Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Bảo vệ quyền của người nộp thuế trong pháp luật Việt Nam : Luận văn ThS. Luật: 60 38 01 07

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (924.45 KB, 121 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ BÍCH NGỌC

B¶O VÖ QUYÒN CñA NG¦êI NéP THUÕ
TRONG PH¸P LUËT VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG

HÀ NỘI – 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Bích Ngọc




MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN CỦA
NGƯỜI NỘP THUẾ VÀ BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI
NỘP THUẾ TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM........................... 5
1.1.

Khái niệm, vị trí pháp lý, vai trò của người nộp thuế .................... 5

1.1.1. Khái niệm người nộp thuế.................................................................. 5
1.1.2. Vị trí pháp lý của người nộp thuế trong quan hệ pháp luật thuế ......... 6
1.1.3. Vai trò của người nộp thuế ................................................................. 9
1.2.

Bản chất và phân loại quyền của người nộp thuế ........................ 10

1.2.1. Bản chất quyền của NNT trong quan hệ pháp luật thuế.................... 10
1.2.2. Phân loại quyền của người nộp thuế ................................................ 11
1.3.

Bảo vệ quyền của người nộp thuế ................................................. 17

1.3.1


Sự cần thiết phải bảo vệ quyền của người nộp thuế.......................... 17

1.3.2. Nội dung bảo vệ quyền của người nộp thuế ..................................... 17
1.3.3.

Các biện pháp bảo vệ quyền của người nộp thuế ................................. 27

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ............................................................................. 33
Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN CỦA
NGƯỜI NỘP THUẾ Ở VIỆT NAM ..................................................... 34
2.1.

Thực trạng bảo vệ các quyền cơ bản của người nộp thuế
theo pháp luật Việt Nam ................................................................ 34

2.1.1. Quyền tiếp cận thông tin của người nộp thuế ................................... 34


2.1.2. Quyền được hưởng ưu đãi về thuế, hoàn thuế .................................. 44
2.1.3. Quyền yêu cầu được bồi thường thiệt hại ......................................... 58
2.1.4. Quyền được giữ bí mật thông tin ..................................................... 60
2.1.5. Quyền yêu cầu cơ quan quản lý thuế xác nhận việc thực hiện
nghĩa vụ nộp thuế ............................................................................ 65
2.1.6. Quyền khiếu nại, khởi kiện, tố cáo ................................................... 67
2.2.

Thực trạng bảo vệ quyền của người nộp thuế của Cơ quan
quản lý thuế .................................................................................... 76


2.2.1. Tuân thủ thủ tục thu nộp thuế........................................................... 76
2.2.2.

Tuân thủ nghĩa vụ trong thực hiện quyền kiểm tra, thanh tra thuế ......... 79

2.2.3. Xử lý vi phạm hành chính thuế ........................................................ 85
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ............................................................................. 90
Chương 3 MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUẢ BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ TRONG
PHÁP LUẬT VIỆT NAM .............................................................. 91
3.1.

Căn cứ để nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền của người nộp
thuế trong pháp luật Việt Nam...................................................... 91

3.1.1. Đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng và hoàn
thiện pháp luật trong nền kinh tế thị trường ở nước ta ...................... 91
3.1.2. Sự chi phối của nền kinh tế thị trường Việt Nam.............................. 92
3.1.3. Chiến lược cải cách thuế giai đoạn 2011 – 2020 .............................. 94
3.2.

Một số định hướng cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ
quyền của người nộp thuế trong pháp luật Việt Nam .................. 95

3.2.1. Cần ghi nhận thành nguyên tắc đảm bảo quyền và lợi ích của
người nộp thuế ................................................................................. 95
3.2.2. Cụ thể hóa nguyên tắc pháp định trong quản lý thuế ........................ 96
3.2.3. Xây dựng và hoàn thiện các quy phạm pháp luật về thuế ................. 97



3.2.4.

Cụ thể hóa quy định của pháp luật về quyền của người nộp thuế .......... 98

3.2.5. Quy định nghĩa vụ của công chức thuế trong Luật quản lý thuế ....... 99
3.2.6. Hoàn thiện một số quy định cụ thể của Luật Quản lý thuế ............. 100
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ........................................................................... 105
KẾT LUẬN ............................................................................................... 106
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 108


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CP

Cổ phần

DN

Doanh nghiệp

GTGT

Giá trị gia tăng

NNT

Người nộp thuế

NSNN


Ngân sách nhà nước

QLRR

Quản lý rủi ro

QLT

Quản lý thuế

TNCN

Thu nhập cá nhân

TNDN

Thu nhập doanh nghiệp

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

TP. HCM

Thành phố Hồ Chí Minh

TTĐB

Tiêu thụ đặc biệt


XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Điều 80 Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân có nghĩa vụ nộp thuế
theo quy định của pháp luật”[36]. Đến bản Hiến pháp sửa đổi được Quốc hội
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6, thông qua
ngày 28/11/2013 cũng quy định tại Điều 47: “Mọi người có nghĩa vụ nộp
thuế theo luật định”[49]. Đây là cơ sở pháp lý để Quốc hội ban hành các Luật
thuế. Một cá nhân khi có thu nhập đến ngưỡng chịu thuế tự kê khai nộp thuế
hoặc bị khấu trừ thuế tại nguồn trước khi nhận thu nhập. Còn Doanh nghiệp
(DN) khi đăng ký kinh doanh phải nộp thuế môn bài và thực hiện nghĩa vụ
nộp các loại thuế gián thu phát sinh trong quá trình kinh doanh như thuế xuất
nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt… và khi kinh doanh có
lãi DN phải trích một khoản lợi nhuận nộp cho Nhà nước dưới hình thức thuế
thu nhập DN (TNDN). Khi kinh tế thị trường càng phát triển, DN có nhiều cơ
hội kinh doanh để tạo ra thu nhập, nhưng thua lỗ phá sản là “bạn đường” của
DN nên không phải lúc nào mục đích thành lập DN đều đạt được. Sự bất ổn
của nền kinh tế kéo theo ý thức phòng vệ bằng việc tạo ra thu nhập nhanh
chóng, lúc này, Nhà nước đã trở thành một lực lượng đối kháng về lợi ích đối
với người nộp thuế (NNT) khi sử dụng quyền lực công để động viên một phần
tài sản thuộc sở hữu của NNT nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
Nhà nước đặt ra các thứ thuế để tạo nguồn thu cho NSNN, đồng thời thực
hiện điều tiết kinh tế và đảm bảo công bằng xã hội, trong khi đó, các DN luôn
mong muốn khoản thu về thuế ít nhất để đạt được lợi nhuận tối đa. DN tìm
cách trì hoãn nộp thuế, tránh thuế, tự mình hoặc thông đồng với cán bộ thuế

