệ
phân công lao động xã hội và quan hệ giữa các giá trị xã hội, là quan hệ giá trị nhằm
tạo ra giá trị thặng dư và giá trị gia tăng ngày càng cao. Nếu xét về mặt nội dung,
kinh tế thị trường khác với kinh tế truyền thống ở chỗ nó là kinh tế hàng hố tích
luỹ và tăng trưởng, gắn với tính hiệu quả và q trình tái sản xuất mở rộng, ln
cách mạng hố ngay chính trong cơ sở công nghệ và kinh tế [1, tr.31].
Kinh tế thị trường nói chung bao gồm một số đặc trưng cơ bản như sau:
Thứ nhất, q trình lưu thơng những sản phẩm vật chất và phi vật chất từ sản
xuất đến tiêu dùng phải được thực hiện chủ yếu bằng phương thức mua - bán.
Do có sự phân cơng chun mơn hố trong việc sản xuất ra sản phẩm xã hội
ngày càng cao dẫn đến có sự luân chuyển vật chất trong nền kinh tế, sản phẩm trước
khi đến với người tiêu dùng cần được gia công qua nhiều khâu chuyển tiếp nhau.
Bên cạnh đó, giữa những người sản xuất, xuất hiện tình trạng thừa hoặc thiếu sản
phẩm, do đó cần có sự trao đổi cho nhau. Sự luân chuyển vật chất trong q trình
sản xuất có thể được thực hiện bằng nhiều phương thức khác nhau: luân chuyển nội
bộ, luân chuyển qua mua - bán. Trong nền kinh tế thị trường, sản phẩm được sản
xuất ra chủ yếu để trao đổi thông qua thị trường.

13


Thứ hai, trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể kinh tế độc lập với nhau
Nền kinh tế thị trường đòi hỏi sự tồn tại của các chủ thể kinh tế độc lập dưới
nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Các chủ thể trong nền kinh tế thị trường hoàn
toàn độc lập, tự chủ trong việc quyết định: Sản xuất cái gì? Sản xuất cho ai? Sản
xuất như thế nào? Họ có quyền tự quyết định sản xuất kinh doanh và chịu trách
nhiệm đối với quyết định đó. Trong kinh tế thị trường, sở hữu tư nhân luôn luôn là
thành tố tất yếu. Bên cạnh sở hữu tư nhân, trong kinh tế thị trường còn tồn tại các
dạng sở hữu khác như sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, các dạng đồng sở hữu của
các chủ thể khác... Về nguyên tắc, các chủ sở hữu và các hình thức sở hữu trong nền

kinh tế thị trường là độc lập và bình đẳng với nhau trong hoạt động kinh doanh và
trước pháp luật. Mỗi hình thức sở hữu và chủ thể sở hữu có vai trị, chức năng khác
nhau trong nền kinh tế thị trường.
Thứ ba, sự hoạt động của kinh tế thị trường phải dựa trên cơ sở cơ chế thị
trường và các quy luật thị trường
Cơ chế thị trường đảm bảo sự vận hành của hệ thống kinh tế thị trường. Cơ
chế vận hành hệ thống kinh tế thị trường là cơ chế về mối liên hệ và tác động qua
lại giữa các bộ phận chủ yếu của thị trường là cung, cầu và giá cả. Cơ chế thị trường
thực hiện vai trò phối hợp hoạt động giữa các chủ thể kinh tế riêng và tự điều tiết sự
phân bổ các phúc lợi cũng như nguồn lực trong nền kinh tế thông qua các quy luật
kinh tế thị trường.
Các quy luật kinh tế thị trường là một hệ thống bao gồm quy luật giá trị, quy
luật giá trị thặng dư, quy luật cung - cầu, quy luật lưu thông tiền tệ... Quy luật giá trị
là quy luật chung của kinh tế hàng hoá. Quy luật này yêu cầu sản xuất và trao đổi
hàng hoá trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Quy luật giá trị thặng dư là
quy luật kinh tế cơ bản của nền kinh tế thị trường phát triển. Thực chất, quá trình
sản xuất giá trị và giá trị thặng dư là thống nhất trong nền kinh tế. Tuy nhiên, trong
điều kiện sản xuất tư bản chủ nghĩa, quy luật này lại mang bản chất tư bản chủ
nghĩa, nhằm phục vụ cho mục tiêu chiếm đoạt giá trị thặng dư, tăng lợi nhuận của
nhà tư bản. Quy luật cạnh tranh là quy luật quan trọng, đặc trưng cho sự vận hành

