Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Quyền của người bị tạm giam trước khi xét xử - Một số vấn đề lí luận và thực tiễn: Luận văn ThS. Luật: 60 38 01 04

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (915.67 KB, 111 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TIÊU PHƯƠNG THÚY

QUYÒN CñA NG¦êI BÞ T¹M GIAM TR¦íC KHI XÐT Xö MéT Sè VÊN §Ò LÝ LUËN Vµ THùC TIÔN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TIÊU PHƯƠNG THÚY

QUYÒN CñA NG¦êI BÞ T¹M GIAM TR¦íC KHI XÐT Xö MéT Sè VÊN §Ò LÝ LUËN Vµ THùC TIÔN
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng


tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có
thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Tiêu Phương Thúy


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ
TẠM GIAM TRƯỚC KHI XÉT XỬ ................................................... 8
1.1.

Khái niệm về quyền của người bị tạm giam trước khi xét xử ............. 8

1.1.1.


Khái niệm người bị tạm giam và quyền của người bị tạm giam ............... 8

1.1.2.

Đặc điểm Quyền của người bị tạm giam ................................................ 12

1.1.3.

Vai trò và tầm quan trọng của việc bảo đảm quyền của người bị tạm
giam trước khi xét xử ............................................................................ 16

1.2.

Các tiêu chí Quốc tế về quyền của người bị tạm giam trước khi
xét xử .................................................................................................... 19

1.2.1.

Quyền sống ........................................................................................... 22

1.2.2.

Quyền bất khả xâm phạm về thân thể, danh dự, nhân phẩm ................... 24

1.2.3.

Quyền được bảo vệ không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo,
vô nhân đạo hoặc hạ nhục ...................................................................... 25

1.2.4.


Quyền được bảo vệ để khỏi bị bắt, giam giữ tùy tiện ............................. 27

1.2.5.

Quyền được hưởng tố tụng riêng cho người chưa thành niên ................. 30

1.3.

Quyền của người bị tạm giam trước khi xét xử trong luật một số
quốc gia ................................................................................................ 31

1.3.1.

Trung Quốc ........................................................................................... 31

1.3.2.

Liên bang Nga ....................................................................................... 35

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ...................................................................................... 39


Chương 2: QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIAM TRƯỚC KHI XÉT XỬ
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ 1945
ĐẾN NAY VÀ THỰC TIỄN VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA
NGƯỜI BỊ TẠM GIAM TRƯỚC KHI XÉT XỬ .............................. 40
2.1.

Quyền của người bị tạm giam trước khi xét xử từ 1945 đến 1988 .... 40


2.2.

Quyền của người bị tạm giam trước khi xét xử theo Bộ luật Tố
tụng hình sự 1988 ................................................................................ 42

2.3.

Quyền của người bị tạm giam trước khi xét xử trong pháp luật
TTHS Việt Nam 2003 .......................................................................... 44

2.3.1.

Quyền được bảo vệ tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công
dân ........................................................................................................ 44

2.3.2.

Quyền được bình đẳng trước pháp luật .................................................. 46

2.3.3.

Quyền được bảo đảm bất khả xâm phạm về thân thể của công dân ........ 46

2.3.4.

Quyền không bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội đã có hiệu
lực pháp luật của Tòa án ........................................................................ 47

2.3.5.


Quyền được bào chữa ............................................................................ 47

2.3.6.

Quyền bình đẳng trước Tòa án .............................................................. 52

2.3.7.

Quyền được hưởng tố tụng riêng đối với người chưa thành niên............ 52

2.4.

Thực tiễn việc bảo đảm quyền của người bị tạm giam trước khi
xét xử .................................................................................................... 56

2.4.1.

Kết quả đạt được trong việc bảo đảm quyền của người bị tạm giam
trước khi xét xử ..................................................................................... 56

2.4.2.

Một số bất cập, hạn chế trong việc bảo đảm quyền của người bị tạm
giam trước khi xét xử ............................................................................ 60

2.4.3.

Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế trong việc bảo đảm quyền
của người bị tạm giam trước khi xét xử ................................................. 66


KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ...................................................................................... 74
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ MỘT
SỐ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO ĐẢM THỰC
THI QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIAM TRƯỚC KHI
XÉT XỬ ......................................................................................... 75


3.1.

Sự cần thiết và yêu cầu bảo đảm quyền của người bị tạm giam
trước khi xét xử ................................................................................... 75

3.1.1.

Bảo đảm quyền của người bị tạm giam là bảo đảm giá trị tự nhiên
của con người ........................................................................................ 75

3.1.2.

Bảo đảm quyền của người bị tạm giam là yêu cầu của nhà nước pháp quyền ... 76

3.1.3.

Bảo đảm quyền của người bị tạm giam góp phần làm hài hòa pháp
luật quốc gia và pháp luật quốc tế .......................................................... 78

3.2.

Hoàn thiện quy định pháp luật Tố tụng Hình sự về quyền của

người bị tạm giam trước khi xét xử đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp và thực thi Hiến pháp 2013 ........................................................ 79

3.2.2.

Đối với các nguyên tắc, tiêu chuẩn quốc tế về người bị tạm giam .......... 79

3.2.3.

Đối với hệ thống pháp luật trong nước................................................... 80

3.3.

Một số kiến nghị khác ......................................................................... 92

3.3.1.

Nâng cao nhận thức của cán bộ thực thi pháp luật ................................. 92

3.3.2.

Nâng cao nhận thức của người bị tạm giam và cộng đồng ..................... 93

3.3.3.

Tăng cường hướng dẫn áp dụng Bộ luật tố tụng hình sự ........................ 93

3.3.4.

Nghiên cứu khả năng thành lập cơ quan nhân quyền quốc gia ............... 94


3.3.5.

Hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật của các
cơ quan và cán bộ tiến hành tố tụng, đặc biệt trong các hoạt động
điều tra và giam giữ ............................................................................... 95

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ...................................................................................... 97
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 100


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ACHPR:

Hiến chương châu Phi về quyền con người và quyền các dân tộc, 1981
(African Charter on Human and Peoples’ Rights)

ACHR:

Công ước châu Mỹ về quyền con người, 1969 (American convention on
Human rights)

BLDS:

Bộ luật dân sự

BLHS:

Bộ luật hình sự


BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
CAT:

Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt và đối xử tàn bạo,
vô nhân đạo hay hạ nhục khác, 1984 (Convention against Torture and
Other Cruel, Inhuman or Degrading Treatment or Punishment)

CEDAW: Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt dối xử với phụ nữ,
1979 (Convention on the Elimination of All Forms of Discrimination
against Women)
CHND:

Cộng hòa nhân dân

CRC:

Công ước quốc tế về quyền trẻ em 1989 (Convention on the Rights of
the Child)

ICCPR:

Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, 1966 (International
Covenant on Civil and Political Rights)

ICESCR:

Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, 1966 (International
Covenant on Economic, Social and Cultural Rights)


NHRIs:

Cơ quan nhân quyền quốc gia (National human right institution)

TAND:

Tòa án nhân dân

THAHS:

Thi hành án hình sự

TTHS:

Tố tụng hình sự

UDHR:

Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền, 1948 (Universal Declaration of
Human Rights)

UNCHR:

Ủy ban quyền con người Liên hợp quốc (The United Nations
Commission on Human Rights)

UPR:

Cơ chế Đánh giá Định kỳ toàn thể (Universal Periodic Review)


VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang

Bảng 1.1: Các quyền tiêu biểu của người bị tạm giam theo các tiêu
chuẩn quốc tế về nhân quyền

20

Bảng 2.1: So sánh quyền bào chữa trong các vụ án hình sự giữa
chuẩn mực quốc tế với pháp luật và thực tiện tại Việt
Nam

49

Bảng 2.2: So sánh các quy định về quyền của người bị tạm giam
trong pháp luật Việt Nam với các tiêu chuẩn quốc tế có
liên quan

54


Bảng 2.3: Tình hình điều tra, truy tố, xét xử tội phạm trên phạm vi
toàn quốc từ năm 2009 đến năm 2013

57

Bảng 2.4: Số lệnh Viện kiểm sát hủy bỏ biện pháp tạm giam từ năm
2009 đến năm 2013

58

Bảng 2.5: Tỷ lệ bị can bị áp dụng biện pháp tạm giam so với số bị
can đã khởi tố từ năm 2009-2013

61

Bảng 2.6: Số trường hợp quá hạn tạm giam trên phạm vi cả nước từ
2009 đến 2013

62

Bảng 2.7: Thống kê số liệu số bị cáo và số vụ án phạm tội trốn khỏi
nơi giam giữ trong 5 năm từ 2009 đến 2013

63

Bảng 2.8: Số bị can chết trong trại tạm giam từ năm 2009 – 2013

64

Bảng 2.9: Vòng xoay của thời hạn tạm giam


68


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là giá trị mang tính phổ biến chung của nhân loại, là kết
quả của quá trình đấu tranh, phát triển lâu dài của tất cả các dân tộc, nhân dân trên
toàn thế giới. Quyền con người được đặt trong mối quan hệ với nghĩa vụ, trách
nhiệm của mỗi cá nhân đối với xã hội và được giải quyết trên cơ sở đảm bảo lợi ích
xã hội. Bảo đảm quyền con người là bảo đảm dân chủ, bảo đảm hiệu quả, hiệu
lực nhà nước cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Được thúc đẩy từ
năm 1945 kể từ khi thành lập Liên Hợp Quốc, quyền con người thu hút sự quan tâm
rộng rãi của dư luận và có sự tác động mạnh mẽ tới các quan hệ chính trị, pháp lý,
xã hội ở tất cả các cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế. Nó không chỉ là nhận thức,
là quan điểm mà hữu hình bằng các quy phạm pháp lý được các quốc gia thừa nhận
chung, phản ánh quy luật và hướng tất yếu của xã hội loài người cũng như sự hình
thành các cơ chế bảo đảm để quyền con người được thực thi trên thực tế.
Tại Việt Nam, việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người là mục tiêu nhất
quán của Đảng và Nhà nước ta từ trước đến nay. Trong giai đoạn xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cải cách tư pháp hiện nay, việc bảo vệ quyền
con người bằng pháp luật TTHS có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020” đã khẳng định “Đòi hỏi của công dân và xã hội đối với cơ quan tư pháp ngày
càng cao, các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo
vệ công lý, quyền con người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật
và pháp chế xã hội chủ nghĩa” [2]. Trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
XI của Đảng cũng đã chỉ rõ quan điểm đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, trong đó đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn
trọng và bảo vệ quyền con người là một nhiệm vụ cấp thiết.

Quyền của người bị tạm giam trước khi xét xử là vấn đề nhạy cảm và dễ bị
lạm dụng, vi phạm, ít được chú ý và quan tâm dù có ý nghĩa rất quan trọng trong
việc bảo vệ quyền con người. Việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam là biện pháp

1


thường được áp dụng trong đấu tranh chống tội phạm. Câu hỏi đặt ra là những quy
định của pháp luật về quyền của người bị tạm giam trước khi xét xử đã thực sự rõ
ràng nhằm đảm bảo quyền của họ hay chưa, việc bảo đảm quyền của những người
bị tạm giam trước khi xét xử được thực hiện ra sao, yếu tố nào ảnh hưởng đến thực
trạng pháp luật và thực tế thực thi quyền của người bị tạm giam trước khi xét xử. Từ
đó, luật cần phải bổ sung và hoàn thiện những gì để tối đa hóa việc thực hiện quyền
và đảm bảo quyền cho người bị tạm giam trước khi xét xử.
Do đó, để góp một phần bảo đảm hơn nữa về quyền con người nói chung,
quyền của người bị tạm giam trước khi xét xử nói riêng, tác giả chọn đề tài: “Quyền
của người bị tạm giam trước khi xét xử – Một số vấn đề lí luận và thực tiễn” làm
đề tài luận văn. Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá toàn diện các quy định, văn kiện
quốc tế về bảo vệ quyền của người bị tạm giam trước khi xét xử cũng như việc nội
luật hóa và áp dụng chúng vào thực tiễn Việt Nam, tác giả đưa ra một số phương
hướng đề hoàn thiện pháp luật về quyền của người bị tạm giam trước khi xét xử và
giải pháp để thực thi một cách hiệu quả các quyền này trong thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong khoa học pháp lý Việt Nam và quốc tế, vấn đề bảo đảm quyền con
người nói chung, quyền con người trong hoạt động tư pháp cũng như quyền con
người trong TTHS đã được nhiều tác giả nghiên cứu từ các góc độ và với các mức
độ khác nhau.
 Từ góc độ nghiên cứu về Quyền con người nói chung trong Nhà nước pháp
quyền có các công trình sau: GS.TSKH Lê Cảm với bài viết về “Bảo vệ các quyền
con người bằng pháp luật tố tụng Hình sự Việt Nam: những vấn đề lý luận cơ bản”

(Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 7 năm 2010); GS.TS Trần Ngọc Đường với bài
viết về “Bàn về thực trạng và nhu cầu pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước và
pháp luật về quyền con người theo Nghị quyết 48 của Bộ chính trị” (Tạp chí Nghiên
cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội số 14 năm 2010 ); TS.Tường Duy Kiên với sách
chuyên khảo về “Quốc hội Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người” (Nhà xuất
bản Tư pháp năm 2006); Trong các công trình này, các tác giả đã nghiên cứu khái
niệm và các đặc điểm Nhà nước pháp quyền nói chung, Nhà nước pháp quyền xã

2


hội chủ nghĩa nói riêng; nghiên cứu về mối quan hệ giữa quyền con người và quyền
công dân; nghiên cứu vấn đề bảo đảm quyền con người từ góc độ triết học, xã hội
học hoặc lí luận chung về Nhà nước và pháp luật. Tuy có cách nhìn không hoàn
toàn giống nhau và nghiên cứu ở các mức độ khác nhau nhưng các tác giả đều đưa
ra các cơ chế bảo đảm quyền con người trong Nhà nước pháp quyền.
 Từ góc độ pháp luật chuyên ngành, nhiều công trình về bảo vệ quyền con
người trong lĩnh vực tư pháp và tư pháp hình sự được công bố, cụ thể: Trung tâm
nghiên cứu quyền con người – quyền công dân và trung tâm nghiên cứu tội phạm
học và tư pháp hình sự trực thuộc Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội với sách
chuyên khảo“Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự” (Nhà xuât
bản Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2011); TS Võ Thị Kim Oanh chủ biên sách
chuyên khảo “Bảo đảm quyền con người trong tư pháp hình sự Việt Nam”(Nhà
xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh năm 2010); PGS.TS Nguyễn
Thái Phúc với báo cáo về “Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự trong
điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (Hội thảo về
Quyền con người trong tố tụng hình sự do VKSNDTC và Ủy ban nhân quyền
Australia tổ chức năm 2010); TS. Nguyễn Ngọc Chí với bài viết“Bảo vệ quyền con
người bằng pháp luật tố tụng Hình sự”(tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội
số 23 năm 2007); TS Nguyễn Tiến Đạt với bài viết “Bảo đảm quyền con người

trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam” (Tạp chí Khoa học pháp lý, Đại học Luật thành
phố Hồ Chí Minh năm 2006; TS Trần Quang Tiệp với bài viết “Bảo vệ các quyền
cơ bản của con người bằng pháp luật thi hành án Hình sự trong giai đoạn xây dựng
Nhà nước pháp quyền” (Tạp chí Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao số 6 năm
2002)… Trong các công trình bày, các tác giả nghiên cứu việc bảo vệ quyền con
người trong hoạt động tư pháp nói chung, bao gồm cả hình sự, dân sự. Do phạm vi
rộng nên các tác giả chỉ nghiên cứu sơ lược các nội dung mà chưa đi sâu nghiên cứu
toàn diện hệ thông TTHS đối với những đối tượng khác nhau. Quyền của bị can, bị
cáo, người bị tạm giam trước khi xét xử được nghiên cứu tương đối sơ lược.
 Trên thế giới cũng có một số tác giả nghiên cứu về quyền con người và việc

3


bắt giữ, tạm giam trước khi xét xử. Có thể kể đến các công trình sau: Human rights:
Judicial system (Bảo đảm quyền con người trong hệ thống tư pháp của Saudi
Arabia); Principle of Criminal procedure (Bảo đảm quyền con người trong các
nguyên tắc tố tụng hình sự của Neil Andrew); “Human rights in the English Criminal
trial – Human rights in criminal procedure” (Bảo đảm quyền con người trong xét xử
vụ án Hình sự của K.W Lidstone); “Human rights and arrest, pre-trial detention and
administrative detention” (Quyền con người và việc bắt giữ, tạm giam trước khi xét
xử); “A Manual on Human Rights for Judges, Prosecutors and Lawyers” (Cẩm nang
về quyền con người dành cho thẩm phán, kiểm sát viên và luật sư); “Human rights
and indefinite detention” (Quyền con người và việc giam giữ vô thời hạn của Luật sư
bang New York Alfred de Zayas); “Human rights in the criminal trial” (Bảo đảm
quyền con người trong xét xử vụ án Hình sự); “The guarantee for accused persons
under Article 6 of the European Convention on Human Rights” (Bảo đảm quyền con
người của người bị buộc tội của Stephanos Stavros)…
Đánh giá chung, đã có một số công trình nghiên cứu cơ bản về bảo đảm
quyền con người thông qua các biện pháp ngăn chặn trong TTHS, tuy nhiên nghiên

cứu chuyên sâu về quyền của người tạm giam trước khi xét xử vẫn chưa được quan
tâm đúng mức. Những nghiên cứu về quyền của người tạm giam trước khi xét xử
mới chỉ dừng lại ở các công trình nghiên cứu chung về các biện pháp ngăn chặn
hoặc được thể hiện một phần trong kết quả của các công trình nghiên cứu khoa học
về bảo vệ quyền con người thông qua các biện pháp ngăn chặn chứ chưa có một
công trình nghiên cứu khoa học nào mang tính toàn diện, hệ thống và đồng bộ về
vấn đề bảo đảm quyền con người, nhất là của người bị tạm giam trước khi xét xử.
Như vậy tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài tái khẳng định rằng, việc
nghiên cứu đề tài “Quyền của người bị tam giam trước khi xét xử - Một số vấn đề
lí luận và thực tiễn” là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa mang tính lí luận, vừa
mang tính thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lí luận và thực tiễn về bảo đảm quyền của