để trốn thuế… Còn Tổng Cục Thuế và Bộ Tài chính thường xuyên phải rà
soát chính sách, pháp luật đề xuất các giải pháp để chống lại tình trạng thất

1


thu thuế. Vậy làm thế nào để Cơ quan Thuế bớt phải sử dụng quyền lực nhà
nước để truy thu thuế, làm thế nào để NNT tự giác tuân thủ pháp luật thuế,
nộp đúng nộp đủ vào NSNN? Đây là những vấn đề trăn trở của tất cả các cơ
quan nhà nước ở Trung ương và địa phương và cũng chính là vấn đề cần
nghiên cứu.
Để có một cái nhìn tổng quan hơn về bảo vệ quyền lợi của NNT, cũng
như tìm ra được những giải pháp cho những câu hỏi nêu trên, vấn đề: “Bảo vệ
quyền của người nộp thuế trong pháp luật Việt Nam” được tác giả lựa chọn
làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật thuế được đề cập thường xuyên trong nghiên cứu và giảng dạy
về Nhà nước và pháp luật, đặc biệt là ngành Luật kinh tế. Trong giáo trình
luật của các trường đại học (Giáo trình Luật thuế Việt Nam) đều có trình bày
về pháp luật thuế cũng như quyền và nghĩa vụ của NNT. Đã có những công
trình nghiên cứu khoa học pháp lý ở cấp độ luận án tiến sỹ về pháp luật thuế
như: Vũ Văn Cương (2012), “Pháp luật Quản lý thuế trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận án tiến sĩ Luật
học, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội; Nguyễn Thị Lệ Thúy (2009), “Hoàn thiện
quản lý thu thuế của Nhà nước nhằm tăng cường sự tuân thủ thuế cuả doanh
nghiệp”, Luận án tiến sỹ kinh tế, Trường ĐH kinh tế quốc dân... Ngoài ra,
cũng có nhiều công trình nghiên cứu pháp luật khác đề cập đến vấn đề quyền
và nghĩa vụ của NNT dưới nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau: Nguyễn Thị
Lan Hương (2012), “Sửa đổi Luật Quản lý thuế nhằm điều hòa quyền, lợi ích
giữa nhà nước và người nộp thuế”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, (9), tháng

5; Nguyễn Thị Lan Hương (2011), “Ưu tiên quyền lợi của người nộp thuế khi
sửa đổi Luật thuế thu nhập cá nhân”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, (14),
tr.199, tháng 7; Nguyễn Thị Lan Hương (2013), “Bảo đảm công bằng và điều

2


chỉnh quan hệ lợi ích khi sửa đổi Luật thuế thu nhập doanh nghiệp”, Tạp chí
Nghiên cứu Lập pháp, (8), tháng 4; Nguyễn Thị Lan Hương (2013), “Về bảo
vệ quyền của người nộp thuế trong Luật Quản lý thuế”, Tạp chí Khoa học
ĐHQGHN, (1), tr.42-50; Dương Kim Thế Nguyên (2012), “Luật Quản lý thuế
dưới góc nhìn của người nộp thuế”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, (12), tháng
6; Nguyễn Thị Hoài Thu (2013), “Quyền tiếp cận thông tin của người nộp
thuế”, Tạp chí khoa học pháp lý, (2), tr.67 – 72, Trường Đại học Luật TP.
HCM; Quý Trường (2011), “Luật quản lý thuế “quên” trách nhiệm của cơ
quan thuế”, Tạp chí Thuế nhà nước, (37), tháng 10.
Nhìn lại các công trình nghiên cứu trong lĩnh vực thuế thời gian qua,
chưa có công trình nghiên cứu luật học nào ở cấp độ thạc sỹ nghiên cứu
chuyên sâu về bảo vệ quyền của NNT trong pháp luật Việt Nam. Trên cơ sở
tiếp thu, kế thừa những thành tựu khoa học của các công trình nghiên cứu đã
công bố, luận văn tiếp tục tìm hiểu, bổ sung và hoàn thiện hệ thống cơ sở lý
luận của pháp luật về quyền và bảo vệ quyền của NNT. Trên cơ sở đó, phân
tích, tìm hiểu các nội dung cụ thể trong thực trạng pháp luật cũng như thực
tiễn thi hành bảo vệ quyền của NNT để có thể đưa ra được một số định hướng
góp phần nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền của NNT trong pháp luật Việt Nam.
Với cách nhìn nhận, đánh giá nêu trên, đề tài luận văn thạc sỹ: “Bảo vệ
quyền của người nộp thuế trong pháp luật Việt Nam” là cần thiết và có ý
nghĩa thiết thực cả trên phương diện lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn nhằm làm rõ những vấn đề về quyền

của NNT, bảo vệ quyền của NNT theo pháp luật Việt Nam, đồng thời phân
tích một số khía cạnh về quyền thu thuế của Nhà nước và đánh giá thực tiễn
thi hành Pháp luật Quản lý thuế (QLT) trong thời gian qua. Trên cơ sở đó,
luận văn đưa ra một số định hướng nhằm nâng cao hiệu quả trong việc bảo vệ
quyền của NNT ở Việt Nam.