14


của cơ chế thị trường. Nói đến kinh tế thị trường thì khơng thể khơng nhắc đến cạnh
tranh tự do. Cạnh tranh thúc đẩy cải tiến hợp lý hoá sản xuất, ứng dụng tiến bộ khoa
học kỹ thuật, giảm chi phí và hạ giá thành sản xuất, tăng năng suất lao động và phát
triển lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, cạnh tranh luôn tiềm ẩn xu hướng dẫn đến độc
quyền tự nhiên, gây tổn thất cho sự phát triển sản xuất và phúc lợi xã hội...
Một nền kinh tế có được những đặc trưng cơ bản trên đây được gọi là nền kinh

tế thị trường. Ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của sức sản xuất trong từng
quốc gia và sự hội nhập kinh tế mang tính tồn cầu đã tạo điều kiện và khả năng vô
cùng to lớn để phát triển nền kinh tế thị trường đạt đến trình độ cao - kinh tế thị
trường hiện đại. Kinh tế thị trường hiện đại là nền kinh tế có đầy đủ các đặc trưng
của một nền kinh tế thị trường, đồng thời nó cịn có những đặc trưng sau đây:
Một là, có sự thống nhất mục tiêu kinh tế với các mục tiêu chính trị - văn hố - xã hội:
Tăng trưởng kinh tế là động lực cơ bản thúc đẩy phát triển, là nhân tố quan
trọng hàng đầu và điều kiện vật chất để giải quyết các vấn đề xã hội. Tuy nhiên,
tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Tăng
trưởng kinh tế là điều kiện để thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Nếu sự tăng
trưởng kinh tế không bảo đảm thực hiện hiệu quả tiến bộ và cơng bằng xã hội thì sự
tăng trưởng này khơng có ý nghĩa. Cơng bằng xã hội thể hiện ở cách xử lý các quan
hệ lợi ích ngay trong nội bộ kinh tế thị trường, ở việc góp phần to lớn vào việc giải
quyết các vấn đề xã hội, ở việc cung ứng các hàng hoá và dịch vụ có giá trị khơng
chỉ về kinh tế mà cịn có giá trị cao về văn hố. Mục tiêu chính trị là làm cho xã hội
dân chủ, biểu hiện ở chỗ dân chủ hoá nền kinh tế. Mọi người, mọi thành phần kinh
tế có quyền tham gia vào hoạt động kinh tế, vào sản xuất - kinh doanh, có quyền sở
hữu về tài sản của mình: quyền của người sản xuất và tiêu dùng được bảo vệ trên cơ
sở pháp luật của nhà nước.
Hai là, trong nền kinh tế thị trường hiện đại, cần phải có sự điều tiết kinh tế
của nhà nước:
Theo quan điểm của nhà kinh tế học cổ điển Adam Smith, thị trường cũng có
chức năng điều tiết. Nhờ giá cả, nó điều chỉnh những số lượng cung và những số lượng

15


cầu... Bàn tay vơ hình của cạnh tranh bảo đảm cho xã hội những gì sản xuất ra phù hợp
với những nhu cầu của các thành viên của nó, và theo những số lượng mong muốn...
Tóm lại, thị trường đảm bảo cho những giá cả ganh đua [15, tr.35]. Tuy nhiên, thực tế