4


người bị tạm giam trước khi xét xử theo các quy định của BLTTHS sẽ làm sáng tỏ
những vướng mắc hạn chế cũng như đưa ra được các giải pháp nhằm nâng cao khả
năng tiếp cận quyền cũng như hiệu quả của việc bảo vệ quyền của người bị tam
giam. Thông qua đó, góp phần hoàn thiện các quy định của BLTTHS, góp phần xây
dựng nhà nước pháp quyền trong sạch, vững mạnh, vì con người.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
• Làm rõ những vấn đề lí luận và thực tiễn trong việc bảo đảm quyền con người
nói chung và quyền của người bị tạm giam nói riêng;
• Phân tích các quy định của Bộ luật Hình sự và các văn bản luật khác liên quan
tới quy định về quyền của người bị tạm giam, những bất cập hạn chế về bảo đảm quyền
của người bị tạm giam.
• Nghiên cứu kinh nghiệm của pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền con

người trong TTHS;
• Nghiên cứu và khảo sát tình hình thực tế về việc thực thi quyền của người bị
tạm giam trước khi xét xử
• Đánh giá thực tiễn thực thi quyền và thực trạng tiếp cận quyền của người tạm
giam trước khi xét xử
• Đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của TTHS Việt
Nam và nâng cao việc bảo đảm quyền cho người bị tạm giam
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn có đối tượng và phạm vi nghiên cứu là các văn bản pháp luật quốc tế
và quốc gia về quyền của người bị tạm giam trước khi xét xử và tình hình thực thi và
bảo đảm quyền của người bị tam giam trong thực tiễn, nguyên nhân của những tồn
tại, hạn chế để kiến nghị những giải pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu
quả việc bảo đảm quyền của người bị tạm giam trước khi xét xử. Luận văn cũng có
tham khảo những bài học kinh nghiệm về bảo đảm quyền con người nói chung và
quyền của người bị tạm giam trước khi xét xử nói riêng của một số nước trong khi
nghiên cứu.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử

5


và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và
pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền,
về chính sách Hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị
quyết Đại hội Đảng khóa 8, khóa 9, khóa 10 và các Nghị quyết số 08-NQ/TW
ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về Chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đó sử dụng các phương
pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật Hình sự như: phương pháp phân tích và tổng

hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp;
phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa học luật
Hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.
6. Kết quả và ý nghĩa nghiên cứu
Luận văn đã đạt được một số kết quả:
- Đưa ra cái nhìn tổng quan về người bị tạm giam trước khi xét xử trong mối
liên hệ giữa luật nhân quyền quốc tế và pháp luật quốc gia của Việt Nam. Đặc biệt
là với cách tiếp cận dựa trên quyền, luận văn khẳng định các quyền của người bị
tạm giam trước khi xét xử là tự nhiên, bẩm sinh và nhà nước chỉ có thể ghi nhận,
bảo đảm chứ không có quyền ban phát các quyền đó. Các quyền của người bị tạm
giam trước khi xét xử được bảo đảm không chỉ bằng việc các quyên đó được ghi
nhận trong pháp luật mà quan trọng còn ở cơ chế bảo đảm các quyền đó.
- Đánh giá tầm quan trọng, ý nghĩa của việc bảo đảm các quyền của người bị
tạm giam trước khi xét xử. Những người bị tạm giam trước khi xét xử được hưởng
các quyền cơ bản trên cương vị bình đẳng như bất kỳ chủ thể nào. Bên cạnh đó họ
được hưởng những quyền đặc thù khác. Và việc được hưởng các quyền đó là tất
yếu. Đảm bảo cho các quyền đó được thực thi cũng chính là bảo đảm quyền con
người và là thước đo trình độ văn minh của nhân loại.
- Luận văn cũng đã nêu bật được một số thành tựu trong việc bảo đảm các
quyền cho người bị tạm giam trước khi xét xử ở Việt Nam, đặc biệt là trong việc
đảm bảo các điều kiện ăn, mặc, ở; quyền không bị tra tấn; không bị bắt, giam một
cách tùy tiện; về quyền được đối xử nhân đạo; quyền được xét xử công bằng…

6


- Phân tích một số hạn chế, đặc biệt là về mặt pháp luật trong việc bảo đảm
các quyền của người bị tạm giam trước khi xét xử. Từ đó đưa ra một số biện pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả đảm bảo các quyền cho người bị
tạm giam trước khi xét xử ở Việt Nam.

- Luận văn là một tài liệu tham khảo trong học tập và nghiên cứu về TTHS.
Ý nghĩa của luận văn:
Một mặt, những nghiên cứu của luận văn góp phần nâng cao kiến thức và
hiểu biết về quyền của người bị tạm giam trước khi xét xử và các công cụ pháp lý
để bảo đảm quyền của họ. Thông qua đó, những người bị tạm giam trước khi xét xử
có thể sử dụng các công cụ pháp lý này một cách có hiệu quả để tự bảo vệ quyền
của mình khi bị xâm phạm.
Mặt khác, những nghiên cứu của luận văn cũng góp phần thay đổi thái độ,
hành vi trong việc đối xử với những người bị tạm giam trước khi xét xử, đặc biệt là
của một bộ phận cán bộ công chức thực thi pháp luật. Khẳng định rõ ràng rằng,
những quyền mà người bị tạm giam được hưởng là chính đáng và nhà nước phải có
nghĩa vụ bảo đảm cho các quyền đó được thực thi. Các quyền đó không phải do nhà
nước ban cho họ mà xuất phát từ chính nhân phẩm và giá trị của họ.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần phụ lục và danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn được chia làm ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận chung về quyền của người bị tam giam
trước khi xét xử.
Chương 2: Quyền của người bị tạm giam trước khi xét xử và thực tiễn việc
bảo đảm quyền của người bị tạm giam trước khi xét xử.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật Tố tụng hình sự và một số kiến nghị nâng
cao hiệu quả bảo đảm thực thi quyền của người bị tạm giam trước khi xét xử.

