Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Đảng bộ huyện Thanh Sơn (Phú Thọ) lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc từ năm 2007 đến năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.79 MB, 115 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
……………………………...

HOÀNG THỊ HƢƠNG THANH

ĐẢNG BỘ HUYỆN THANH SƠN (PHÚ THỌ)
LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
TỪ NĂM 2007 ĐẾN NĂM 2014

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Hà Nội - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
………………………………

HOÀNG THỊ HƢƠNG THANH

ĐẢNG BỘ HUYỆN THANH SƠN (PHÚ THỌ)
LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
TỪ NĂM 2007 ĐẾN NĂM 2014

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 03 15
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Lê Sỹ Giáo

Hà Nội – 2015




LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng
dẫn khoa học của PGS. TS. Lê Sỹ Giáo. Các số liệu trong luận văn là trung thực,
chính xác, bảo đảm tính khách quan khoa học và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Tác giả luận văn

Hoàng Thị Hương Thanh

`


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy
giáo, cô giáo Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại
học Quốc gia Hà Nội.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo và các cán bộ thuộc các Phòng, Ban
của Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân huyện Thanh Sơn, Tỉnh ủy,
Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Thọ và các phòng ban liên quan đã
cung cấp thông tin, tư liệu, tạo điều kiện và đóng góp ý kiến quí báu cho tôi trong
quá trình thực hiện luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn bạn bè, người thân trong gia đình đã hết lòng
động viên, khích lệ và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Lê Sỹ Giáo, người
đã trực tiếp tận tình chỉ bảo, hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập,
nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng song luận văn khó tránh khỏi những thiếu sót,
hạn chế. Rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý của thầy cô, bạn bè để tôi có cơ hội
trở lại vấn đề này một cách tốt nhất.



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ..............................................................3
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ...........................................................................5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...........................................................................6
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu. ...........................................................6
6. Đóng góp của luận văn ............................................................................................7
7. Cấu trúc của luận văn ..............................................................................................7
Chƣơng 1 ĐẢNG BỘ HUYỆN THANH SƠN LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG – CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ....................8
1.1 Cơ sở lý luận ........................................................................................................8
1.1.1. Các nguyên tắc của chính sách dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh ..........................8
1.1.2. Quan điểm, chủ trương của Đảng về dân tộc và chính sách dân tộc....................11
1.2 . Cơ sở thực tiễn .................................................................................................17
1.2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện Thanh Sơn ....................................17
1.2.2. Sinh thái nhân văn và bức tranh phân bố cư dân - dân tộc ............................22
1.2.3. Văn hóa các dân tộc thiểu số rất phong phú và đa dạng ................................26
1.2.4. Quá trình thực hiện chính sách dân tộc trước năm 2007 của Đảng bộ huyện
Thanh Sơn. ................................................................................................................27
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 .........................................................................................30
Chƣơng 2 CHỦ TRƢƠNG VÀ QUÁ TRÌNH CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG BỘ HUYỆN THANH SƠN TỪ KHI CHIA
TÁCH HUYỆN ĐẾN NĂM 2014 ...........................................................................32
2.1. Chủ trƣơng của Đảng bộ huyện Thanh Sơn về thực hiện chính sách dân
tộc từ năm 2007 đến năm 2014...............................................................................32
2.2. Quá trình Đảng bộ huyện Thanh Sơn lãnh đạo thực hiện chính sách dân
tộc từ năm 2007 đến năm 2014...............................................................................36

2.2.1. Lãnh đạo thực hiện chính sách đoàn kết .........................................................36


2.2.2. Lãnh đạo thực hiện chính sách bình đẳng ......................................................41
2.2.3. Lãnh đạo thực hiện chính sách tương trợ .......................................................60
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 .........................................................................................64
Chƣơng 3 MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM ....................65
3.1. Nhận xét ............................................................................................................65
3.1.1. Ưu điểm ...........................................................................................................65
3.1.2. Hạn chế ............................................................................................................74
3.2. Bài học kinh nghiệm.........................................................................................77
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3 .........................................................................................85
KẾT LUẬN ..............................................................................................................86
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................88
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trước kia và hiện nay, vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc vẫn là một trong
những vấn đề phức tạp trên thế giới. Từ thập niên cuối của thế kỷ XX và những năm
đầu của thế kỷ XXI, các biến cố trên thế giới đã nói lên dân tộc vẫn là vấn đề thời sự
nóng bỏng của nhân loại. Do đó việc tìm kiếm con đường giải quyết vấn đề dân tộc
luôn được các nhà chính trị và khoa học trên thế giới đặc biệt chú ý, quan tâm.
Ngay từ thời dựng nước, Việt Nam đã là quốc gia đa dân tộc. Trong tiến
trình phát triển hàng ngàn năm, các dân tộc dù tộc người khác nhau nhưng luôn
luôn sát cánh bên nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc với truyền thống: “Bầu ơi
thương lấy bí cùng; Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Trong 54 dân tộc
cùng tụ cư trên lãnh thổ thì người Kinh chiếm đa số, còn lại là 53 dân tộc thiểu số.
Phần lớn các dân tộc thiểu số thường sống ở miền núi, vùng sâu, vùng xa - nơi có vị

trí chiến lược về an ninh quốc phòng, nhưng đời sống của họ còn nhiều khó khăn cả
về vật chất lẫn tinh thần. Ở nơi đây trình độ dân trí thấp, nhiều phong tục tập quán
lạc hậu vẫn còn tồn tại. Chính điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển cuộc
sống của họ khi mà các phần tử phản động thường triệt để lợi dụng để phá hoại
nhằm gây chia rẽ khối đại đoàn kết các dân tộc, gây bất ổn về an ninh, chính trị tại
các địa bàn trọng yếu này.Trước thực trạng đó, trong những năm qua, Đảng và Nhà
nước đã đặc biệt quan tâm đến vấn đề dân tộc, hoạch định nhiều chủ trương chính
sách nhằm thực hiện nhất quán sự bình đẳng giữa các dân tộc, đoàn kết, tôn trọng,
giúp nhau cùng phát triển, không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt là các dân tộc thiểu số ở vùng sâu,
vùng xa còn gặp nhiều khó khăn.
Hiện nay, trong bối cảnh hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ và ngày càng sâu
rộng, đã tạo ra nhiều cơ hội và thách thức cho các nước trên thế giới, Việt Nam
cũng không phải trường hợp ngoại lệ. Đứng trước những cơ hội và thách thức to lớn
ấy, để xây dựng đất nước đi lên bắt kịp với xu thế phát triển của thế giới, trong
đường lối phát triển của Đảng, vấn đề dân tộc luôn chiếm một vị trí đặc biệt quan