đã chứng minh lý thuyết "Bàn tay vô hình" của Adam Smith khơng cịn tác dụng mạnh
mẽ để bảo đảm nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hiện đại phát triển theo nghĩa tự
điều chỉnh. Để khắc phục những điểm chưa hợp lý của thuyết này, J.M.Keynes đã đưa
ra lý thuyết về "Bàn tay hữu hình". Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, học thuyết của
J.M.Keynes đã trở nên phổ biến trong kinh tế vĩ mơ và được nhiều chính phủ vận dụng
vào chính sách của mình. Các nhà tư bản đã sử dụng các chính sách và cơng cụ trong
quản lý vĩ mơ như chính sách tài khố, tiền tệ, chính sách thu nhập... để can thiệp vào
thị trường nhằm chống suy thoái, đảm bảo sự ổn định trong hoạt động kinh tế. Điểm
mới của cơ chế vận hành trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hiện đại, đó là
nền kinh tế khơng hồn tồn do "bàn tay vơ hình" của thị trường quyết định mà cịn có
cả "bàn tay hữu hình" của nhà nước tham gia điều tiết.
Ngồi ra, trong nền kinh tế thị trường hiện đại, bên cạnh khu vực kinh tế tư
nhân cịn có sự tồn tại của khu vực kinh tế nhà nước, chủ yếu bao gồm các doanh
nghiệp sản xuất hàng hố dịch vụ cơng cộng và các doanh nghiệp thuộc những
ngành then chốt của nền kinh tế quốc dân. Sự tồn tại của khu vực kinh tế nhà nước
với mục đích khắc phục những khuyết tật vốn có của cơ chế thị trường, tối đa hoá
phúc lợi xã hội và trong chừng mực nhất định, nó có tác dụng thúc đẩy, tạo mơi
trường thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển.
Ba là, trong nền kinh tế thị trường hiện đại, có sự chi phối mạnh mẽ của phân
công và hợp tác quốc tế, tạo ra một nền kinh tế thị trường mang tính quốc tế, vượt
ra khỏi biên giới quốc gia động và mở, tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế giữa các quốc gia đang diễn ra với quy mô
ngày càng lớn, tốc độ ngày càng tăng làm cho nền kinh tế thế giới ngày càng trở nên
một chỉnh thể thống nhất, trong đó mỗi quốc gia là một bộ phận gắn bó hữu cơ với
các bộ phận khác [17, tr.7-8].
Nền kinh tế thị trường có những ưu điểm cơ bản sau đây:

16



Một là, tự động đáp ứng nhu cầu có thể thanh toán được của xã hội một cách
linh hoạt và hợp lý;
Hai là, có khả năng huy động tối đa mọi nguồn lực của xã hội.
Ba là, tạo ra động lực mạnh mẽ để thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp đạt
hiệu quả cao, và thông qua phá sản tạo ra cơ chế đào thải các doanh nghiệp yếu kém;
Bốn là, phản ứng nhanh nhạy trước các thay đổi của nhu cầu xã hội và các
điều kiện kinh tế trong nước và thế giới;
Năm là, buộc các doanh nghiệp phải thường xuyên học hỏi lẫn nhau, hạn chế
các sai lầm trong kinh doanh diễn ra trong thời gian dài và trên các quy mô lớn;
Sáu là, tạo động lực thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của khoa học - công
nghệ - kỹ thuật, nền kinh tế năng động và đạt hiệu quả cao.
Mặt khác, thực tiễn cũng cho thấy, không phải lúc nào thị trường cũng đúng
trong việc phân bố nguồn lực của nền kinh tế; sự thất bại của thị trường sẽ mang
đến những hệ quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế, tạo nên những cuộc khủng
hoảng kinh tế. Kinh tế thị trường thừa nhận nguyên tắc tự do cạnh tranh: cạnh tranh
trong kinh doanh, cạnh tranh trong tìm kiếm việc làm, tự do cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp... Từ đó, một mặt tạo động lực phát triển kinh tế; song mặt khác, có
thể dẫn tới cạnh tranh khơng lành mạnh, mang tính chất bất ổn định, có thể xuất
hiện hiện tượng độc quyền của các doanh nghiệp, làm hạn chế nghiêm trọng các ưu
điểm của kinh tế thị trường. Sự cạnh tranh không lành mạnh dẫn đến mất cân đối vĩ
mô, lạm phát. Động lực lợi nhuận tạo ra môi trường thuận lợi dẫn đến nguy cơ vi
phạm pháp luật, thương mại hoá các giá trị đạo đức và đời sống tinh thần. Thị
trường càng mở rộng quy mơ thì tình trạng "cạnh tranh khơng hồn hảo"1 sẽ xuất
1