7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ QUYỀN
CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIAM TRƯỚC KHI XÉT XỬ
1.1 . Khái niệm về quyền của người bị tạm giam trước khi xét xử

1.1.1 . Khái niệm người bị tạm giam và quyền của người bị tạm giam
1.1.1.1. Khái niệm người bị tạm giam
Tạm giam là một trọng các biện pháp ngăn chặn của TTHS áp dụng đối với
bị can, bị cáo trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Giáo trình Luật TTHS Việt
Nam của Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội đưa ra định nghĩa về biện pháp tạm
giam như sau:
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong TTHS do cơ quan tiến
hành tố tụng áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội trong trường hợp
phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng hoặc tội nghiêm
trọng, ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt trên hai
năm tù và có những căn cứ để cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở
việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội [7, tr.216].
Theo định nghĩa trên thì biện pháp tạm giam có mục đích ngăn chặn tội
phạm và tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết vụ án của các cơ quan tiến hành
tố tụng. Luật TTHS quy định căn cứ, thẩm quyền, thủ tục áp dụng biện pháp ngăn
chặn này. Tạm giam là một biện pháp ngăn chặn có tính chất cưỡng chế cao, thể
hiện: Thứ nhất, tạm giam là sự cưỡng chế của Nhà nước, tước quyền tự do thân thể
của bị can, bị cáo nhằm ngăn chặn việc người đó trốn, cản trở điều tra truy tố xét xử
hoặc tiếp tục phạm tội mới cũng như nhằm đảm bảo thi hành án; Thứ hai, tạm giam
được thực hiện bởi sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước bắt buộc người bị áp dụng
phải chấp hành. Nhà nước ban hành các quy định về tạm giam và đảm bảo cho các
quy phạm đó được thực hiện; Thứ ba, tạm giam chỉ được áp dụng với bị can, bị cáo
trong các trường hợp nhất định; Thứ tư, tạm giam hạn chế một số quyền của công
dân đối với người bị áp dụng như: quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự
do đi lại, quyền bầu cử, ứng cử… Như vậy, có thể thấy rằng tạm giam là biện pháp

8


ngăn chặn nghiêm khắc nhất so với các biện pháp ngăn chặn khác. Nhưng tạm giam

khác với hình phạt. Hình phạt do Toà án quyết định áp dụng đối với người phạm tội
được tuyên trong bản án, đây là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất nhằm tước
bỏ, hạn chế quyền của người phạm tội, trừng trị giáo dục họ góp phần đấu tranh
phòng chống tội phạm, bảo vệ chế độ trật tự xã hội cũng như các quyền lợi hợp
pháp của công dân. Người phải chịu hình phạt là người có tội, hậu quả của việc áp
dụng hình phạt là người phạm tội phải mang án tích. Dù có cùng tính chất như tạm
giữ nhưng tạm giam nghiêm khắc hơn. Đối tượng bị áp dụng biện pháp này chỉ có
thể là bị can bị cáo, thời hạn tạm giam tương đối dài có thể vài tháng thậm chí hàng
năm. Tạm giữ chỉ có thể được áp dụng đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn
cấp hoặc phạm tội quả tang với thời gian ngắn, tối đa không quá 9 ngày.
Theo quy định của Khoản 1, Điều 70 BLTTHS 2003 thì Tạm giam có thể
được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong trường hợp sau đây:
- Bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng
- Bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng mà Bộ luật quy định
hình phạt đối với tội đó là trên 2 năm tù và có căn cứ để cho rằng người đó có thể trốn
hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử hoặc tiếp tục phạm tội [30, Điều 70, Khoản 1].
Như vậy, người có thể bị tạm giam phải là bị can, bị cáo (người đã bị khởi tố
hình sự, người bị truy tố, người bị quyết định đưa ra xét xử tại tòa án). Những người
chưa bị khởi tố hình sự thì không được áp dụng biện pháp ngăn chặn này đối với họ.
Ngoài ra, theo quy định của BLTTHS biện pháp ngăn chặn tạm giam còn có thể
được áp dụng đối với người bị bắt khi đang bị truy nã, đây có thể là bị can, bị cáo
cũng có thể là người đang chấp hành hình phạt nhưng bỏ trốn, lúc này tạm giam sẽ
được áp dụng khi có quan điều tra nhận được người bị truy nã cho đến khi cơ quan
ra lệnh truy nã đến nhận.
Biện pháp ngăn chặn tạm giam được áp dụng đối với bị can, bị cáo, nhưng
không phải bị can, bị cáo nào cũng bị áp dụng biện pháp pháp ngăn chặn này mà chỉ
khi họ phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc các tội phạm khác
mà luật hình sự quy định trên 2 năm tù và có căn cứ để cho rằng người đó có thể
trốn hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử hoặc tiếp tục phạm tội.


9


Đối với một số trường hợp đặc biệt, tuy bị can, bị cáo có đủ căn cứ nêu trên
trên nhưng không áp dụng tạm giam đối với họ do pháp luật TTHS thể hiện tính
nhân đạo. Theo quy định của BLTTHS 2003 thì các đối tượng đó là: phụ nữ có thai
hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người già yếu (người già yếu là người trên
70 tuổi hoặc trên 60 tuổi và thường xuyên ốm đau), người bị bệnh nặng (người bị
bệnh nặng là người đang mắc bệnh hiểm nghèo làm cho người đó bị suy kiệt nặng
mà không được cứu chữa kịp thời thì sẽ có thể nguy hiểm tới tính mạng), những
người này phải có nơi cư trú rõ ràng. Chỉ tạm giam những người này trong trường
hợp đặc biệt như họ phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia họ là đối tượng lưu manh
côn đồ và trong các vụ án phức tạp nếu để họ tại ngoại thì không thể điều tra truy tố,
xét xử được [30, Điều 88, Khoản 2].
Đối với bị can bị cáo là người chưa thành niên thì người từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi, họ chỉ có thể bị tạm giam khi họ phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý
hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi chỉ có thể bị
tạm giam khi họ phạm tội nghiêm trọng do cố ý, tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt
nghiêm trọng [30, Điều 273, Khoản 2]. Vấn đề đặt ra đối với việc áp dụng biện
pháp tạm giam đối với các trường hợp đặc biệt này là phải kiểm tra kỹ sức khoẻ,
xác định đúng tuổi chịu trách nhiệm của họ.
Bị can, bị cáo bị tạm giam có các quyền và nghĩa vụ tố tụng do Luật TTHS
quy định nhằm bảo đảm để họ chấp hành nghiêm chỉnh quy định của pháp luật
trong quá trình giải quyết vụ án, đồng thời để họ thực hiện các quyền khi bảo vệ các
lợi hợp pháp của mình trước các cơ quan tiến hành tố tụng.
Luật TTHS quy định biện pháp ngăn chặn tạm giam và những bị can, bị cáo
bị áp dụng biện pháp này được gọi là “người bị tạm giam” chứ không phải là
“người bị giam”, do biện pháp này được áp dụng khi bị can, bị cáo chưa phải là
người phạm tội theo quy định của pháp luật. Nếu ở giai đoạn xét xử tòa tuyên bị cáo
không phạm tội thì họ được coi là người bị oan và được bồi thường thiệt hại về

những hậu quả do bị áp dụng biện pháp tạm giam. Trong trường hợp bị can, bị cáo
bị tòa án kết án thì số ngày bị tạm giam được khấu trừ vào thời hạn chấp hành hình