1


trọng. Thực tiễn ở Việt Nam, công tác dân tộc, thực hiện chính sách dân tộc cũng
đang đặt ra nhiều vấn đề cần được quan tâm và giải quyết như: quan hệ dân tộc - tộc
người, di dân tự do, đói nghèo, tranh chấp đất đai, bảo tồn các giá trị văn hóa truyền
thống…Vấn đề đặt ra là Đảng và Nhà nước phải xây dựng được hệ thống chính
sách dân tộc hợp lý, đảm bảo mang lại quyền bình đẳng thực sự cho các dân tộc.
Thanh Sơn là huyện miền núi thuộc phía Tây Nam của tỉnh Phú Thọ. Trên
địa bàn huyện có 16 dân tộc cùng chung sống, trong đó dân tộc thiểu số chiếm 61%
dân số toàn huyện bao gồm dân tộc Mường, Dao,Tày, Nùng…Các dân tộc ở đây
vốn có truyền thống đoàn kết, gắn bó lâu đời. Qua các thời kỳ cách mạng, đồng bào
dân tộc ở đây đã một lòng, một dạ tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước,

góp phần cùng quân dân cả nước đánh thắng giặc ngoại xâm, giành độc lập tự do,
xây dựng quê hương ngày càng văn minh, giàu đẹp. Do vậy việc thực hiện tốt chính
sách dân tộc ở huyện Thanh Sơn sẽ góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân,
ổn định chính trị - xã hội và phát triển bền vững.
Xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, nhất là những nguyên nhân do
lịch sử để lại và do điều kiện địa lý, tự nhiên ở địa bàn cư trú vô cùng khắc nghiệt
nên trình độ phát triển kinh tế - xã hội và đời sống của các đồng bào dân tộc thiểu
số trên địa bàn huyện còn gặp nhiều khó khăn.Vì vậy công tác dân tộc và việc thực
hiện chính sách dân tộc của Đảng luôn là vấn đề được Đảng bộ huyện Thanh Sơn
đặc biệt quan tâm nhằm từng bước cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho đồng bào dân tộc, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, ổn định
chính trị- xã hội. Vì vậy, nghiên cứu thực hiện chính sách dân tộc của Đảng bộ
huyện Thanh Sơn từ năm 2007 đến năm 2014 nhằm làm rõ quan điểm, chủ trương
của Đảng về dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc không chỉ có ý nghĩa khoa
học về mặt lý luận mà còn có giá trị về mặt thực tiễn. Đồng thời nêu rõ được
những thành công, hạn chế, rút ra những kinh nghiệm lãnh đạo thực hiện chính
sách dân tộc là một việc cần thiết. Chính vì vậy, tôi quyết định chọn vấn đề “Đảng
bộ huyện Thanh Sơn (Phú Thọ) lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc từ
năm 2007 đến năm 2014” làm đề tài luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam.

2


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc ở Việt Nam từ trước tới nay luôn được
giới khoa học quan tâm nghiên cứu. Trên phạm vi cả nước đã có nhiều công trình
đề cập đến vấn đề này ở nhiều góc độ khác nhau. Nhìn một cách tổng thể, các công
trình nghiên cứu liên quan có thể chia thành các nhóm chủ yếu sau:
Nhóm thứ nhất: Sự tổng kết của Đảng Cộng sản Việt Nam, rút kinh nghiệm,

đề ra đường lối, chủ trương chính sách dân tộc ở nước ta. Sự tổng kết đó được phản
ánh trong các Văn kiện Đại hội VI, VII, VIII, IX..., một số Nghị quyết Hội nghị Ban
chấp hành Trung ương, Nghị quyết Bộ chính trị...Đây là những quan điểm đánh giá
chính thức của Đảng về quá trình lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc.
Nhóm thứ hai: Những nghiên cứu đề cập đến chính sách dân tộc được xuất
bản như:
- Sách “Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi”
do Bế Viết Đẳng (cb), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
- Sách “Bảo đảm bình đẳng và tăng cường hợp tác giữa các dân tộc trong
phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta” của tác giả Hoàng Chí Bảo, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2009.
- Sách “Chính sách dân tộc, những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb Sự
thật, Hà Nội, 1990.
- Sách “Vấn đề dân tộc và định hướng xây dựng chính sách dân tộc trong
thời kỳ công nghiệp, hóa hiện đại hóa” của Viện nghiên cứu chính sách dân tộc và
miền núi, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
- Sách “Bước đầu tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc ở Việt
Nam” của Học viện Chính trị quốc gia Hồ CHí Minh, Nxb Chính trị quốc qia Hà
Nội, 1996.
- Sách “Kinh tế miền núi và các dân tộc - Thực trạng, vấn đề, giải pháp” của
tác giả Phạm Văn Vang, Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội, 1996.
- Sách “Văn hóa và sự phát triển của các dân tộc ở Việt Nam” của Nông
Quốc Chấn (cùng nhiều tác giả), Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 1997.

3


- Sách “Chính sách và pháp luật của Đảng, Nhà nước về dân tộc”, Nxb Văn
hóa xã hội, Hà Nội, 2000.
- Sách “Về vấn đề dân tộc và công tác dân tộc ở nước ta” của Ủy ban Dân

tộc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
- Sách “55 công tác dân tộc và miền núi ( 1946 - 2001)” của Ủy ban Dân tộc,
Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2001.
- Sách “Miền núi Việt Nam: thành tựu và phát triển những năm đổi mới” của
Ủy ban Dân tộc, Nxb Nông nghiệp, 2002.
- Sách “Một số vấn đề giảm nghèo ở các dân tộc thiểu số Việt Nam” của tác
giả Bùi Minh Đạo, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2003.
- Sách “Về công tác dân tộc” của Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2003.
- Sách “Góp phần nghiên cứu dân tộc học Việt Nam” của tác giả Phan Hữu
Dật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
- Sách “Một số vấn đề đổi mới nội dung quản lý nhà nước và phương thức
công tác dân tộc” của Ủy ban Dân tộc - Viện dân tộc, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà
Nội, 2004.
- Sách “Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam” của tác giả Lê
Ngọc Thắng, Nxb Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, 2005.
- Sách “Phát triển bền vững vùng dân tộc thiểu số và miền núi Việt Nam” do
Nguyễn Văn Chương chủ biên, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, Hà Nội, 2006.
- Sách “Phát triển nông thôn miền núi và dân tộc trong thời kỳ kinh tế
chuyển đổi” của Viện Dân tộc học Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2007.
- Sách “Những vấn đề cơ bản về chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay” do
Phan Xuân Sơn, Lưu Văn Quảng đồng chủ biên, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội,
2006.V.v.
Nhóm thứ ba: Một số luận án tiến sỹ, Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành lịch
sử liên quan như: “Mấy suy nghĩ về đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc của
Đảng ta” (1995) của tác giả Bùi Xuân Vinh; “Đổi mới việc thực hiện chính sách
dân tộc trên địa bàn tỉnh Bình Dương và Bình Phước” (2001) Luận án Tiến sỹ Triết