Cạnh tranh khơng hồn hảo, trong kinh tế học, là một dạng cạnh tranh trong các thị trường khi các điều kiện
cần thiết cho việc cạnh tranh hồn hảo khơng được thỏa mãn.Các loại cạnh tranh khơng hồn hảo gồm:
- Độc quyền: chỉ có một người bán một mặt hàng.
- Độc quyền nhóm bán: Thị trường mà ở đó chỉ có một số lượng nhỏ người bán.
- Cạnh tranh độc quyền: có nhiều người bán nhưng mỗi người đều tìm cách làm cho sản phẩm của mình trở nên

khác biệt.
- Độc quyền mua: Thị trường chỉ có một người mua một mặt hàng.
- Độc quyền nhóm mua: Thị trường trong đó chỉ có một số lượng nhỏ người mua.
Trong thị trường cũng có thể xảy ra cạnh tranh khơng hồn hảo do những người bán hoặc người mua thiếu các
thông tin về giá cả các loại hàng hóa được trao đổi.

17


hiện độc quyền gây tổn thất cho sự phát triển sản xuất và phục lợi xã hội. Sự vận
động của kinh tế thị trường với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, do đó, có thể dẫn tới
tình trạng có doanh nghiệp làm ăn thua lỗ và phá sản, người lao động mất việc làm.
Ngoài ra, bản thân nền kinh tế thị trường còn gây ra những hệ luỵ nghiêm trọng cho
xã hội như: lợi ích chung dài hạn của xã hội không được chăm lo; mang theo các tệ
nạn như buôn gian bán lận, tham nhũng...; tài nguyên thiên nhiên và môi trường bị
tàn phá một cách nghiêm trọng và lan rộng; sản sinh và dẫn đến các cuộc chiến
tranh kinh tế...
Như vậy, với những khuyết tật của nó, kinh tế thị trường ln cần phải có sự
can thiệp của nhà nước. Sự can thiệp của nhà nước sẽ bảo đảm hiệu quả cho sự vận
động của thị trường được ổn định, nhằm tối đa hoá hiệu quả kinh tế, bảo đảm định
hướng chính trị của sự phát triển kinh tế, tạo ra những công cụ quan trọng để điều
tiết kinh tế thị trường ở tầm vĩ mô. Bằng cách đó, nhà nước mới có thể kiềm chế
tính tự phát của kinh tế thị trường, đồng thời kích thích đối với sản xuất thơng qua
trao đổi hàng hố dưới hình thức thương mại.
Tuy nhiên, các nhà nước đang thấy rằng, những cải cách của nền kinh tế thị
trường cùng với sự tiến triển nhanh như vũ bão của khoa học công nghệ đang đặt ra
những thách thức mới cho sự điều tiết của nhà nước. Ở nhiều quốc gia hiện nay, nhà
nước và thị trường vẫn có sự mâu thuẫn nhau về căn bản. Các quy định pháp luật
của nhà nước cứng nhắc dẫn đến hậu quả là ngăn cản sức sáng tạo của tư nhân. Các
doanh nghiệp nhà nước lại được hưởng những đặc quyền đặc lợi, khống chế các

lĩnh vực kinh tế mà đáng ra có thể thu được kết quả lớn hơn nếu có sự cạnh tranh
lành mạnh của khu vực kinh tế tư nhân...
Trước tình hình đó, các doanh nghiệp mong muốn nhà nước phải chịu trách
nhiệm đảm bảo tài sản đã bỏ ra, các cơng dân địi hỏi sự ban phát các dịch vụ cơng
cộng một cách có trách nhiệm, có hiệu quả hơn và một sự trung thực hơn trong việc
sử dụng những tài ngun cơng cộng. Đồng thời, cơng cuộc tồn cầu hố làm gia
tăng những địi hỏi về một nhà nước linh hoạt, một nhà nước có thể đáp ứng nhanh
những thay đổi. Những áp lực này đã mở ra tình trạng tiến thoái lưỡng nan của