10


phạt với nguyên tắc 1 ngày bị tạm giam bằng 1 ngày tù và 3 ngày đối với hình phạt
cải tạo không giam giữ [30, Điều 33].
Từ sự phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về người bị tạm giam trong
TTHS như sau: Người bị tạm giam là bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng, đặc
biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm khác mà luật hình sự quy định hình phạt trên hai
năm tù và có căn cứ để cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở điều tra, truy tố,
xét xử hoặc tiếp tục phạm tội bị các cơ quan tiến hành TTHS có thẩm quyền quyết
định áp dụng biện pháp tạm giam theo trình tự, thủ tục của luật TTHS.
1.1.1.2. Khái niệm quyền của người bị tạm giam
Bị can, bị cáo bị tạm giam được pháp luật quy định cho họ những quyền với
mục đích bảo đảm quyền con người của họ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Quyền con người của người bị tạm trong TTHS là quyền của nhóm người dễ bị tổn
thương trong xã hội. Người bị tạm giam khi tham gia vào các hoạt động TTHS, với
tư cách là người bị buộc tội thì họ vẫn được pháp luật bảo vệ và tôn trọng những
quyền cơ bản thiết thân của con người. Khi bình luận về quyền của nhóm người yếu
thế trong đó có người bị tạm giam, giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Khoa Luật –
Đại học Quốc gia Hà Nội có nhận xét:
Mặc dù họ là những đối tượng bị hoặc có khả năng bị áp dụng trách nhiệm
pháp lý nghiêm khắc nhất là trách nhiệm hình sự nhưng những quyền cơ bản, thiết
thân nhất như: quyền được tôn trọng về nhân phẩm, quyền không bị tra tấn, đánh đập
khi bị giam giữ, bị chấp hành án phạt tù… và những quyền tư pháp để được xét xử
công bằng, để được điều tra khách quan trong quá trình tố tụng…vẫn phải được tôn
trọng và bảo đảm [7, tr.25].
Quyền con người của người bị tạm giam được ghi nhận trong các văn bản

pháp luật là tiền đề để quyền con người được bảo đảm thực thi trong đời sống. Thông
qua các quy định của Luật TTHS, Nhà nước trao cho cho người bị tạm giam những
phương tiện cần thiết để bảo vệ các quyền của mình và thiết lập các cơ chế để giải
quyết cũng như đảm bảo các quyền của người bị tạm giam. Các quyền này, khi được
pháp luật TTHS quy định, tức là đã được Nhà nước chính thức thừa nhận người bị

11


tạm giam có các quyền tố tụng nhất định mà bất kỳ ai trong xã hội cũng đều phải tôn
trọng. Người bị tạm giam khi thực hiện quyền của mình đồng thời cũng phải có nghĩa
vụ tuân thủ pháp luật, tôn trọng và không được vi phạm các thủ tục tố tụng.
Quyền của người bị tạm giam được quy định trong pháp luật TTHS bởi một
mặt pháp luật TTHS là công cụ hữu hiệu của Nhà nước trong việc thực hiện, bảo
vệ quyền con người, quyền công dân trong các hoạt động TTHS, đồng thời nó còn
chi phối hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
trong việc bảo đảm các quyền con người của người bị tạm giam. Quyền con người
được ghi nhận trong các văn bản pháp luật của nhà nước tạo thành hệ thống các
quy phạm pháp luật, một mặt phản ánh nội dung các quyền con người và thủ tục
thực hiện các quyền đó, đồng thời cũng là cơ chế pháp lý bảo đảm quyền con
người trong hoạt động TTHS.
Quyền con người của người bị tạm giam trong TTHS là tập hợp các quyền
thuộc nhóm quyền dân sự, chính trị nhằm mục đích khẳng định danh dự nhân phẩm
của con người trong mọi hoàn cảnh, bảo vệ các cá nhân khỏi sự tùy tiện và sự lạm
quyền của các cơ quan và nhân viên nhà nước trong các hoạt động TTHS. Theo các
văn bản pháp lý quốc tế về quyền con người thì quyền con người của người bị tạm
giam về cơ bản là quyền an toàn thân thể, danh dự, nhân phẩm… của cá nhân khi họ
tham gia tố tụng với tư cách người bị tạm gia và quyền được xét xử công bằng bởi
một tòa án độc lập.
Từ những phân tích trên, khái niệm quyền con người của người bị tạm giam

có thể hiểu như sau: Quyền con người của người bị tạm giam là tổng hợp các quyền
thuộc nhóm quyền dân sự, chính trị nhằm mục đích khẳng định việc bảo vệ tính
mạng, sức khỏe, tôn trọng danh dự nhân phẩm của con người trong mọi hoàn cảnh
cũng như bảo đảm việc xét xử công bằng bởi một tòa án độc lập khách quan đối với
người bị tạm giam khỏi sự tùy tiện và sự lạm quyền của các cơ quan và nhân viên
nhà nước trong các hoạt động TTHS.
1.1.2. Đặc điểm Quyền của người bị tạm giam
Quyền con người nói chung và quyền của người bị tạm giam nói riêng là một

12


giá trị nhân loại, đồng thời có tính lịch sử hình thành trong cuộc đấu tranh giai cấp và
được bổ sung mới qua các thời đại khác nhau. Theo Từ điển tiếng Việt 2000 thì
quyền là “điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận cho được hưởng, được làm,
được đòi hỏi” [24, tr.832]. Như vậy, quyền con người là những điều mà pháp luật
hoặc xã hội công nhận cho mỗi con người được hưởng. Quyền con người được đặt
trong mối quan hệ với nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với xã hội và được
giải quyết trên cơ sở đảm bảo lợi ích xã hội. Bảo đảm quyền con người là bảo đảm
dân chủ, bảo đảm hiệu quả, hiệu lực nhà nước cũng như quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân. Đây là mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta luôn hướng tới. Việc bảo
đảm các quyền con người, quyền công dân phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: kinh tế,
chính trị, văn hoá, tư tưởng... trong đó nhà nước bảo đảm về mặt pháp lý, các cơ quan
tố tụng bảo đảm thực thi pháp luật có hiệu quả là vấn đề cực kỳ quan trọng.
Hiện nay, chưa có một văn kiện nào đưa ra khái niệm quyền của người bị
tạm giam trước khi xét xử. Tuy nhiên như đã phân tích, nhóm người bị tạm giam là
một trong những chủ thể quan trọng của luật nhân quyền quốc tế. Họ được hưởng
những quyền lợi chính đáng, phù hợp với địa vị của họ. Quyền của người bị tạm
giam có các đặc điểm:
Thứ nhất, quyền của người bị tạm giam là những giá trị gắn với mỗi người