4



học của tác giả Phạm Công Tâm; “Thực hiện chính sách dân tộc ở Việt Nam trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa” (2006), Luận án Tiến sỹ Triết học
của tác giả Nguyễn Thị Phương Thúy; “Đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (từ thực tiễn các tỉnh miền
núi phía Bắc)” (2001), Luận văn Thạc Sỹ Triết học của tác giả Nguyễn Thị Phương
Thủy; “Các Đảng bộ tỉnh khu vực Bắc Tây Nguyên lãnh đạo thực hiện chính sách
dân tộc từ năm 1996 đến 2005” (2007), Luận văn Thạc sỹ Lịch sử của Phạm Văn
Hồ; “Đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Điện Biên trong giai đoạn
hiện nay” (2006), Luận văn Thạc sỹ Lịch sử của tác giả Hoàng Thu Thủy; “Đảng
bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc từ 1997 đến 2005”
(2007), Luận văn Thạc sỹ Triết học của Vũ Quang Trọng; “Đảng bộ tỉnh Quảng
Ninh lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc của Đảng đối với dân tộc thiểu số thời
kỳ 1996-2007” (2012)...
Những công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến nhiều phương diện khác
nhau về lý luận cũng như thực tiễn đối với vấn đề dân tộc và việc thực chính sách
dân tộc của Đảng. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một
cách đầy đủ, toàn diện, có tính hệ thống về quá trình Đảng thực hiện chính sách dân
tộc trên địa bàn huyện Thanh Sơn từ khi chia tách huyện năm 2007 đến năm 2014.
Các công trình nghiên cứu nói trên là nguồn tài liệu quan trọng, là cơ sở để chúng
tôi tiếp thu, kế thừa, bổ sung và phát triển trong quá trình thực hiện luận văn.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục tiêu:
Nghiên cứu, làm rõ quá trình Đảng bộ huyện Thanh sơn lãnh đạo thực hiện
chính sách dân tộc của Đảng đối với các dân tộc thiểu số ở Thanh Sơn, qua đó đúc
rút ra những kinh nghiệm trong quá trình Đảng bộ huyện Thanh Sơn lãnh đạo thực
hiện chính sách dân tộc.
- Nhiệm vụ: Đi sâu nghiên cứu nhằm làm sáng rõ
+ Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội
+ Tình hình phân bố dân tộc, dân cư trên địa bàn huyện Thanh Sơn.


5


+ Trình bày khái quát quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về vấn
đề dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc.
+ Phân tích làm rõ quá trình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng bộ và
nhân dân huyện Thanh Sơn dưới sự lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng bộ huyện Thanh
Sơn từ năm 2007 đến năm 2014.
+ Đánh giá kết quả đạt được và những hạn chế, từ đó đúc rút ra những kinh
nghiệm trong quá trình lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc của Đảng bộ huyện
Thanh sơn trong thời gian tiếp theo.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu đến các vấn đề có liên quan đến việc thực hiện chính
sách dân tộc của Đảng bộ huyện Thanh Sơn từ năm 2007 đến 2014.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu quá trình lãnh đạo của Đảng
bộ huyện Thanh Sơn đối với việc thực hiện chính sách dân tộc trong thời gian từ
năm 2007 đến 2014.
+ Không gian: Địa bàn huyện Thanh Sơn tỉnh Phú Thọ.
5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu.
- Nguồn tài liệu: Các tài liệu chủ yếu thực hiện đề tài bao gồm những văn
kiện của các kỳ đại hội Đảng liên quan đến vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc;
những văn bản pháp luật và quy định của Nhà nước về chính sách dân tộc; các nghị
quyết của Huyện ủy Thanh Sơn, quyết định, chỉ thị của Ủy ban nhân dân huyện
Thanh Sơn cũng như các tài liệu của sở, ban, ngành; các công trình nghiên cứu đã
công bố liên quan đến đề tài luận văn.
- Phƣơng pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử và
phương pháp lôgic là chủ yếu đồng thời kết hợp các phương pháp khác như:

phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp thống kê, so sánh gắn với lí luận
thực tiễn để thực hiện.

6


6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần hệ thống quan điểm, chủ trương và quá trình Đảng bộ
huyện Thanh Sơn lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc trong thời gian từ năm
2007 đến 2014.
- Cung cấp thêm những luận cứ có liên quan đến việc thực hiện chính sách
dân tộc của Đảng ở huyện Thanh Sơn, qua đó góp phần giúp các cơ quan của huyện
nghiên cứu, hoạch định các chủ chương, chính sách phát triển kinh tế- xã hội trên
địa bàn huyện, nhất là vùng dân tộc thiểu số cho phù hợp.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo, phục vụ hoạt động nghiên cứu và
giảng dạy về chính sách dân tộc của Đảng trong thời kỳ đổi mới.
- Rút ra những kinh nghiệm, đề xuất những kiến nghị về việc thực hiện chính
sách dân tộc trong những năm tiếp theo.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận
văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Đảng bộ huyện Thanh Sơn lãnh đạo việc thực hiện chính sách
dân tộc – Cơ sở lý luận và thực tiễn
- Chương 2: Chủ trương và quá trình chỉ đạo thực hiện chính sách dân tộc
của Đảng bộ huyện Thanh Sơn từ khi chia tách huyện đến năm 2014
- Chương 3: Một số nhận xét và bài học kinh nghiệm