18


nhiều nhà nước: làm thế nào có thể kiểm sốt được việc định ra các chính sách có
thể là độc đốn, mà khơng tạo nên những sự cứng nhắc, khơng kìm chế sự đổi mới
[4, tr.99]. Để chia sẻ trách nhiệm và tham gia cùng nhà nước và kinh tế thị trường
trong việc thúc đẩy phát triển bền vững và tiến bộ xã hội, đòi hỏi cần phải xây dựng
một thể chế xã hội mới - xã hội dân sự.
1.1.2. Một số quan điểm hiện đại về mối quan hệ giữa nhà nước và kinh tế thị trường
Quan niệm của trường phái Tân cổ điển
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh chuyển
sang chủ nghĩa tư bản độc quyền, nhiều hiện tượng kinh tế và mâu thuẫn kinh tế
mới xuất hiện. Sự xuất hiện của chủ nghĩa Marx đã trở thành đối tượng phê phán
mạnh mẽ của các nhà kinh tế học tư sản. Kinh tế tư sản cổ điển tỏ ra bất lực trong
việc bảo vệ tư bản và khắc phục những khó khăn về kinh tế, địi hỏi phải có hình
thức mới thay thế. Trong bối cảnh đó, học thuyết kinh tế Tân cổ điển ra đời. Tư
tưởng về "bàn tay vơ hình" của A.Smith (1723 - 1790) - nhà kinh tế chính trị cổ
điển Anh đã thống trị trong các học thuyết kinh tế phương Tây đến đầu thế kỷ XX
trong các trào lưu của học thuyết Tân cổ điển.
Trường phái Tân cổ điển (những người vực dậy kinh tế học cổ điển trong thập
niên 1970) tin rằng, nền kinh tế nhất thiết sẽ tự điều chỉnh, tiền và tài chính chỉ là

những phương tiện giúp thực hiện những giao dịch kinh tế thực. Họ ủng hộ tự do
cạnh tranh, chống lại sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế, tin tưởng cơ chế thị
trường sẽ tự điều tiết thăng bằng cung cầu và có hiệu quả. Họ đưa ra một quan niệm
tổng quát về nền kinh tế thị trường, từ đó đánh giá vai trị của nhà nước, phân biệt
rõ khu vực hoạt động của thị trường và phạm vi can thiệp của nhà nước vào nền
kinh tế.
Theo phái Tân cổ điển, trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh tự do thường
xuyên sẽ đảm bảo sự cân bằng chung của nền kinh tế. Sự ổn định là thuộc tính vốn
có của nền kinh tế thị trường chứ không cần thiết đến sự can thiệp của nhà nước.
Theo quan niệm của các nhà kinh tế Tân cổ điển, sở hữu tư nhân sẽ đảm bảo cho
nền kinh tế thị trường thích ứng với mọi sự thay đổi của giá cả. Chính chế độ sở

19


hữu tư nhân là nhân tố cơ bản làm cho nền kinh tế thị trường luôn khôi phục được
sự cân bằng chung. Do đó, nếu nhà nước thu hẹp khơng gian kinh tế của khu vực tư
nhân chắc chắn sẽ dẫn tới bất ổn. Vì vậy, nhà nước có những chức năng chính là:
(1) Duy trì ổn định chính trị; (2) Tạo mơi trường pháp luật ổn định và chính sách
thuế khố hợp lý, khuyến khích người tiêu dùng; (3) Sử dụng hợp lý ngân sách quốc
gia, hướng chỉ tiêu ngân sách cho mục tiêu phát triển kinh tế như đào tạo nhân lực,
nghiên cứu cơ bản để đổi mới cơng nghệ, hỗ trợ cho những ngành sản xuất có triển
vọng cạnh tranh cao trên thị trường thế giới.... Ngoài những chức năng cơ bản đó,
nhà nước khơng nên can thiệp quá sâu vào nền kinh tế thị trường.
Quan niệm của John Maynard Keynes
Vào những năm 30 của thế kỷ XX, khủng hoảng kinh tế diễn ra thường xuyên.
Tình trạng thất nghiệp nghiêm trọng đã làm cho các lý thuyết tự điều chỉnh kinh tế
của trường phái Cổ điển, Tân cổ điển tỏ ra kém hiệu quả. Thực tiễn chứng minh
rằng, các lý thuyết kinh tế cho rằng hoạt động của các quy luật kinh tế khách quan
sẽ tự điều tiết nền kinh tế và đưa đến sự cân bằng mà không cần đến sự can thiệp