3


4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là việc bảo vệ quyền của NNT theo
pháp luật Việt Nam, đặc biệt là trong Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11
(được sửa đổi, bổ sung một số điều tại Luật số 21/2012/QH13). Phạm vi
nghiên cứu của luận văn là những nội dung về quyền và việc bảo vệ quyền
của NNT trong pháp luật Việt Nam; đồng thời so sánh, đối chiếu với pháp luật
một số nước về quyền của NNT và bảo vệ quyền của NNT.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được các mục tiêu đề ra, luận văn kết hợp các phương
pháp nghiên cứu như: phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp thu
thập dữ liệu, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh nhằm làm rõ những
vấn đề được nghiên cứu. Các phương pháp cụ thể được sử dụng trong quá
trình nghiên cứu bao gồm: luận giải, phân tích, so sánh, đối chiếu, bình luận,
tổng hợp, quy nạp…
6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài danh mục từ viết tắt, lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo, Luận văn được kết cấu thành ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về quyền của người nộp thuế
và bảo vệ quyền của người nộp thuế trong pháp luật Việt Nam
Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền của người nộp thuế ở
Việt Nam.

Chương 3: Một số định hướng nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền
của người nộp thuế ở Việt Nam.

4


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI
NỘP THUẾ VÀ BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ
TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, vị trí pháp lý, vai trò của người nộp thuế
1.1.1. Khái niệm người nộp thuế
Người nộp thuế (NNT) với tư cách là một bên chủ thể tham gia vào
quan hệ pháp luật thuế có nghĩa vụ đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế theo quy
định của pháp luật. Đây là nghĩa vụ gắn liền với đối tượng nộp thuế khi thực
hiện các hành vi chịu thuế.
NNT là tất cả các tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện phải nộp một loại
thuế nhất định. Pháp luật Việt Nam không quy định cụ thể khái niệm NNT mà
sử dụng phương pháp liệt kê. Trong đó, NNT được đề cập đến tại các quy
định sau: Điều 2 Luật thuế TNDN số 14/2008/QH12 (được sửa đổi bổ sung
tại Luật số 32/2013/QH13); Điều 2 Nghị định số 218/2013/NĐ-CP quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Thuế TNDN; Điều 4 Luật thuế GTGT số
13/2008/QH12 (được sửa đổi bổ sung tại Luật số 31/2013/QH13); Điều 2
Nghị định số 209/2013/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Thuế GTGT; Điều 4 Luật thuế TTĐB số 27/2008/QH12; Điều 2
Luật Thuế TNCN số 04/2007/QH12 (được sửa đổi bổ sung tại Luật số
26/2012/QH13; Điều 2 Nghị định số 65/2013/NĐ-CP quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế TNCN và Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật thuế TNCN.
Ngoài ra, NNT còn được liệt kê tại Điều 2 Nghị định số 83/2013/NĐCP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật QLT và Luật sửa đổi, bổ

sung một số điều của Luật QLT, theo đó NNT có thể chia thành ba nhóm:

5


Nhóm thứ nhất: Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nộp thuế, phí, lệ phí và
các khoản thu khác thuộc NSNN do cơ quan quản lý thuế quản lý thu theo
quy định của pháp luật.
Nhóm thứ hai: Tổ chức được giao nhiệm vụ thu phí, lệ phí thuộc NSNN.
Nhóm thứ ba: Tổ chức, cá nhân khấu trừ thuế; tổ chức, cá nhân làm thủ
tục về thuế thay NNT. Bao gồm:
(1) Tổ chức, cá nhân là bên Việt Nam ký hợp đồng với tổ
chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam không theo quy
định của pháp luật về đầu tư và không thực hiện chế độ kế toán Việt
Nam; (2) Tổ chức, cá nhân khấu trừ thuế khi chi trả thu nhập cho
người có thu nhập thuộc diện nộp thuế TNCN; (3) Tổ chức làm đại
lý tàu biển, đại lý cho các hãng vận tải nước ngoài có trách nhiệm
khấu trừ thuế TNDN đối với hoạt động kinh doanh vận chuyển hàng
hóa bằng tàu biển từ các cảng biển Việt Nam ra nước ngoài hoặc
giữa các cảng biển Việt Nam; (4) Tổ chức kinh doanh dịch vụ làm
thủ tục về thuế; (5) Đại lý làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất
khẩu, nhập khẩu; (6) Tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ bưu chính,
dịch vụ chuyển phát nhanh quốc tế trong trường hợp nộp thay thuế
cho tổ chức, cá nhân nộp thuế; (7) Tổ chức tín dụng theo quy định
của Luật các tổ chức tín dụng trong trường hợp bảo lãnh nộp thuế
cho tổ chức, cá nhân nộp thuế [18].
1.1.2. Vị trí pháp lý của người nộp thuế trong quan hệ pháp luật thuế
Cùng với Nhà nước, NNT là một chủ thể tham gia và đóng vai trò chủ
đạo trong quan hệ pháp luật thuế. Đây là chủ thể có mối quan hệ chặt chẽ, mật
thiết và trực tiếp sáng tạo, quản lý các lợi ích vật chất được hình thành trong

xã hội. Cũng như các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật khác, để trở
thành NNT trong quan hệ pháp luật thuế đòi hỏi các tổ chức, cá nhân phải hội