7



Chƣơng 1
ĐẢNG BỘ HUYỆN THANH SƠN LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
DÂN TỘC CỦA ĐẢNG – CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1 Cơ sở lý luận
1.1.1. Các nguyên tắc của chính sách dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ nước ta có trên 50 dân tộc anh em là thành viên
trong cộng đồng dân tộc Việt Nam nhưng mỗi dân tộc thiểu số có tâm lý, phong tục,
tập quán riêng. Người nhấn mạnh rằng: Việc xây dựng và lãnh đạo, chỉ đạo thực
hiện chính sách dân tộc thiểu số và miền núi không chỉ nhằm phát huy sức mạnh đại
đoàn kết dân tộc, huy động sức người, sức của của các dân tộc phục vụ sự nghiệp
kháng chiến và kiến quốc, phát triển kinh tế, văn hóa của các dân tộc, nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của các dân tộc, mà còn nhằm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là
người dân tộc thiểu số trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, chính trị, khoa học,
kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng…
Tư tưởng Hồ Chí Minh trong giải quyết vấn đề phát triển các dân tộc thiểu số và
miền núi của nước ta được thể hiện trong những nội dung cơ bản sau:
Tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Khu tự trị Việt Bắc năm 1959, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nói: Chính sách dân tộc của chúng ta là thực hiện sự đoàn kết, bình đẳng,
tương trợ giữa các dân tộc. “Đoàn kết, Bình đẳng, Tương trợ” vừa là nguyên tắc,
đồng thời cũng vừa là mục tiêu vươn tới trong chính sách dân tộc của Đảng cộng
sản và nhà nước Việt Nam.
Về Đoàn kết tất cả các dân tộc, tư tưởng này của người thể hiện nhận thức
phù hợp với thực tiễn khách quan của lịch sử dân tộc Việt nam được thử thách qua
những thăng trầm của lịch sử hàng ngàn năm. Đó là “tài sản vô giá” để phát huy
trong thời đại vô sản, Người cho rằng: Đồng bào các dân tộc không phân biệt lớn
nhỏ, phải yêu thương giúp đỡ lẫn nhau, phải đoàn kết chặt chẽ như anh em một nhà,
để cùng nhau xây dựng Tổ quốc chung, xây dựng chủ nghĩa xã hội làm cho tất cả
các dân tộc được hạnh phúc, ấm no. Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Hồ
Chí Minh đặc biệt chú ý giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân về ý thức


8


xây dựng và giữ gìn sự đoàn kết dân tộc. Người luôn luôn đánh giá cao vai trò của
nhân dân: “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có
gì mạnh bằng sức mạnh của nhân dân” [37, tr. 267]. Nhân dân chính là người sáng
tạo ra lịch sử, do đó muốn thực hiện đại đoàn kết lâu dài thì phải luôn luôn lấy dân
làm gốc. Người khẳng định: Nhờ sức mạnh đoàn kết đấu tranh của các dân tộc,
nước Việt Nam ngày nay được độc lập, các dân tộc thiểu số được bình đẳng, tất cả
đều như anh em trong một nhà, không có sự phân biệt nòi giống, tiếng nói gì nữa.
Trước kia các dân tộc để giành độc lập phải đoàn kết, bây giờ để giữ lấy độc lập
càng cần đoàn kết hơn nữa [35, tr. 10].
Người nhấn mạnh : “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay
Êđê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam,
đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói
giúp nhau” [35, tr. 217].
Người cũng chỉ ra rằng: các dân tộc anh em sinh sống trên đất nước phải
đoàn kết với nhau: “Đã gọi là đoàn kết thì phải giúp đỡ nhau như anh em trong nhà.
Dân tộc nhiều người phải giúp đỡ dân tộc ít người, dân tộc ít người phải cố gắng
làm ruộng. Hai bên giúp đỡ nhau” [36, tr. 227].
Chủ tịch Hồ chí Minh đánh giá cao vị trí, vai trò, tầm quan trọng, tiềm năng
to lớn của đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trong sự nghiệp cách mạng: “Miền
núi nước ta chiếm một vị trí quan trọng đối với quốc phòng, đối với kinh tế” [37, tr.
134]. Người đánh giá cáo bản lĩnh, tính thật thà, chất phác, trọng lẽ phải của đồng
bào các dân tộc: “Đồng bào các dân tộc rất thật thà và rất tốt. Nếu nói đúng thì đồng
bào nghe, đồng bào làm và làm được” [39, tr.138].
Đánh giá đúng vị trí của miền núi, vai trò của đồng bào dân tộc thiểu số,
làm cơ sở để đề ra chiến lược và mục tiêu phù hợp với nhiệm vụ cách mạng cụ thể
trong từng thời kỳ, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (1960),
Người chỉ rõ: “Đảng và Nhà nước dân chủ nhân dân cần phải làm cho miền núi

tiến kịp với miền xuôi, vùng cao và vùng biên giới tiến kịp với vùng nội địa, các
dân tộc thiểu số tiến kịp dân tộc Kinh, giúp đỡ các dân tộc phát huy tinh thần cách
mạng và năng lực to lớn của mình, cùng nhau đoàn kết chặt chẽ để tiến lên chủ
nghĩa xã hội” [11, tr. 608-609].

9


Theo Hồ Chí Minh: “Muốn thực hiện tốt chính sách dân tộc, công tác dân tộc
thì phải am hiểu về miền núi, về con người miền núi và đồng bào dân tộc thiểu số,
vì mỗi dân tộc thiểu số có nếp sống, tâm lý, bản sắc riêng đa dạng và phong phú.
Muốn tiến hành sự nghiệp cách mạng nói chung và công tác dân tộc nói riêng, thì
phải nghiên cứu cho hiểu rõ phong tục mọi nơi” [36,tr. 410]. Hồ Chí Minh yêu cầu
cán bộ phải gắn bó thật sự với đồng bào, nắm vững và phân tích đúng tình hình,
hiểu rõ phong tục tập quán và làm cho đồng bào tin yêu mà tiến hành công tác vận
động đồng bào miền núi cụ thể thiết thực, phù hợp, dễ hiểu để đồng bào làm được.
Các chủ trương, chính sách, biện pháp phát triển kinh tế, văn hóa ở miền núi đòi hỏi
phải thực hiện khẩn trương, nhưng không nóng vội, rập khuân máy móc mà phải
thận trọng, vững chắc, toàn diện, hiệu quả, đem lại lợi ích cho đồng bào.
Hồ Chí Minh xác định vai trò to lớn của Nhà nước, của các cơ quan đoàn thể
và cán bộ đối với sự phát triển của vùng dân tộc và miền núi. Người luôn nhắc nhở
và giao nhiệm vụ cho các cơ quan Trung ương phải có trách nhiệm đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội của vùng miền núi, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số còn gặp
khó khăn. Trách nhiệm thực hiện công tác dân tộc là của mọi nghành, mọi cấp, chứ
không phải chỉ là nhiệm vụ của một cơ quan chuyên trách làm công tác dân tộc.
Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ người dân
tộc thiểu số và coi đây là nhân tố quyết định để thực hiện thắng lợi chính sách dân
tộc của Đảng, là một yêu cầu khách quan của cách mạng Việt Nam. “Công việc
thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [38, tr. 273]. “Cán bộ tốt” là
người chiếm được niềm tin của quần chúng, là cán bộ “khéo lãnh đạo” và bản thân

