Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Phân tích môi trường bên ngoài của công ty

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (291.64 KB, 14 trang )

Phân tích môi trường bên ngoài của công ty
2.1 Phân tích môi trường Vĩ Mô.
Tất cả các loại hình doanh nghiệp, các loại tổ chức thuộc các ngành, có quy mô lớn
hoặc nhỏ trong nền kinh tế mỗi quốc gia đều hoạt động trong một cộng đồng xã hội
nhất định và chịu ảnh hưởng của các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô nằm ngoài tầm
kiểm soát của các doanh nghiệp, nhiều yếu tố của môi trường này tác động đan xen lẫn
nhau và ảnh hưởng đến quản trị chiến lược của công ty,và Vinamilk cũng không phải
là ngoại lệ. Vì vậy,nhà quản trị cần phải xem xét tính chất tác động của từng yếu tố,
mối tương tác giữa các yếu tố… để dự báo mức độ, bản chất và thời điểm ảnh hưởng
nhằm xử lý tình huống một cách linh hoạt, đồng thời có giải phát hữu hiệu để tận dụng
tối đa các cơ hội, hạn chế hoặc ngăn chặn kịp thời các nguy nhằm nâng cao hiệu quả và
giảm thiểu tổn thất trong quá trình quản trị chiến lược.Môi trường vĩ mô bao gồm các
yếu tố:
2.1.1 Thị trường thế giới:
Giá các sản phẩm sữa trên thế giới có xu hướng ngày càng tăng nên Việt nam có lợi
thế cạnh tranh khi xuất khẩu sản phẩm, giúp tăng thu ngọai tệ.
Năm 2007 được coi là năm “con lợn vàng” ở Trung Quốc và nhiều nước châu Á
khác, một năm quý giá để sinh em bé. Với số lượng những em bé mới sinh ra đời vượt
trội so với những năm trước, thị trường sữa thế giới bắt đầu giai đoạn nhu cầu tăng
mạnh, trong bối cảnh giá sữa và nhiều nông sản khác vốn đang cao ngất ngưởng do
nguồn cung khan hiếm và chi phí đầu vào tăng mạnh.
Trung Quốc chỉ là một ví dụ điển hình. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao khiến người
dân nhiều nước châu Á, châu Mỹ La tinh và thậm chí là ở Trung Đông thoát khỏi cảnh
nghèo đói, làm gia tăng nhu cầu tiêu thụ những sản phẩm mà trước đây họ không dám
mua, như sữa. Trước nhu cầu ngày càng lớn, mức cung hiện nay không đáp ứng kịp.
Theo tính toán của các chuyên gia, nhu cầu sữa trên toàn cầu mỗi năm tăng thêm 15
triệu tấn, tức bằng tổng lượng sữa và chế phẩm từ sữa mà New Zealand sản xuất hằng
năm. New Zealand là nước xuất khẩu sản phẩm sữa và chế phẩm từ sữa lớn nhất thế
giới với 12,7 triệu tấn/năm, bằng lượng sữa xuất khẩu của toàn châu Âu.
Hai nước xuất khẩu sữa hàng đầu thế giới là New Zealand và EU đều khó lòng có
thể tăng sản lượng sữa. Sản lượng của Áchentina năm qua rất kém, New Zealand thì


đang bị hạn hán, còn Liên minh châu Âu (EU) bị kiềm chế bởi hạn ngạch. Như vậy, gần
như tất cả các nước sản xuất sữa lớn đều không thể tăng nguồn cung.
Trữ lượng sữa của thế giới gần như đang trống rỗng. Australia thậm chí còn lo ngại
rằng họ sẽ không còn đủ sản lượng để cung cấp cho thị trường nội địa chứ chưa nói gì
đến xuất khẩu. Thức ăn dành cho gia súc ở Australia ít đi. Mấy năm nay nước này rơi
vào tình trạng hạn hán, thiếu cỏ cho bò sữa ăn, ảnh hưởng nặng đến ngành sản xuất sữa.
Sản lượng sữa của Australia đã giảm mạnh từ mức đỉnh cao 11,1 tỷ lít năm 2001/02
xuống chỉ khoảng 9,1 tỷ lít năm 2007/08. Một số nhà khoa học cho rằng hiện tượng hạn
hán này sẽ còn kéo dài vì là hậu quả của tình trạng khí hậu trái đất nóng lên. Cho nên,
nước Australia khó lòng sản xuất sữa được nhiều như trước. Trong khi đó ở Ấn Độ, lũ
lụt lại là nguyên nhân làm tăng giá sữa. Ấn Độ là quốc gia sản xuất sữa (bò và trâu) và
chế phẩm từ sữa số hai thế giới với 101,4 triệu tấn/năm nhưng chỉ xuất 0,7 triệu tấn.
2.1.2 Thị trường trong nước:
2.1.2.1 Tốc độ tăng trưởng kinh tế:
Kinh tế Việt nam tăng trưởng khá ấn tượng trong 10 năm trở lại đây,
thuộc vào hàng các nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực và trên
thế giới.
Theo số liệu biểu đồ trên, GDP của Việt nam liên tục tăng ở mức từ 6-
8%, do đó GDP bình quân trên đầu người cũng liên tục tăng, đến năm 2007 đã
đạt 200.6% so với năm 2000. Năm 2008, do tác động của khủng hỏang tài chính
tòan cầu đã khiến kinh tế tăng trưởng chậm hơn dự kiến. Mặc dù tốc độ tăng
trưởng kinh tế năm 2009 thấp hơn tốc độ tăng 6,18% của năm 2008 nhưng đã
vượt mục tiêu tăng 5% của kế họach. Đáng chú ý là GDP của quý III/2009 tăng
6.04% và quý IV/2009 tăng 6.9%, cao hơn so với cùng kỳ năm 2008, cho thấy
nền kinh tế nước ta đã vượt qua thời kỳ suy giảm, càng về cuối càng nâng cao
tốc độ tăng trưởng trong bối cảnh kinh tế thế giới suy thóai với nhiều nền kinh tế
tăng trưởng âm.
Thu nhập của người dân cũng luôn được cải thiện. Mặc dù năm 2008 và
2009 nền kinh tế Việt nam đi xuống theo xu hướng chung của kinh tế thế giới
nhưng thu nhập bình quân đầu người vẫn tăng đều đặn. Điều này đã tác động