6


tụ đủ năng lực chủ thể, năng lực hành vi [62]. Với tư cách là một chủ thể
trong quan hệ pháp luật thuế, NNT có đầy đủ quyền và nghĩa vụ khi tham gia
quan hệ pháp luật thuế, các quyền và nghĩa vụ này cũng chính là một phần nội
dung của quan hệ pháp luật thuế.
Có hai cách đánh giá khác nhau về vị trí pháp lý của NNT phụ thuộc
vào việc xác định bản chất pháp lý của quan hệ pháp luật thuế.
Thứ nhất, Theo quan niệm truyền thống lâu nay, quan hệ pháp luật thuế
là quan hệ pháp luật hành chính được thiết lập giữa cơ quan nhà nước có thẩm
quyền với cá nhân, tổ chức khác trong xã hội được điều chỉnh bởi hệ thống
văn bản pháp luật thuế và được điều chỉnh bởi phương pháp mệnh lệnh quyền
uy [62]. Dưới góc độ vật chất, quan hệ pháp luật thuế được thiết lập để tạo lập
nguồn thu cho ngân sách nhà nước (NSNN). Tiền đề thiết lập quan hệ pháp
luật thuế là do sự hình thành chính thể nhà nước để quản lý điều hành các
hoạt động trong xã hội. Bộ phận chức năng ấy cần có nguồn vật chất hoạt
động, nên thuế hình thành. Do vậy, trong quan hệ pháp luật thuế, các chủ thể
tham gia với tư cách là người nộp thuế (NNT) buộc phải chuyển giao một
phần lợi ích của mình cho NSNN.
Với quan niệm này, quan hệ pháp luật thuế là quan hệ bất bình đằng,
trong đó một bên là cơ quan nhà nước – với tư cách là người có quyền uy,
được sử dụng quyền lực nhà nước để đòi hỏi các tổ chức, cá nhân phải có
nghĩa vụ phục tùng quyền lực của mình, bằng cách tuân thủ nghĩa vụ nộp thuế
theo luật định. Còn NNT, với tư cách là người có nghĩa vụ phục tùng, sẽ hoàn
toàn không có cơ hội để tự vệ nếu các chủ thể quyền uy có hành vi lạm quyền
và gây ra các thiệt hại cho mình. Với cách đánh giá này, NNT ở vào một vị

thế yếu trong quan hệ pháp luật thuế, dù rằng trên thực tế thì công sức và
đóng góp của họ cho Nhà nước là không hề nhỏ chút nào.
Cách nhìn nhận này cũng có nguy cơ “tước đi” của NNT những cơ hội

7


cần thiết để họ có thể công khai bày tỏ nguyện vọng của mình khi đóng thuế
cho nhà nước, cũng như có cơ hội được tự vệ mỗi khi quyền lợi hợp pháp và
chính đáng của họ bị cơ quan quản lý thuế xâm hại. Điều này hoàn toàn
không có lợi cho Nhà nước bởi khi đó, người dân sẽ “quay lưng” lại với
chính sách thuế và có động thái không phục tùng chính sách thuế mà họ cho
là bất hợp lý.
Thứ hai, Theo quan điểm của Mác, quyền của con người là sự thống
nhất giữa quyền và nghĩa vụ. Do vậy, trong quan hệ pháp luật thuế, NNT cũng
phải có một số quyền nhất định. Vì lẽ đó, trong bối cảnh xã hội đương đại,
cần đổi mới quan niệm về thuế và quan hệ pháp luật thuế, theo hướng cho
rằng quan hệ pháp luật thuế không hoàn toàn là quan hệ hành chính mà thực
chất nó có tính chất của một quan hệ trao đổi sòng phẳng giữa hai bên (Nhà
nước và tổ chức cá nhân là NNT). Điều này đồng nghĩa với việc thay đổi vai
trò của Nhà nước trong quan hệ pháp luật thuế, theo hướng chuyển từ mô
hình “cơ quan cai trị” sang mô hình “cơ quan phục vụ”. Với quan niệm này,
chúng ta đã đề cao vị thế của NNT trong quan hệ pháp luật thuế và đảm bảo
cho NNT có khả năng tự vệ trước nguy cơ bị thiệt hại do hành vi trái pháp
luật của cơ quan quản lý thuế hoặc công chức quản lý thuế gây ra. Khi đó,
Nhà nước và NNT sẽ ở vào vị trí bình đẳng hơn, nghĩa là Nhà nước có ít
quyền hơn và NNT có nhiều quyền hơn so với cách hiểu truyền thống về quan
hệ pháp luật thuế.
Có thể thấy rằng, trong bối cảnh hiện nay, việc nhìn nhận quan hệ pháp
luật thuế như thế nào và xác định bản chất của nó ra sao là vấn đề có tính then

chốt, ảnh hưởng quyết định đến việc xác định vị trí pháp lý của NNT cũng
như việc ghi nhận các quyền và nghĩa vụ pháp lý cho NNT trong quan hệ
pháp luật thuế. Nếu xác định không đúng thì sẽ dẫn đến hệ quả làm “méo mó”
bản chất đích thực của quan hệ pháp luật thuế và làm cho chính sách thuế của
Nhà nước trở thành gánh nặng đối với người dân.

8


1.1.3. Vai trò của người nộp thuế
Hiện nay các khoản thu về thuế là nguồn tài chính quan trọng để thực
hiện các mục tiêu, chính sách, và các định hướng của Nhà nước. Thuế được
coi là nguồn tài chính chủ yếu để cân đối cho hoạt động chi thường xuyên.
Theo Luật NSNN 2002, khoản chi thường xuyên của Ngân sách Trung ương
và Ngân sách địa phương được cân đối bởi các khoản thu từ thuế, phí và lệ
phí; loại trừ những địa phương không đủ khả năng cân đối thu chi thường
xuyên. Điều này thể hiện sự lệ thuộc của chính quyền trung ương và chính
quyền địa phương vào các khoản thu về thuế. Bộ máy nhà nước hoạt động
nhằm hướng tới đối tượng phục vụ là các thực thể trong xã hội trong đó có
DN. Các cơ quan quản lý là các bộ, ban, ngành duy trì hoạt động bằng các
khoản thu từ thuế cũng chính là chủ thể phải có trách nhiệm duy trì môi
trường kinh doanh lành mạnh và công bằng để NNT có điều kiện phát triển,
tăng thu nhập và làm tăng các khoản đóng góp về thuế. Từ quan hệ sử dụng
các khoản thu từ thuế, có thể thấy Nhà nước thực chất đã trở thành chủ thể
“phục vụ” theo đúng nghĩa hơn là chủ thể “quyền lực” [27].
Tiếp đó, các khoản thu từ thuế góp phần quan trọng giúp Nhà nước tổ
chức điều hành xã hội, cung ứng các tiện ích công cộng. Do điều kiện tài
chính quốc gia hạn hẹp, vay nợ trong và nước ngoài đã trở thành kênh huy
động chủ yếu để đầu tư phát triển. Bức tranh tài chính trong Dự toán NSNN
không thể hiện toàn bộ nghĩa vụ trả nợ của quốc gia mà chỉ phản ánh một

phần các hoạt động thu chi trong năm ngân sách. Vấn đề đặt ra là nguồn tài
chính nào sẽ được cân đối để trả các khoản vay nợ đến hạn?
Đầu tư công đối với các công trình không có khả năng thu hồi vốn sẽ
không tạo ra lợi ích cho NSNN một cách trực tiếp, nhưng kết quả đầu tư công
lại đóng vai trò tích cực kích thích phát triển kinh tế, tăng thu nhập quốc dân,
tạo ra lợi ích cho NNT. Sự tăng lên về giá trị tài sản của NNT sẽ có tác động