phải biết tin nhân dân cho nên cần đặc biệt chú trọng đào tạo và bồi dưỡng cán bộ
dân tộc thiểu số, đồng thời tăng cường đoàn kết giữa cán bộ tại chỗ và cán bộ nơi
khác đến, làm động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc thiểu
số và vùng miền núi.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số
phải toàn diện, vừa chú trọng văn hóa, vừa chú trọng chính trị, để hình thành một
đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số vừa có tài, vừa có đức, phải phù hợp với trình độ và
đặc điểm của mỗi dân tộc, mỗi vùng miền.

10


Hồ Chí Minh cho rằng phát triển văn hóa, xây dựng đời sống mới là điều
kiện tiên quyết để phát triển kinh tế, tạo điều kiện để chăm sóc sức khỏe, nâng cao
thể lực cho đồng bào. Phải chú ý đến việc phòng bệnh, khám chữa bệnh cho đồng
bào bằng cách phát triển mạng lưới y tế, đào tạo cán bộ y tế trong đồng bào dân tộc
thiểu số góp phần đấu tranh, xóa bỏ hủ tục còn tồn tại trong đồng bào bằng cách
tuyên truyền, giáo dục vận động đồng bào xây dựng đời sống văn hóa. Ngay trong
việc giúp đỡ đồng bào miền núi xây dựng đời sống văn hóa mới, người cán bộ trong
thực hiện cũng phải cải tạo và xây dựng dần dần, phải tính đến tập quán lâu đời ăn
sâu vào cuộc sống của đồng bào bao đời nay, không được nóng vội.
Trong kháng chiến, ở những vùng có bộ đội, có cơ quan của ta thì ta gúp đỡ
nhân dân chữa bệnh để họ đỡ cúng bái. Bây giờ có nhiều bệnh viện, bệnh xá, ở
biên giới có các đồng chí công an vũ trang giúp dân chữa bệnh rất tốt. Nhưng chưa
phải là đã hết cúng bái mê tín. Vì đó là phong tục tập quán đã lâu đời. Muốn cải
tạo phong tục tập quán được tốt thì tuyên huấn phải làm, mà phải làm bền bỉ liên
tục, làm dần dần chứ không thể chủ quan nóng vội, muốn làm hết ngay một lúc
[39, tr.133-134]. Không chỉ có vậy, Người còn chỉ cụ thể: “Cái gì phải xóa? - Mê
tín hủ tục. Cái gì cần phát triển - Văn hóa giáo dục, vệ sinh, phòng bệnh”.
1.1.2. Quan điểm, chủ trương của Đảng về dân tộc và chính sách dân tộc

Ngay từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trong Cương lĩnh đầu tiên của
Đảng đã quan tâm đến vấn đề dân tộc. Chính sách dân tộc và cơ sở lý thuyết của
chính sách dân tộc được thể hiện trong các văn kiện của các kỳ đại hội Đảng, Hiến
pháp và những pháp luật liên quan của Nhà nước Việt Nam.
Trong nghị quyết Đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương, vấn
đề dân tộc và việc thực hiện chính sách dân tộc được Đảng đề ra trong chương trình
hành động và được Quốc tế cộng sản hoàn toàn nhất trí. Đảng Cộng sản thừa nhận
các dân tộc được quyền tự do hoàn toàn. Đảng chống chế độ thuộc địa, chống lại
các hình thức trực tiếp và gián tiếp đem dân tộc này đàn áp bóc lột dân tộc khác.
Các dân tộc vào Liên bang được hưởng quyền lợi và chịu trách nhiệm như nhau.
Mỗi dân tộc trong Liên bang lại có quyền tự trị, nghĩa là được giải quyết lấy vấn đề
địa phương chỉ quan hệ đến dân tộc mình, được dùng tiếng mẹ đẻ của mình trong
sinh hoạt chính trị, kinh tế và văn hóa của mình.

11


Vào thời điểm lúc bấy giờ khi mà nhiệm vụ giải phóng dân tộc đang đặt ra
cấp thiết, quan điểm trên của Đảng cho thấy, trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân
tộc, quyền tự quyết và quyền tự trị của các dân tộc được tôn trọng, đây là trọng
điểm để giải quyết vấn đề dân tộc lúc đó. Nội hàm của quyền tự trị đã thể hiện
nguyên tắc bình đẳng dân tộc.
Đến đầu những năm 1950, trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp của nhân dân ta đang trên đà phát triển mạnh mẽ, Đảng Lao động Việt Nam
tiến hành Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II (2 - 1951). Về vấn đề dân tộc và việc
thực hiện chính sách dân tộc , Nghị quyết Đại hội chỉ rõ:
Để phá tan âm mưu chia rẽ dân tộc của địch, cần phải thực hiện phát triển
rộng rãi khối đoàn kết với các dân tộc thiểu số, kể cả Hoa Kiều…Trong việc thực
hiện đoàn kết, ta cần chú trọng gây cơ sở quần chúng đi đôi với việc thuyết phục
thổ - ty, chú trọng nhiều đến nâng cao mức sống, giáo dục và tổ chức quần chúng.