tích cực đến sức mua trong nước, trong đó có ngành chế biến sữa. Thu nhập
được nâng cao, người dân sẽ quan tâm hơn đến sức khỏe của bản thân và sẵn
sàng gia tăng chi tiêu cho các lọai thực phẩm giàu chất dinh dưỡng như sữa, dẫn
đến lượng khách hàng tiêu thụ sữa ngày càng gia tăng.
Lạm phát vẫn chưa bị đẩy lùi và bùng phát trở lại vào năm 2010. không
phải là vấn đề của năm 2009, nhưng năm 2010 là một năm lạm phát bùng lên trở
lại do các nguyên nhân gây ra lạm phát bị tích lũy ngày càng nhiều trong năm
2009.Cụ thể, như các chính sách hỗ trợ lãi suất làm tăng trưởng tín dụng, nới
lỏng kiểm soát giá một số mặt hàng như điện, nước, xăng dầu, điều chỉnh tăng
lương và có thể là cả những nỗ lực phát hành tiền mà không được công bố chính
thức. Nguy cơ lạm phát càng rõ ràng hơn nếu tiếp tục thực hiện gói kích thích
kinh tế trong điều kiện mà chưa có giải pháp dài hạn hơn để đảm bảo chắc chắn
nguồn vốn đạt được hiệu quả sinh lời cao và có khả năng tái tạo nguồn thu trong
nước.
2.1.2.2 Dân số:
Theo thống kê của Tổng cục Dân số công bố ngày 04/07/2008, dân số
Việt nam đã đạt tới 86,5 triệu người; đồng thời theo các kết quả suy rộng mẫu
chủ yếu của cuộc Tổng điều tra dân số thực hiện ngày 01/04/2009, Việt nam
đang trong thời kỳ “cơ cấu dân số vàng”, thời kỳ mà nhóm dân số trong độ tuổi
lao động cao gần gấp hai lần nhóm dân số trong độ tuổi “phụ thuộc”. So với kết
quả điều tra năm 1999, tỷ trọng dân số dưới 15 tuổi giảm từ 33% năm 1999
xuống còn 25% năm 2009, trong khi tỷ trọng dân số của nhóm 15-59 tuổi tăng từ
58% năm 1999 lên 66% và nhóm dân số từ 60 tuổi trở lên tăng từ 8% năm 1999
lên 9% năm 2009. Ngòai ra, dân số sống ở khu vực thành thị tăng từ 23,7% năm
1999 lên 29,6% năm 2009 với tỉ lệ tăng bình quân là 3,4%/năm trong khi ở khu
vực nông thôn tỉ lệ này chỉ có 0,4%/năm. Đây là yếu tố thuận lợi cho việc phát
triển ngành sữa ở nước ta, và thực tế cũng cho thấy tiềm năng to lớn này với
mức tiêu thụ sữa hàng năm tăng 30%, tập trung mạnh ở các khu vực thành thị.
Mặt khác, các số liệu nghiên cứu ở biểu đồ “Tiêu thụ sữa theo lứa tuổi”
cho thấy hầu hết các lứa tuổi đều tiêu thụ sản phẩm giàu chất dinh dưỡng này,