9


tích cực trong tạo nguồn thu cho NSNN, đồng thời các khoản thu từ thuế trở
thành nguồn tài chính để trả nợ cho các khoản vay của Nhà nước.
Tuy nhiên, Theo Tổng cục Thống kê, ước tính năm 2013, số DN gặp
khó khăn phải giải thể hoặc ngừng hoạt động là 60.737 DN, tăng 11,9% so
với năm 2012 [61]. DN ngừng nộp thuế và tình trạng thất nghiệp đáng báo
động đang làm xói mòn lòng tin về vai trò của Nhà nước trong điều tiết vĩ mô
nền kinh tế. Điều đương nhiên, Nhà nước khó có thể kỳ vọng nhiều về các
khoản thuế trực thu và gián thu nộp vào NSNN từ DN. Để khắc phục tình
trạng này, Nhà nước cần ban hành kịp thời các chính sách kinh tế, tài chính có
hiệu quả để giúp cho DN có thể tồn tại và phát triển.
1.2. Bản chất và phân loại quyền của người nộp thuế
1.2.1. Bản chất quyền của NNT trong quan hệ pháp luật thuế
Quan niệm về quyền của người nộp thuế
Trong quan hệ pháp luật nói chung thì quyền của chủ thể tham gia quan
hệ pháp luật là cách xử sự mà pháp luật trao cho chủ thể được quyền lựa chọn
thực hiện. Nói cách khác, quyền của chủ thể là khả năng của chủ thể xử sự
theo cách thức nhất định được pháp luật cho phép [62].
NNT là một chủ thể trong quan hệ pháp luật thuế, do vậy quyền của
NNT chính là khả năng của NNT được phép xử sự một cách nhất định mà
pháp luật thuế ghi nhận.

Đặc trưng quyền của NNT
Quyền của NNT mang những đặc điểm chung của quyền chủ thể trong
quan hệ pháp luật, đó là:
Một là, khả năng xử sự theo cách thức nhất định mà pháp luật cho phép.
Hai là, khả năng yêu cầu các chủ thể khác chấm dứt hoạt động cản trở
việc thực hiện quyền nghĩa vụ của mình và yêu cầu họ tôn trọng các nghĩa vụ
tương ứng phát sinh từ quyền và nghĩa vụ này.

10


Ba là, khả năng yêu cầu các cơ quan nhà nước có thầm quyền bảo vệ
lợi ích của mình khi các lợi ích đó bị người khác xâm hại.
Tuy nhiên, quyền của NNT trong quan hệ pháp luật thuế cũng có những
đặc trưng riêng, đó là:
Thứ nhất, quyền của NNT chỉ phát sinh khi tham gia quan hệ pháp luật
thuế, tức là khi tham gia vào quan hệ pháp luật thuế, NNT mới có những
quyền mà pháp luật thuế trao cho. Tổ chức, cá nhân là NNT nhưng khi họ
không tham gia vào quan hệ pháp luật thuế thì họ không có những quyền mà
pháp luật thuế quy định.
Thứ hai, quyền của NNT thường gắn với nghĩa vụ thực thi của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền mà ở đây là cơ quan thu và quản lý thuế. Do trong
quan hệ pháp luật thuế có hai chủ thể cơ bản là người nộp thuế và cơ quan
thu, quản lý thuế nên quyền của chủ thể này sẽ tương ứng với nghĩa vụ của
chủ thể kia và ngược lại;
Thứ ba, quyền của NNT phát sinh trên cơ sở triết lý quyền sở hữu tài
sản. Nói cách khác, khi nhà nước đòi hỏi tổ chức, cá nhân – với tư cách là chủ
tài sản phải nộp thuế cho mình thì chính Nhà nước phải tôn trọng các quyền
năng cơ bản chủ sở hữu tài sản, đó là quyền được định đoạt đối với số tiền
thuế mà mình sẽ nộp cho Nhà nước (thông qua người đại diện cho mình là

Quốc hội), quyền được tự vệ khi Nhà nước xâm phạm các quyền và lợi ích
chính đáng của mình ngoài số thuế và số tiền phạt phải nộp. Bởi lẽ, quyền sở
hữu được xem là quyền tối cao và thiêng liêng để thực hiện quyền con người,
cho nên, khi nhà nước điều tiết cũng phải tôn trọng quyền sở hữu của NNT.
1.2.2. Phân loại quyền của người nộp thuế
Có nhiều cách phân loại quyền của NNT, dựa vào các tiêu chí và cách
tiếp cận nghiên cứu khác nhau mà ta có thể phân chia ra thành các loại quyền
khác nhau:

11


1.2.2.1. Căn cứ vào việc thụ hưởng quyền
Dựa vào việc thụ hưởng quyền, ta có thể phân biệt thành hai nhóm
quyền trực tiếp và quyền gián tiếp:
Quyền trực tiếp - phát sinh khi tham gia vào quan hệ pháp luật thuế
Quyền trực tiếp là quyền mà NNT có được trong quá trình thực hiện
nghĩa vụ thuế. Chúng được thừa nhận và bảo vệ theo những quy định của pháp
luật. Tuy vậy, không thể xem việc hưởng quyền của NNT trong trường hợp này
là đương nhiên, là ngang bằng về mặt lợi ích. Đây là những quyền mà Nhà
nước cho NNT hưởng trên cơ sở điều chỉnh quan hệ pháp luật thuế cũng như
đảm bảo hiệu quả của quá trình hành thu thuế, bảo đảm vai trò của thuế như là
một công cụ điều tiết nền kinh tế, tạo sự công bằng trong xã hội. Nhà nước cho
phép NNT được bảo vệ những quyền lợi chính đáng của mình, trong những
trường hợp như: nộp thuế thừa so với yêu cầu của Nhà nước, lâm vào hoàn
cảnh không thể tạo ra những lợi ích vật chất tương ứng để nộp thuế, bị cơ quan
quản lý Nhà nước áp dụng pháp luật thuế không đúng gây thiệt hại...
Mặc dù là quyền trực tiếp, nhưng những quyền này chỉ có thể là quyền
phái sinh. Nói cách khác, đây là quyền tương đối. Điều đó có nghĩa là, NNT
muốn thụ hưởng những quyền này thì phải thực hiện một hoặc một số nghĩa