Những việc cải cách đóng góp cần phải vừa với sự giác ngộ của dân, với khả năng
của họ, không nên ép. Những Ủy ban tỉnh, huyện nơi có dân tộc thiểu số, cần có
người của họ đề cử vào để giúp họ tiến bộ và điều hòa mọi quan hệ giữa các chủng
tộc. Trong khi tiếp xúc với đồng bào dân tộc thiểu số, chúng ta cần thân mật, có thái
độ thành khẩn đoàn kết giúp đỡ họ tiến bộ. Ta phải tôn trọng tín ngưỡng, tập quán
của họ, nên giúp đỡ họ cải tiến việc làm ăn, giúp phát triển văn hóa giáo dục theo
tiếng nói riêng của từng dân tộc, theo đúng tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin
về vấn đề dân tộc [10, tr.197-198].
Những nội dung trên đã nhấn mạnh tính cần thiết của đoàn kết dân tộc đối
với đấu tranh cách mạng, phải tôn trọng tín ngưỡng, tập quán của các dân tộc thiểu
số, đồng thời đã chỉ rõ phương thức công tác dân tộc của thời kỳ đó. Những nội
dung về chính sách dân tộc trong Văn kiện Đại hội II được cụ thể hóa hơn trước.
Bước sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, chính sách dân
tộc được Đảng xác định rõ trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III
của Đảng (9- 1960). Nghị quyết nêu rõ:
Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, các dân tộc đa số và thiểu số có một truyền
thống đoàn kết anh em, Đảng và nhà nước cần phải có kế hoạch toàn diện và lâu dài

12


phát triển kinh tế và văn hóa miền núi, làm cho miền núi kịp miền xuôi, các dân tộc
thiểu số tiến kịp các dân tộc đa số, giúp các dân tộc phát huy tinh thần cách mạng và
khả năng to lớn của mình. Trong cán bộ cũng như trong nhân dân, cần phải khắc
phục tư tưởng dân tộc lớn và tư tưởng dân tộc hẹp hòi, đoàn kết chặt chẽ giữa các
dân tộc để cùng nhau tiến lên chủ nghĩa xã hội [11, tr. 937].
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12-1976), Đảng đã đưa
ra quan điểm về vùng núi và vùng đồng bào dân tộc, chính sách dân tộc trong thời
kỳ cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội chỉ rõ:
Giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là một trong những nhiệm vụ có tính chất

chiến lược của cách mạng Việt Nam, “Chính sách dân tộc của Đảng là thực hiện triệt
để quyền bình đẳng về mọi mặt giữa các dân tộc, tạo những điều kiện cần thiết để xóa
bỏ tận gốc sự chênh lệch về trình độ kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc ít người và dân
tộc đông người, đưa miền núi tiến kịp miền xuôi, vùng cao tiến kịp vùng thấp, làm
cho tất cả các dân tộc đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đều phát triển mọi mặt,
đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, cùng làm chủ tập thể Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa” [13, tr. 164].
Đối với tiếng nói và chữ viết dân tộc: Chính sách của Đảng và Nhà nước ta
là tôn trọng tiếng nói, chữ viết của tất cả các dân tộc, và tất cả các dân tộc sống trên
lãnh thổ Việt Nam đều phải học và dùng tiếng phổ thông và chữ quốc ngữ là ngôn
ngữ chung của cả nước để có điều kiện mau chóng tiếp thu kiến thức văn hóa, khoa
học kỹ thuật.
Tích cực đào tạo cán bộ dân tộc ở địa phương, đồng thời điều thêm cán bộ
nơi khác tăng cường cho các vùng dân tộc. Tiếp thu lựa chọn, giáo dục và sử dụng
hợp lý những công chức và trí thức dân tộc ít người do chế độ cũ để lại. Trong Đảng
cũng như trong nhân dân, phải tiếp tục phê phán, khắc phục những tư tưởng dân tộc
lớn, dân tộc hẹp hòi, tâm lý kỳ thị dân tộc còn rơi rớt lại, những khuynh hướng biệt
phái, chia rẽ dân tộc.
Như vậy trong văn kiện Đại hội lần thứ IV, những nội dung về chính sách
dân tộc khá toàn diện và cụ thể, liên quan đến lĩnh vực kinh tế, văn hóa, ngôn ngữ,
chữ viết, đào tạo cán bộ dân tộc thiểu số. Vấn đề dân tộc được đặt lên vị trí có tính

13


chiến lược trong cách mạng Việt Nam. Điều này chứng tỏ Đảng cộng sản Việt Nam
rất coi trọng đến vấn đề dân tộc.
Tháng 3 năm 1982, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng, vấn
đề dân tộc và việc thực hiện chính sách dân tộc được Đảng khẳng định:
Đặc biệt ở vùng biên giới, vùng dân tộc, phải kiên trì phát động quần chúng,

làm cho đồng bào phân rõ địch ta, kiên quyết và kịp thời đập tan những âm mưu
hành động của địch hòng chia rẽ dân tộc, kích động bạo loạn, phá rối an ninh. Thi
hành tốt chính sách đoàn kết và bình đẳng dân tộc, đẩy mạnh công cuộc cải tạo xã
hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn
hóa của đồng bào các dân tộc [15, tr. 46].
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, tại
Đại hội VI của Đảng (1986), Đảng đã nghiêm khắc kiểm điểm tình hình mọi mặt và
đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt trong quá trình đi lên của cách
mạng Việt Nam.
Trong thời kỳ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, chính sách dân tộc của Đảng
nhằm hướng tới sự phát triển mối quan hệ tốt đẹp giữa các dân tộc trên cơ sở bình
đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc. Báo cáo chính trị của Đại hội VI đã
khẳng định:
Tình cảm dân tộc, tâm lý dân tộc sẽ còn tồn tại lâu dài và là một lĩnh vực
nhạy cảm. Trong khi xử lý các mối quan hệ dân tộc phải có thái độ trân trọng đối
với những gì liên quan đến lợi ích của mỗi dân tộc, tình cảm dân tộc của mỗi người.
Chống những thái độ, hành động biểu thị tư tưởng “dân tộc lớn” và những biểu hiện
của tư tưởng dân tộc hẹp hòi [16, tr. 97].
Cụ thể hóa đường lối của Đại hội VI, ngày 27/7/1989, Bộ chính trị ra nghị
quyết số 22-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội
miền núi. Ngày 13/3/1990, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 72-HĐBT
về một số chủ trương, chính sách cụ thể phát triển kinh tế - xã hội miền núi.
Thực hiện nghị quyết số 22 của Bộ chính trị và Quyết định số 72-HĐBT,
Nhà nước đã quan tâm tăng mức đầu tư phát triển kinh tế - xã hội cho các dân tộc ở
miền núi, đặc biệt là vùng cao, vùng xa xôi hẻo lánh, vùng căn cứ cũ theo các