đặc biệt là lứa tuổi từ 7-29 tuổi. Điều này tạo ra cơ hội lớn cho các doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh sữa trên thị trường có tiềm năng lớn và đang phát triển như
ở Việt Nam.
2.1.2.3 Công nghệ:
Hàng lọat công nghệ tiên tiến trên thế giới ra đời nhằm hỗ trợ cho việc
nuôi dưỡng đàn bò sữa thêm mập mạp, khỏe mạnh và cho ra sản lượng sữa chất
lượng cao như mạng Ethernet, công nghệ kết nối không dây Bluetooth, Wi-fi và
kỹ thuật nhận dạng song vô tuyến từ xa với các thẻ RFID (Radio Frequency
Identification) gắn chip nhận dạng tự động, camera quan sát từ xa giúp theo dõi
đàn gia súc trong chuồng, hệ thống cảm biến sinh học giúp đo bước sóng xác
định mức độ linh họat của con bò và gấn đây là công nghệ cảm ứng nhiệt độ
giúp xác định các chu kỳ sinh sản của bò cũng như dò tìm các dấu hiệu bệnh. Hệ
thống vi tính hóa ở các chuồng gia súc và trong văn phòng điều hành nông trại
đã giúp sản lượng đàn bò sữa ngày càng được nâng cao.
Ngành sữa trên thế giới đã có mặt lâu đời với công nghệ tiên tiến từ các
nước có công nghệ và thiết bị ngành sữa phát triển như Mỹ, Thụy Điển, Đan
Mạch, Thụy Sĩ, Đức, Ý, Hà Lan. Sản phẩm ngày càng đạt chất lượng cao với các
dây chuyền sản xuất sữa hiện đại có công suất lớn như hệ thống máy rót UHT
đóng gói tự động cho các lọai hộp giấy chuyên dung, dây chuyền sản xuất sữa
chua ăn khép kín với công nghệ lên men tiên tiến, dây chuyền sản xuất và đóng
gói sữa tươi thanh trùng, …
2.1.2.4 Văn hóa - xã hội:
Mặc dù Việt nam không phải là nước có truyền thống sản xuất sữa và dân
chúng trước đây chưa có thói quen dùng sữa, nhưng với tốc độ tăng dân số
nhanh (1,2% -theo năm 2009), đặc biệt là tỉ lệ tăng của dân số thành thị cao hơn
nông thôn nên ý thức bảo vệ sức khỏe ngày càng được chú trọng, đặc biệt là vấn
đề dưỡng chất cần thiết cho trẻ em giai đọan thôi bú sữa mẹ dần dần giúp hình
thành nên thói quen tiêu thụ sữa cho mọi lứa tuổi trong giai đọan sau này. Theo
thống kê của Viện dinh dưỡng quốc gia, hiện mức tiêu thụ sữa của người Việt
nam đã tăng lên đáng kể (29,9g mỗi ngày)

Ngoài ra, các chương trình chính sách khuyến khích dùng sữa trong
trường học, cung cấp miễn phí hoặc giá rất rẻ cho các cháu mẫu giáo và học sinh
tiểu học cũng đã được chính phủ đề cập đến trong chương trình phát triển quốc
gia và thực hiện thí điểm ở một số địa bàn có điều kiện thuận lợi. Cụ thể là
chương trình “sữa học đường” với ngân sách nhà nước đang được thực hiện tại
Bà Rịa Vũng Tàu là một điểm sáng cần nghiên cứu nhân rộng cho cả nước.
2.1.2.5 Điều kiện tự nhiên:
Khí hậu Việt Nam mang đặc điểm của khí hậu gió mùa, nóng ẩm. Tuy
nhiên, có nơi có khí hậu ôn đới như tại Sa Pa, tỉnh Lào Cai; Đà Lạt, tỉnh Lâm
Đồng; có nơi thuộc khí hậu lục địa như Lai Châu, Sơn La thích hợp trồng cỏ cho
chất lượng cao.Mặc dù khí hậu nóng ẩm nhưng nhìn chung các điều kiện tự
nhiên khá thích hợp cho việc phát triển ngành chăn nuôi bò lấy sữa đặc biệt là ở
các tỉnh Tuyên Quang, Lâm Đồng, BaVì, Nghệ An, Sơn La…
2.1.2.6 Chính trị - Pháp luật:
Việt nam là nước có chế độ chính trị ổn định, hệ thống luật pháp thông
thóang tạo điều kiện thuận lợi cho môi trường đầu tư. Cùng với việc gia nhập
các tổ chức thương mại thế giới trong những năm gần đây, Chính phủ Việt nam
cũng đã ban hành nhiều chính sách phù hợp với quá trình hội nhập tòan cầu, tạo
điều kiện thuận lợi cho việc thu hút đầu tư. Bên cạnh đó, việc giảm thuế nhập
khẩu xuống còn 0% cho các sản phẩm sữa giúp các sữa ngọai nhập có điều kiện
thâm nhập dễ dàng thị trường Việt nam. Điều này tạo ra nhiều thách thức cho
họat động sản xuất kinh doanh của Vinamilk, đồng thời cũng mở ra nhiều cơ hội
để doanh nghiệp có thể thực hiện liên doanh khai thác những mặt mạnh về kỹ
thuật và tiếp thị của các doanh nghiệp có kinh nghịêm lâu năm trong ngành công
nghiệp sữa trên thế giới.

×