vụ thuế và có thể phải tiến hành các thủ tục cần thiết để đề nghị cơ quan nhà
nước có thẩm quyền xem xét quyết định. Trong một số trường hợp mặc dù
NNT thoả mãn đầy đủ các điều kiện luật định để hưởng quyền, nhưng điều đó
không có nghĩa là họ mặc nhiên được hưởng. Điều này phụ thuộc vào sự đánh
giá, chấp thuận từ phía cơ quan quản lý nhà nước. Thực thi những quyền này
đòi hỏi cơ quan có thẩm quyền phải xem xét chúng trong mối tương quan với
việc đảm bảo của những chủ thể khác. Vấn đề là mức độ thực hiện nó ra sao
để đảm bảo thực thi các quyền này, đồng thời không gây nên những tác động
ngược chiều với những quyền khác. Thực thi các quyền tự nhiên chỉ bị giới

12


hạn trong việc bảo đảm cho các thành viên khác trong xã hội được hưởng các
quyền đó, và các giới hạn này chỉ do pháp luật quy định. Pháp luật thuế vì thế
cần ghi nhận và đặt ra giới hạn với cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm
đảm bảo thực thi quyền của NNT [19].
Quyền gián tiếp - được hưởng các tiện ích do Nhà nước cung cấp
Về nguyên tắc, Thuế là khoản thu hoa lợi cho NSNN và không có tính
hoàn trả. NNT không được bồi hoàn ngang giá khi thực hiện nghĩa vụ nộp
thuế, họ chỉ được hưởng lợi gián tiếp từ sử dụng các dịch vụ công, tiện ích
của công trình công cộng v.v…
Bộ máy nhà nước hoạt động để duy trì một xã hội có tổ chức, theo đó
mọi chủ thể trong xã hội được bảo đảm duy trì đời sống vật chất và tinh thần
theo những đòi hỏi khách quan, nhưng không phá vỡ sự tồn tại của các chủ
thể khác. Nhà nước là người tổ chức điều hành xã hội, cung ứng các tiện ích
công cộng, ban hành các thể chế pháp lý, tạo hành lang pháp lý duy trì sự tồn
tại bình đẳng của các chủ thể cùng sống trong Nhà nước mình. Các chủ thể
trong xã hội hưởng những lợi ích này do Nhà nước cung ứng, nên phải thực
hiện nghĩa vụ thanh toán cho Nhà nước một khoản giá trị nhất định.

NNT thường là chủ thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh hay tiến
hành các hoạt động khác để kiếm tìm giá trị mới như xuất nhập khẩu, hoặc thụ
hưởng lợi ích vật chất từ quá trình sáng tạo, lao động hay do nắm giữ những
quyền về tài sản nhất định. Họ tác động vào đối tượng chịu thuế của một sắc
thuế, chịu sự điều chỉnh của sắc thuế đó và phải thực hiện nghĩa vụ cụ thể trong
tổng thể nghĩa vụ thuế là đăng ký, kê khai, nộp và quyết toán thuế. Như vậy,
NNT có quyền được hưởng các tiện ích và phúc lợi công cộng do Nhà nước
cung cấp. Những lợi ích vật chất hay tinh thần mà Nhà nước cung cấp là những
giá trị đặc biệt mà không chủ thể nào trong xã hội có khả năng thực hiện như:
xây dựng các công trình công cộng (nhà hát, nhà ga, nhà thi đấu thể thao, sân

13


vận động, thư viện, bảo tàng…); tạo nên các công trình thuộc kết cấu hạ tầng
của xã hội (đường xá, cầu cống, bến cảng, sân bay, cấp thoát nước, hè đường,
chiếu sáng…); cung ứng phúc lợi xã hội (xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc
làm, phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội, ưu đãi người có công với nước, trợ
giúp xã hội cho các đối tượng bảo trợ xã hội, tạo điều kiện để người dân được
hưởng thụ nhiều hơn về văn hoá, y tế và giáo dục…); ban hành pháp luật;
thành lập các cơ quan quản lý, cơ quan tư pháp, bộ máy trấn áp...
Ta có thể gọi đây là quyền gián tiếp vì nó không trực tiếp phát sinh từ
nội hàm của quan hệ pháp luật thuế thuần tuý. Nó thể hiện sự quay trở lại của
thuế đối với đời sống xã hội. Các giá trị được phân bổ trở lại cho các chủ thể,
không chỉ dành riêng cho NNT, mà được phân bổ chung trong cộng đồng phù
hợp với chức năng nhiệm vụ của Nhà nước và thực tiễn kinh tế - xã hội trong
từng thời kỳ. Cũng vì vậy mà thuế được xem là khoản thu không mang tính
đối giá và hoàn trả trực tiếp. Bởi lẽ, không phải chủ thể nào trong xã hội cũng
phải nộp thuế dù cho họ có thể là NNT. Họ chỉ phải nộp thuế khi quan hệ xã
hội mà họ tham gia chịu sự điều chỉnh của sắc thuế và quan hệ ấy mang giá

trị. Mặt khác, việc NNT thụ hưởng các tiện ích Nhà nước cung cấp mang tính
trừu tượng vì không xác định cụ thể được hưởng bao nhiêu và hưởng như thế
nào, trong khi một chủ thể khác dù không nộp thuế cho Nhà nước nhưng vẫn
có thể thụ hưởng tương tự.
Nhận thức về nhóm quyền này của NNT có ý nghĩa trong việc phát huy
hiệu quả công cụ thuế. Dù không được xác định cụ thể, nhưng việc ghi nhận
các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước cũng như việc điều hành Ngân sách
nhà nước hàng năm là cách thể hiện việc đảm bảo quyền gián tiếp của NNT.
1.2.2.2. Căn cứ vào các giai đoạn của quá trình nộp thuế
Dựa vào các giai đoạn của quá trình nộp thuế, ta có thể chia thành
quyền trước khi thực hiện quan hệ nộp thuế, quyền trong quá trình nộp thuế,
quyền khi có sự thay đổi điều kiện nộp thuế.