của nhà nước tỏ ra thiếu tính xác đáng. Sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản
xuất và sự xã hội hoá lực lượng sản xuất địi hỏi cần phải có sự can thiệp điều chỉnh
của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế. Trước thực tế đó, học thuyết của John
M.Keynes (1883 - 1946) ra đời.
Khác với quan niệm của trường phái Tân cổ điển, Keynes cho rằng, muốn
thoát khỏi khủng hoảng, thất nghiệp và suy thoái, nhà nước phải trực tiếp điều tiết
kinh tế. Ơng đánh giá cao vai trị của hệ thống thuế khoá của nhà nước đối với nền
kinh tế, theo ơng, trước hết nhà nước cần có biện pháp để tăng cầu hiệu quả. Chính
phủ có thể can thiệp vào nền kinh tế thông qua công cụ chính sách tài khố, bao
gồm thuế và chi tiêu ngân sách. Cách thức can thiệp này sẽ dẫn đến hiệu ứng số
nhân cho nền kinh tế. Ngoài ra, nhà nước có thể kích thích cầu đầu tư bằng cách
tăng số cung về tiền tệ, hoặc chấp nhận lạm phát có điều tiết. Theo Keynes, thất
nghiệp và lạm phát là hai vấn nạn của nền kinh tế tư bản, trong đó, thất nghiệp nguy

20


hiểm hơn nhiều lần so với lạm phát. Khi nền kinh tế ở trạng thái cân bằng với mức
sản lượng và việc làm cao hơn thì khi đó, lạm phát sẽ tự động dừng lại.
Từ những kiến giải của Keynes có thể nhận định rằng, nền kinh tế thị trường
khơng có khả năng tự điều tiết tuyệt đối và vơ hạn. Do vậy, để thúc đẩy nền kinh tế
thị trường phát triển, nhà nước cần phải trực tiếp can thiệp và điều tiết. Dựa trên cơ
sở lý thuyết của Keynes, các nhà kinh tế học tiếp tục xây dựng thành trường phái
Keynes. Trường phái Keynes đã kế thừa và phát triển các lý thuyết của Keynes
trong điều kiện mới, tiếp tục ủng hộ sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế
thơng qua các chính sách khuyến khích đầu tư, tiêu dùng. Trường phái này đã đưa
ra các lý thuyết tăng trưởng kinh tế, cụ thể hố các chính sách kinh tế và hoàn thiện
cơ chế điều chỉnh nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Quan điểm của chủ nghĩa tự do mới
Chủ nghĩa tự do mới là một trong những trào lưu tư tưởng kinh tế lớn xuất

hiện từ những năm 1930 và phát triển cho tới nay. Dựa trên nền tảng lập trường tự
do tư sản cổ điển và kết hợp quan điểm của trường phái Keynes, trường phái trọng
thương, chủ nghĩa tự do mới hình thành hệ tư tưởng mới điều tiết nền kinh tế tư bản
chủ nghĩa. Theo các đại biểu của chủ nghĩa tự do mới, mô thức nền kinh tế phải đạt
được đồng thời hai yêu cầu sau: Một là,cần phải khai thác triệt để những ưu việt vốn
có của nền kinh tế thị trường; Hai là, nhà nước phải có cách thức điều tiết mới để
khắc phục những sai lệch của thị trường. Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa tự
do mới, nhà nước có vai trị xác định trong nền kinh tế. Tuy nhiên, nhà nước chỉ can
thiệp ít để cho thị trường tự do phát triển với phương châm "Nhà nước tối thiểu, thị
trường tối đa". Đây được coi là bước tiến bộ của chủ nghĩa tự do mới trong việc
nhìn nhận vai trị của nhà nước đối với kinh tế thị trường.
Trào lưu tự do mới xuất hiện ở nhiều nước tư bản với các tên gọi khác nhau,
trong đó điển hình là các khuynh hướng ở Mỹ và ở Đức. Lý thuyết tự do kinh tế ở
Mỹ biểu hiện thành nhiều trào lưu cụ thể với những tên gọi khác nhau như: phái
Trọng tiền, phái Trọng cung, và phái Kinh tế vĩ mơ mong đợi hợp lý. Nhìn chung,
các phái của chủ nghĩa tự do mới ở Mỹ về cơ bản đều cho rằng, chính sách can

21


×