14


chương trình, dự án. Do đó, tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội ở nhiều địa phương

miền núi đã có bước chuyển biến mới.
Tiếp tục thực hiện những quan điểm của Đại hội VI, Đại hội VII của Đảng
(1991) khẳng định:
Đoàn kết, bình đẳng giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc, cùng xây dựng cuộc
sống ấm no hạnh phúc, đồng thời giữ gìn và phát huy bản sắc tốt đẹp của mỗi dân
tộc là chính sách nhất quán của Đảng và nhà nước ta. Có chính sách phát triển kinh
tế hàng hóa ở các vùng dân tộc thiểu số phù hợp với đặc điểm và điều kiện từng
vùng, từng dân tộc, bảo đảm cho đồng bào các dân tộc khai thác được thế mạnh của
địa phương để làm giàu cho mình và đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
đất nước. Tôn trọng tiếng nói và có chính sách đúng đắn về chữ viết đối với các dân
tộc. Đặc biệt có chính sách khắc phục tình trạng suy giảm dân số đối với một số dân
tộc ít người [17, tr. 77].
Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng (1996) tiếp tục nhấn mạnh:
Thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc trong sự nghiệp
đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xây dựng Luật dân tộc. Từ nay
đến năm 2000, bằng nhiều biện pháp tích cực và vững chắc, thực hiện cho được ba
mục tiêu: Xóa được đói, giảm được nghèo, ổn định và cải thiện được đời sống, sức
khỏe của đồng bào các dân tộc, đồng bào vùng cao, vùng biên giới; xóa được mù
chữ, nâng cao dân trí, tôn trọng và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc;
xây dựng được cơ sở chính trị, đội ngũ cán bộ và Đảng viên của các dân tộc ở các
vùng, các cấp trong sạch, vững mạnh [19, tr. 125-126].
Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4/2001)
chỉ rõ:
Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc luôn luôn có vị trí chiến lược trong
sự nghiệp cách mạng. Thực hiện tốt các chính sách, các dân tộc bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội,
phát triển sản xuất hàng hóa, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xóa đói, giảm
nghèo, mở mang dân trí, giữ gìn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hóa và truyền
thống tốt đẹp của các dân tộc; thực hiện công bằng xã hội giữa các dân tộc, giữa


15


miền núi và miền xuôi, đặc biệt quan tâm vùng gặp nhiều khó khăn, vùng trước đây
là căn cứ cách mạng và kháng chiến. Tích cực thực hiện chính sách ưu tiên trong
việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số. Động viên, phát huy vai trò của
những người tiêu biểu, có uy tín trong dân tộc và ở địa phương. Chống kỳ thị, chia
rẽ dân tộc, chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan; khắc
phục tư tưởng tự ti, mặc cảm dân tộc [12, tr. 670-671].
Thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, tháng 1/2003, Hội nghị lần thứ 7
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) thông qua Nghị quyết số 24-NQ/TW về
công tác dân tộc. Nghị quyết khẳng định: Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc được
coi là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài đồng thời là vấn đề cấp bách hiện nay của
cách mạng Việt Nam. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ giúp nhau cùng phát triển, phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Kiên quyết đấu tranh chống mọi âm mưu chia rẽ dân tộc. Phát triển toàn diện chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh - quốc phòng trên địa bàn miền núi; gắn tăng
trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện chính sách dân tộc.
Nghị quyết đề ra mục tiêu cụ thể đến năm 2010: phát triển kinh tế, xóa đói,
giảm nghèo, nâng cao mức sống đồng bào các dân tộc; nâng cao trình độ dân trí,
chăm sóc sức khỏe, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của đồng bào; xây dựng đội
ngũ cán bộ dân tộc thiểu số tại chỗ có phẩm chất và năng lực đáp ứng được yêu cầu
của địa phương, giữ vững an ninh, quốc phòng ở vùng dân tộc và miền núi.
Quan điểm của Đảng về vấn đề dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc theo
tinh thần Nghị quyết Đại hội IX và Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị tiếp tục được
Đại hội lần thứ X của Đảng (2006) khẳng định:
“Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự
nghiệp cách mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng,
đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Phát triển kinh tế, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xóa đói giảm
nghèo, nâng cao trình độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, tiếng nói, chữ
viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh

16


tế - xã hội ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng căn cứ cách mạng;
làm tốt công tác định canh, định cư và xây dựng vùng kinh tế mới. Quy hoạch, phân
bổ, sắp xếp lại dân cư, gắn phát triển kinh tế với bảo đảm an ninh, quốc phòng. Củng
cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở vùng đồng bào các dân tộc thiểu
số; động viên, phát huy vai trò của những người tiêu biểu trong các dân tộc. Thực
hiện chính sách ưu tiên trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trí thức là người dân tộc
thiểu số. Cán bộ công tác ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi phải gần gũi, hiểu
phong tục tập quán, tiếng nói của đồng bào dân tộc, làm tốt công tác dân vận. Chống
các biểu hiện kỳ thị, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc” [23, tr. 121-122].
Nhìn lại đường lối của Đảng về vấn đề dân tộc và việc thực hiện chính sách
dân tộc qua các kỳ Đại hội, ta thấy rằng chính sách dân tộc của Đảng dựa trên ba
nguyên tắc cơ bản đó là : đoàn kết - bình đẳng - tương trợ.“Đoàn kết - bình đẳng tương trợ giữa các dân tộc‟‟, ba nguyên tắc cơ bản này có quan hệ hữu cơ với nhau,
tác động qua lại với nhau thành một thể thống nhất, vừa là mục tiêu vừa là động lực
phát triển. Có bình đẳng thì mới thực hiện được đoàn kết dân tộc; có đoàn kết, giúp
nhau cùng phát triển thì mới thực hiện được bình đẳng dân tộc. Trong cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, chính sách dân tộc đã thực sự trở thành cương lĩnh hành
động thu hút hàng chục triệu nhân dân thuộc các tầng lớp, giai cấp, dân tộc, kết
thành sức mạnh tổng hợp để đánh bại kẻ thù là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm
lược. Ngày nay, trong thời kỳ đổi mới, cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thực
hiện các nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau giữa các dân tộc là
để các dân tộc cùng phát triển.
1.2 . Cơ sở thực tiễn

1.2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện Thanh Sơn
* Điều kiện tự nhiên
Thanh Sơn là một trong những huyện miền núi, thuộc phía Tây Nam của tỉnh
Phú Thọ, nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống trong đó dân tộc Mường
chiếm hơn 60% dân số của huyện. Phía Bắc Thanh Sơn giáp hai huyện Tam Nông
và Yên Lập, phía Nam giáp tỉnh Hòa Bình, phía Tây giáp huyện Tân Sơn, phía
Đông giáp huyện Thanh Thủy và tỉnh Hòa Bình.