14


- Giai đoạn trước khi thực hiện quan hệ pháp luật thuế thì NNT có
những quyền sau:
+ Quyền được hỗ trợ, hướng dẫn thực hiện việc nộp thuế; cung cấp
thông tin, tài liệu để thực hiện nghĩa vụ, quyền lợi về thuế;
+ Quyền yêu cầu cơ quan quản lý thuế giải thích về việc tính thuế, ấn
định thuế; yêu cầu cơ quan hải quan xác định trước mã số, trị giá hải quan,
xác nhận trước xuất xứ hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu trước khi làm thủ tục
hải quan theo quy định của Chính phủ; yêu cầu cơ quan, tổ chức giám định số
lượng, chất lượng, chủng loại hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
+ Quyền ký hợp đồng với tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế.
- Giai đoạn trong quá trình nộp thuế NNT có những quyền sau:
+ Quyền được giữ bí mật thông tin theo quy định của pháp luật
+ Quyền được hưởng các ưu đãi về thuế, hoàn thuế theo quy định của
pháp luật về thuế;

+ Quyền nhận văn bản kết luận kiểm tra thuế, thanh tra thuế của cơ
quan quản lý thuế; yêu cầu giải thích nội dung kết luận kiểm tra thuế, thanh
tra thuế; bảo lưu ý kiến trong biên bản kiểm tra thuế, thanh tra thuế.
+ Quyền yêu cầu cơ quan quản lý thuế xác nhận việc thực hiện nghĩa
vụ nộp thuế của mình.
+ Quyền được bồi thường thiệt hại do cơ quan quản lý thuế, công chức
quản lý thuế gây ra theo quy định của pháp luật.
+ Quyền khiếu nại, khởi kiện quyết định hành chính, hành vi hành
chính liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
+ Quyền tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật của công chức quản lý
thuế và tổ chức, cá nhân khác.
- Còn khi có sự thay đổi điều kiện nộp thuế thì NNT có quyền tạm hoãn
hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật thuế với Nhà nước, cụ thể:

15


NNT có quyền tạm hoãn hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật thuế với Nhà
nước khi có sự thay đổi điều kiện nộp thuế. Cụ thể là, NNT có quyền lập và
gửi hồ sơ gia hạn nộp thuế cho cơ quan quản lý thuế quản lý trực tiếp nếu
thuộc một trong các trường hợp được quy định tại Điều 31 Nghị định số
83/2013/NĐ - CP:
(1) Bị thiệt hại vật chất, gây ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất,
kinh doanh do gặp thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ - trong đó,
thiệt hại vật chất là những tổn thất về tài sản của NNT, tính được
bằng tiền như: máy móc, thiết bị, phương tiện, vật tư, hàng hóa, nhà
xưởng, trụ sở làm việc, tiền, các giấy tờ có giá trị như tiền. (2) Phải
ngừng hoạt động do di dời cơ sở sản xuất, kinh doanh theo yêu cầu
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm ảnh hưởng đến kết quả sản
xuất, kinh doanh. (3) Chưa được thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ

bản đã được ghi trong dự toán ngân sách nhà nước. (4) Không có khả
năng nộp thuế đúng hạn trong trường hợp nguyên liệu, vật tư nhập
khẩu để sản xuất hàng hóa xuất khẩu có chu kỳ sản xuất, dự trữ dài
hơn 275 ngày; và các trường hợp gặp khó khăn đặc biệt [18].
NNT có quyền chấm dứt quan hệ pháp luật thuế với Nhà nước khi
thuộc trường hợp được xóa nợ tiền thuế, tiền phạt được quy định tại Điều 65
Luật QLT. Bao gồm: DN bị tuyên bố phá sản đã thực hiện các khoản thanh
toán theo quy định của pháp luật phá sản mà không còn tài sản để nộp tiền
thuế, tiền phạt; Cá nhân được pháp luật coi là đã chết, mất tích, mất năng lực
hành vi dân sự mà không có tài sản để nộp tiền thuế, tiền phạt còn nợ; Các
khoản nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt của NNT không thuộc hai trường
hợp trên, đáp ứng đủ hai điều kiện:
(1) Cơ quan QLT đã áp dụng tất cả các biện pháp cưỡng chế
thi hành quyết định hành chính thuế theo quy định nhưng không thu

16


đủ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt; (2) Khoản nợ tiền thuế, tiền
chậm nộp, tiền phạt đã quá mười năm, kể từ ngày hết thời hạn nộp
thuế, nhưng không có khả năng thu hồi [38].
Ngoài ra, khi căn cứ vào luật áp dụng, quyền của NNT có thể chia
thành: quyền theo luật nội dung và quyền theo luật thủ tục. Trong đó, quyền
theo luật nội dung là quyền mang tính vật chất được quy định trong các Luật
thuế cụ thể, còn quyền theo luật thủ tục được quy định tại Điều 6 Luật QLT.
1.3. Bảo vệ quyền của người nộp thuế
1.3.1 Sự cần thiết phải bảo vệ quyền của người nộp thuế
Quyền của NNT ít được quy định trong các văn bản pháp luật riêng.
Khi Luật QLT ra đời, quyền của NNT mới được quy định chung tại Điều 6
của Luật, nhưng nó mới chỉ là những quy định mang tính chất chung nhất cho