vừa với tư cách cá nhân, vừa với tư cách là thành viên xã hội.
Điều 50 Hiến pháp 2013 quy định “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội
được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến
pháp và pháp luật” [32, Điều 50]. Theo quy định trên của Hiến pháp, quyền con
người được gắn liền với quyền công dân và không có sự tách biệt hoàn toàn.
Quyền của người bị tạm giam là một bộ phận cấu thành của quyền con người.
Người bị tạm giam cũng có những phẩm chất và giá trị con người. Không phải vì
bị tước tự do mà các giá trị con người của họ bị mất hết và không còn là con
người. Vì vậy họ cũng phải có các quyền con người cơ bản – những quyền mà
tạo hóa ban cho và không ai có thể tước đoạt.

13


Ngày nay với sự phát triển của giá trị nhân đạo, cộng đồng quốc tế ngày càng
quan tâm và có ảnh hưởng nhiều hơn trên lĩnh vực quyền con người nói chung và
quyền của người bị tạm giam nói riêng. Quyền của người bị tạm giam không chỉ tồn
tại với tư cách là quyền công dân của một quốc gia mà còn là thành viên “công dân”
của cộng đồng quốc tế. Ở một mức độ nhất định thì trong mỗi nước, việc ghi nhận
và bảo vệ quyền công dân tức là đã ghi nhận và bảo vệ quyền con người được pháp
luật quốc gia và quốc tế ghi nhận [23, tr.55]. Điều 1 của UDHR khẳng định mọi
người đều tự do và bình đằng về “phẩm giá và các quyền” [13, Điều 1]. Lời nói
đầu của hai công ước ICCPR và ICESCR đều khẳng định quyền con người “bắt
nguồn từ phẩm giá vốn có của con người”. Việc ghi nhận và bảo vệ các quyền con
người nói chung, quyền của người bị tạm giam nói riêng, do đó là nhằm đáp ứng
những đòi hỏi tất yếu về bảo vệ phẩm giá con người. Nhân phẩm là những phẩm
chất, giá trị chỉ con người mới có và tạo nên tư cách, vị thế, sự khác biệt của con
người trong thế giới động vật. Phẩm giá là như nhau và tồn tại bên trong đời sống
của mỗi người. Trong bản thân khái niệm phẩm giá có chứa tư tưởng về giá trị của

mỗi con người, về tính độc nhất vô nhị và bản sắc của mỗi cá nhân mà đươc mọi
người, mọi thiết chế và toàn xã hội tôn trọng.
Người bị tạm giam cũng được hưởng các quyền con người cơ bản trên cương
vị bình đẳng như bất cứ cá nhân nào khác. Bên cạnh đó, họ còn được hưởng những
quyền đặc thù, mà bản chất là những ưu tiên hoặc cơ chế bảo vệ đặc biệt dành cho
nhóm người này dựa trên những đặc điểm, tính chất và hoàn cảnh của họ. Đó là các
quyền như quyền không bị tra tấn, quyền được đối xử nhân đạo, quyền được thông
tin về lý do bắt giữ và các quyền được có khi bị bắt giữ, các quyền thuộc nhóm
quyền xét xử công bằng, quyền của nhóm người chưa thành niên… Việc quy định
những ưu tiên này không phải bởi vì các quyền được ưu tiên thực hiện có giá trị cao
hơn, mà bởi vì các quyền đó trong thực tế có nguy có bị đe dọa hoặc bị vi phạm
nhiều hơn các quyền khác.
Thứ hai: Quyền của người bị tạm giam vừa là thuộc tính tự nhiên của con
người, vừa là những giá trị trong đời sống, gắn liền với một nhà nước cụ thể.
Ngay từ thời cổ đại đã có sự bàn luận về các quyền con người. Tuy nhiên,

14


phải đến thế kỷ 17, 18, quyền con người mới được các nhà tư tưởng bàn đến như
một học thuyết. Quan điểm thứ nhất cho rằng, quyền con người, bao gồm cả quyền
của người bị tạm giam là đặc quyền tự nhiên, vốn có thuộc về con người mà ai cũng
được hưởng, đơn giản bởi họ là thành viên của đại gia đình nhân loại. Tuyên ngôn
độc lập của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ năm 1776 đã khẳng định: "Tất cả mọi người
sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể chối
cãi được. Trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu
cầu hạnh phúc" [20]. Về mặt xã hội, thuyết quyền tự nhiên mang ý nghĩa phản
kháng. Nó là tư tưởng của các lực lượng tiến bộ chống lại trật tự xã hội bất công,
bất bình đẳng (xã hội chiếm hữu nô lệ và xã hội phong kiến sau này). Vì thế, không
chỉ trong quá khứ, mà cả ngày nay thuyết này vẫn có ý nghĩa nhất định. Học thuyết

này có điểm tích cực là đề cao con người với tư cách là sản phẩm cao nhất, tinh tuý
nhất của sự phát triển tự nhiên. Nhưng nhược điểm là ở chỗ đã che lấp nguồn gốc xã
hội của quyền con người và do đó, không thấy tính lịch sử, tính giai cấp, sự phát
triển. Quan điểm thứ hai cho rằng quyền con người nói chung, quyền của người bị
tạm giam nói riêng mang tính pháp lý. Có nghĩa là các quyền con người phải được
quy định trong pháp luật. Chỉ có thông qua pháp luật thì các giá trị của con người
với tư cách là tự nhiên và xã hội mới trở thành quyền được xác định và mới bảo
đảm trở thành hiện thực trong thực tiễn.
Pháp luật là công cụ hữu hiệu của Nhà nước trong việc thực hiện, bảo vệ
quyền của người bị tạm giam. Những nhu cầu vốn có, tự nhiên của con người không
thể được đảm bảo đầy đủ nếu không được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Thông
qua pháp luật, nghĩa vụ tôn trọng và thực thi các quyền trở thành những quy tắc cư
xử chung, có hiệu lực bắt buộc và thống nhất cho tất cả mọi chủ thể trong xã hội,
chứ không phải chỉ tồn tại dưới dạng những quy tắc đạo đức. Vai trò của pháp luật
đối với việc thúc đẩy các quyền của người bị tạm giam thể hiện rõ ở hai khía cạnh
là thừa nhận và bảo đảm các quyền cho nhóm người trên. Trước hết, pháp luật là
phương tiện chính thức hóa, pháp lý hóa giá trị xã hội của các quyền tự nhiên. Ngay
cả khi được thừa nhận, các quyền tự nhiên của người bị tạm giam cũng không được
mặc định áp dụng ở nhiều xã hội. Mà chỉ khi được pháp luật thừa nhận và bảo vệ thì