17


Địa hình Thanh Sơn khá phức tạp, bị chia cắt bởi nhiều dãy núi cao và sông
suối, trong đó có núi Lưỡi Hái và sông Vàng chạy bao quanh các xã trong toàn
huyện. Địa hình nghiêng từ Tây sang Đông, có thể chia thành 3 tiểu vùng: vùng núi
cao tập trung ở phía Tây, vùng đồi núi cao xen lẫn với vùng đồi núi thấp tập trung
chủ yếu ở phía Bắc, vùng núi thấp tập trung ở phía Đông và Đông Nam cùng những
thung lũng chạy dọc theo các con sông, độ cao trung bình từ 500m đến 700m.
Đặc điểm khí hậu thủy văn, Thanh Sơn nằm trong vùng núi phía Bắc nước ta,
có khí hậu nhiệt đới gió mùa và là miền núi cao, có nhiều núi đá vôi, khí hậu của Thanh
Sơn mang đặc điểm của vùng núi Tây Bắc, song cũng có những đặc điểm riêng, mát
hơn các vùng lân cận, độ ẩm tương đối, nhiệt độ trung bình từ 22,5°C-23,5°C, biên độ
nhiệt trong năm có sự dao động trên 10°C và trong ngày từ 6°C-7°C. Mùa nóng nhiệt
độ tuyệt đối lên khoảng 39°C-40°C (vào khoảng tháng 6, tháng 7 trong năm), mùa
lạnh nhiệt độ thấp tuyệt đối khoảng 7°C-8°C (tháng Chạp). Mùa mưa kéo dài từ
tháng 4 đến hết tháng 10. Chế độ mưa ở Thanh Sơn khá phong phú, lượng mưa hàng
năm khoảng 2300- 2400 mm.
Độ ẩm tương đối, trung bình hàng năm 85-87%, cao nhất vào tháng 6,7,8 đạt
khoảng 87-88%; thấp nhất vào khoảng tháng 1,2,3, đạt khoảng 81%; ranh giới mùa
mưa và mùa khô tương đối không rõ rệt. Lượng mây trung bình 6,5/10, cuối mùa
đông lên tới 8-9/10 và ít nắng. Các hướng gió phụ thuộc vào địa hình. Tốc độ gió

trung bình 1-1,3 m/s, có hiện tượng sương mù nhưng không lớn.
Mạng lưới sông suối trên địa bàn huyện khá nhiều nhưng nhỏ và ngắn như:
sông Bứa, sông Dân, suối Cái xã Yên Lương, ngòi Lạt xã Lương Nha và nhiều suối
nhỏ khác, là nguồn tài nguyên nước dồi dào phục vụ cho sản xuất và đời sống.
Thanh Sơn có tiềm năng lớn về đất đai, nhất là đất đồi rừng, diện tích rừng
lớn, độ che phủ cao. Tổng diện tích tự nhiên là 62.177,06 ha trong đó có 45.724,23
ha đất nông nghiệp (chiếm 73,54%); có 4.672,39 ha là đất phi nông nghiệp (chiếm
7,51%) và 11.780,44 ha đất chưa sử dụng (chiếm 18,95%); ngoài diện tích đất dốc
và phù sa thích hợp với cây hàng năm, còn có tới 80% diện tích đất feralit phát triển
trên phiến thạch sét có độ phì tự nhiên khá và rất thích hợp đối với cây lâu năm và
cây lâm nghiệp [78, tr.3]

18


Nguồn tài nguyên rừng rất phong phú với nhiều loại gỗ quý như đinh, lim, dổi,
nghiến, chò chỉ, sến, táu…hàng năm cung cấp được hàng ngàn m3 gỗ. Rừng ở đây còn
cung cấp nhiều loại cây công nghiệp (tre, nứa, mây…), cây dược phẩm (sa nhân, đẳng
sâm…). Rừng Thanh Sơn cũng có nhiều động vật quý như khỉ, gà, lợn, rừng. Hệ sinh
thái rừng đa dạng.
Tài nguyên khoáng sản nhiều, có trữ lượng khá lớn gồm pirit, quắc zít, cao
lanh, sắt, than…Ngoài ra còn có nhiều mỏ đá có thể khai thác làm vật liệu xây dựng
cho giao thông, xây dựng và sản xuất vôi, xi măng.
Nhìn chung Thanh Sơn là địa bàn có điều kiện địa hình thuận lợi, giàu tiềm
năng phát triển nông, lâm nghiệp với địa hình 2/3 diện tích là đồi núi đem lại, mở
mang các cụm công nghiệp, đa dạng các loại hình kinh doanh, dịch vụ và du lịch,
tạo đà thúc đẩy xây dựng Thanh Sơn thêm giàu mạnh, văn minh. Tuy nhiên, bên
cạnh những mặt thuận lợi vẫn còn nhiều khó khăn bởi điều kiện địa lý, điều kiện tự
nhiên của huyện Thanh Sơn nói riêng, nước ta nói chung luôn mang những yếu tố
khắc nghiệt, thiên tai dịch bệnh diễn biến phức tạp đã tác động ảnh hưởng lớn đến

sản xuất và đời sống của người dân. Do đó có thể khẳng định những đặc điểm địa lý
tự nhiên trên đã ít nhiều tác động đến việc chỉ đạo tổ chức thực hiện chính sách dân
tộc của Đảng bộ huyện Thanh Sơn.
* Đặc điểm kinh tế - xã hội
Do nằm ở cuối của dãy Hoàng Liên Sơn (dãy núi lớn nhất miền Bắc) nên phần
lớn diện tích tự nhiên của huyện Thanh Sơn là núi cao, đồi gò, núi thấp. Địa hình, địa
mạo Thanh Sơn khá phong phú, có nhiều tài nguyên, khoáng sản và tiềm năng để
phát triển kinh tế đa dạng nhất là công nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản, kinh tế
đồi rừng và du lịch sinh thái.
Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật, hạ tầng cơ sở của huyện đã và đang được
xây dựng ngày càng hiện đại hơn. Là một trong những cửa ngõ quan trọng của miền
Tây Bắc nối liền với đồng bằng Bắc bộ và Thủ đô Hà Nội, nên giao thông của
Thanh Sơn khá thuận lợi với nhiều tuyến đường chạy qua được cải tạo và nâng cấp:
Quốc lộ 32A (Hà Nội - Sơn La - Lai Châu); quốc lộ 70B (Yên Lập - Thanh Sơn Hòa Bình), tỉnh lộ 317 (Thanh Thủy -Tinh Nhuệ - Hòa Bình)...tạo điều kiện mở

19


×