quá trình tham gia vào quan hệ pháp luật thuế của NNT.
Mặc dù như vậy, nhưng một khi đã được ghi nhận, thì quyền cuả NNT
phải được thực thi trên thực tế chứ không thể chỉ là những quy định mang tính
hình thức. Chính vì vậy, vấn đề bảo vệ quyền của NNT được đặt ra để bảo vệ
quyền của NNT khi những quyền này bị xâm phạm bởi cơ quan quản lý thuế.
Việc ghi nhận quyền của NNT đồng thời có những biện pháp cụ thể bảo vệ
quyền của NNT sẽ khuyến khích NNT thực hiện tốt, thực hiện đầy đủ các
nghĩa vụ của mình và cũng là cơ sở giúp NNT có thể giải quyết các tranh
chấp về quyền của NNT khi có phát sinh tranh chấp với cơ quan quản lý thuế
trong quan hệ pháp luật thuế.
1.3.2. Nội dung bảo vệ quyền của người nộp thuế
1.3.2.1 Bảo vệ quyền được tiếp cận thông tin
Đối với NNT, quyền được thông tin không chỉ liên quan đến thực hiện
nghĩa vụ nộp thuế mà còn liên quan đến quyền của NNT. Tuy rằng NNT
không được hưởng lợi ích trực tiếp từ việc nộp thuế nhưng họ có quyền biết

17


tiền thuế của họ được sử dụng ra sao. Tình trạng phát hành trái phiếu chính
phủ đầu tư vào cơ sở hạ tầng, hỗ trợ cho DN chưa có hiệu quả, gây thất thoát
lãng phí, người dân không phải không biết mà có biết cũng chẳng thể làm
được gì. Hơn ai hết những người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước
là những người phải hiểu rõ cần phục vụ nhân dân như thế nào, cụ thể là
Chính phủ cần phải tiếp thu ý kiến của nhân dân và cộng đồng DN để đề xuất
ban hành chính sách và pháp luật có hiệu quả và đảm bảo công bằng. Bên
cạnh đó, cơ quan lập pháp căn cứ vào yêu cầu quản lý nhà nước và xã hội
pháp điển hóa Luật tiếp cận thông tin để bảo đảm cho NNT có quyền yêu cầu
Nhà nước sử dụng tiền thuế phục vụ trở lại cho NNT, góp phần phát triển kinh
tế và bảo vệ lợi ích của cộng đồng nói chung.

Ngoài ra, việc triển khai thực hiện chính sách miễn giảm thuế liệu có
thiết thực cho NNT hay không cũng là vấn đề cần bàn. Luật thuế nước ta theo
mô hình Luật khung là một cản trở lớn cho NNT trong tiếp cận các thông tin
chi tiết về quyền và nghĩa vụ nộp thuế. Với những quy định mang tính chất
chuyên ngành, chỉ những người có chuyên môn mới có thể dễ dàng hiểu và
vận dụng những điều khoản có lợi cho mình, còn những người khác thì sao?
Tiền lệ giải thích áp dụng pháp luật thuế bằng công văn của Tổng Cục thuế
cho thấy sự bất cập trong quy định pháp luật cũng như tuyên truyền phổ biến
kiến thức về pháp luật thuế. Quyền thu thuế thuộc về Nhà nước, nhưng để
thực hiện quyền này, Nhà nước cần phải tạo điều kiện thuận lợi trong tiếp cận
thông tin tính thuế, giúp cho DN, cá nhân chủ động tính thuế và nộp thuế,
tránh sự lạm dụng của cán bộ thuế gây thất thoát cho NSNN và làm cho NNT
có hành vi thông đồng để trốn thuế [31].
1.3.2.2 Bảo vệ lợi ích vật chất cho NNT
Khoản 1 Điều 15 Hiến pháp 2013 quy định quyền của công dân không
tách rời nghĩa vụ của công dân. Nhà nước bảo đảm các quyền của công dân,

18


công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội. Nghĩa
vụ đóng thuế được quy định trong Điều 47 Hiến pháp 2013, trong khi không
có điều khoản nào của Hiến pháp quy định có liên quan đến quyền của NNT.
Trên thực tế, các Luật thuế và Luật QLT đều thể hiện tinh thần “Thuế là
nguồn thu chủ yếu của NSNN”, ngoài các quyền lợi phát sinh liên quan đến
miễn giảm thuế theo chính sách khuyến khích thành lập DN, miễn giảm thuế
cho đối tượng yếu thế và hoàn thuế theo quy định thì lợi ích của NNT từ việc
sử dụng tiền thuế do mình đóng góp dường như chưa được quy định. Về
nguyên tắc, thuế là khoản thu hoa lợi của NSNN và không có tính hoàn trả,
nên có thể thấy rằng, xét trong quan hệ pháp luật thuế, NNT chỉ có nghĩa vụ

mà không có quyền lợi vật chất [62].
Tuy nhiên, khi nghiên cứu về thủ tục thu nộp thuế cũng như pháp luật
về NSNN có thể thấy NNT có thể hưởng được quyền lợi nhất định. Cụ thể là
từ quy định gia hạn nộp thuế tại Điều 49 Luật QLT và Khoản 14 Điều 1 Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật QLT đã bổ sung gia hạn thuế trong
trường hợp “Phải ngừng hoạt động do di dời cơ sở sản xuất, kinh doanh theo
yêu cầu của cơ quan nhàn ước có thẩm quyền làm ảnh hưởng đến kết quả sản
xuất kinh doanh”[50] và “chưa được thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản
đã được ghi trong dự toán NSNN” [50].
Ngoài các trường hợp gia hạn ở trên, cần xem xét quy định gia hạn thuế
với tư cách là một biện pháp khuyến khích đối với các DN một cách thường
xuyên hơn, không chỉ đối với các DN yếu thế (DN vừa và nhỏ) mà đối với
các DN nói chung khi bị ảnh hưởng bởi các chính sách của Nhà nước. Cụ thể
là, cần Luật hóa điều kiện áp dụng trường hợp: “Do chính sách của Nhà nước
thay đổi làm ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả sản xuất, kinh doanh của NNT”.
Bởi trên thực tế, có những sự thay đổi chính sách của Nhà nước gây rất nhiều
khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN. Chẳng hạn như trong

19


×