15


những quyền của người bị tạm giam mới mang đầy đủ giá trị hiện thực. Pháp luật có
sứ mệnh cao cả là biến những nghĩa vụ đạo đức về tôn trọng và thực hiện các quyền
tự nhiên thành các nghĩa vụ pháp lý. Khía cạnh thứ hai thể hiện vai trò của pháp
luật, đó là phương tiện bảo đảm các giá trị thực tế của các quyền của người bị tạm
giam. Khi được quy định trong pháp luật, việc tuân thủ và thực hiện các quyền của
người bị tạm giam mới mang tính cưỡng chế, bắt buộc với mọi chủ thể trong xã hội.
Lúc này, pháp luật là công cụ giúp nhà nước bảo đảm sự tuân thủ, thực thi các

quyền của người bị tạm giam của các chủ thể khác nhau trong xã hội. Hơn nữa, đó
cũng là công cụ để các cá nhân bảo vệ các quyền của mình thông qua việc vận dụng
các quy phạm pháp lý. Sự bảo vệ đối với nhóm người bị tạm giam không chỉ được
quy định trong luật pháp quốc tế mà trong pháp luật của tất cả các quốc gia, tuy với
những mức độ khác nhau, cách thức khác nhau.
1.1.3. Vai trò và tầm quan trọng của việc bảo đảm quyền của người bị tạm
giam trước khi xét xử
1.1.3.1. Bảo đảm quyền của người bị tạm giam trước khi xét xử là yếu tố góp
phần bảo đảm quyền con người
Thông thường, khi một người bị nghi ngờ phạm tội và trở thành bị can trong
các vụ án hình sự, đặc biệt là trong các trường hợp bị tạm giam, họ rất dễ bị vi phạm
đến các quyền con người, như quyền tự do và an ninh cá nhân, quyền không bị tra
tấn, quyền được bảo vệ đời tư... Tuy nhiên, theo nguyên tắc suy đoán vô tội thì
không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án có hiệu pháp luật của tòa án có thẩm
quyền. Nguyên tắc bình đẳng thì mọi người đều có quyền bình đẳng, không phân
biệt đối xử trước pháp luật. Do đó, bảo đảm quyền của người bị tạm giam sẽ trở
thành công cụ hữu hiệu để bảo vệ các quyền con người. Nó cho phép các cơ quan
tiến hành tố tụng có thể duy trì hàng loạt các quyền con người đảm bảo cho việc thi
hành công lý từ lúc nghi ngờ tội phạm cho đến khi thực thi bản án. Nên ngay từ giai
đoạn điều tra đến phiên xét xử cuối cùng, những người bị nghi là phạm tội vẫn được
hưởng các quyền và tự do căn bản và bình đẳng trước pháp luật. Các nguyên tắc này
là công cụ để bảo vệ các quyền con người khác: Như quyền sống, quyền tự do và an

16


ninh cá nhân, quyền được bảo vệ đời tư, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền
kết hôn lập gia đình, quyền tự do kinh doanh, quyền lao động...
Quyền sống là một quyền cơ bản quan trọng của con người được quy định tại
điều 3 UDHR:

Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an toàn cá nhân. Khi một
người bị nghi phạm tội, bất kể là tội phạm ít nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm
trọng, bị tạm giam tạm giữ hay không thì quyền sống của cá nhân đó vẫn được tôn
trọng và đảm bảo. Quyền sống ở đây bao gồm cả quyền được sống và những điều
kiện tối thiểu căn bản cho cuộc sống phải được đảm bảo [13, Điều 3].
Quyền tôn trọng đời sống riêng tư, gia đình và thư tín được ghi nhận tại điều
17 (1) ICCPR “Không ai bị can thiệp tùy tiện hoặc bất hợp pháp đến đời sống riêng
tư, gia đình, nhà ở, thư tín, hoặc bị xúc phạm bất hợp pháp đến danh dự và uy tín”
[14, Điều 17]. Ngoài ra quyền này còn được ghi nhận trong nhiều công ước khác như
điều 11 Công ước Châu Mỹ về quyền con người, điều 8 công ước Châu Âu về quyền
con người. Khi một người bị nghi phạm tội thì đời sống riêng tư dễ bị xáo trộn, họ dễ
bị nghe lén điện thoại, khám xét nơi ở, can thiệp vào thư tín... nhưng theo nguyên tắc
suy đoán vô tội của quyền xét xử công bằng thì các quyền này của họ phải được đảm
bảo, trừ những trường hợp đặc biệt cần thiết phục vụ cho việc điều tra. Nguyên tắc
pháp trị nêu “Công dân không bị bắt giữ tùy tiện, nhà cửa không bị khám xét mà không
có lý do chính đáng hoặc không bị tịch thu tài sản cá nhân” [14]. Vấn đề nghe trộm
điện thoại đã được đặt lên hàng đầu trong một số vụ do Tòa án nhân quyền châu Âu xét
xử. Tòa án nhân quyền Châu Âu đã thống nhất rằng việc nghe trộm điện thoại cũng
được xem là “một sự can thiệp của nhà chức trách” tới quyền được tôn trọng thư từ và
đời sống riêng của đương sự được quy định trong Điều 8 của công ước Châu Âu.
Quyền được đối xử nhân đạo và không bị tra tấn: Quyền này được ghi nhận
tại điều 7 ICCPR “Không ai có thể bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt một cách tàn
ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm” [14, Điều 7]. Tuy nhiên khi một người bị
nghi phạm tội, đặc biệt là trong những trường hợp bị tạm giam, tạm giữ, họ dễ bị tra
tấn, bị dùng nhục hình để ép cung. Do đó, quyền này được tái khẳng định với những

17



×