Tải bản đầy đủ (.pdf) (144 trang)

Đánh giá tình trạng stress, lo âu, trầm cảm của điều dưỡng và hộ sinh khối lâm sàng bệnh viện phụ sản nhi đà nẵng năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.37 MB, 144 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO - BỘ Y TẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG

NGÔ THỊ KIỀU MY

ĐÁNH GIÁ TÌNH TRẠNG STRESS, LO ÂU, TRẦM CẢM
CỦA ĐIỀU DƢỠNG VÀ HỘ SINH KHỐI LÂM SÀNG
BỆNH VIỆN PHỤ SẢN - NHI ĐÀ NẴNG NĂM 2014

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ BỆNH VIỆN
MÃ SỐ CHUYÊN NGÀNH: 60.72.07.01

Hà Nội-2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO - BỘ Y TẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG

NGÔ THỊ KIỀU MY

ĐÁNH GIÁ TÌNH TRẠNG STRESS, LO ÂU, TRẦM CẢM
CỦA ĐIỀU DƢỠNG VÀ HỘ SINH KHỐI LÂM SÀNG
BỆNH VIỆN PHỤ SẢN - NHI ĐÀ NẴNG NĂM 2014

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ BỆNH VIỆN
MÃ SỐ CHUYÊN NGÀNH: 60.72.07.01

TS. Đỗ Mai Hoa

TS. Trần Đình Vinh


Hà Nội-2014


i

LỜI CẢM ƠN

Sau 2 năm học tập, giờ đây khi cuốn luận văn tốt nghiệp thạc sỹ quản lý
bệnh viện sắp được hoàn thành, tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới:
Ban Giám hiệu nhà trường, các thầy cô giáo, các bộ môn và phòng ban
Trường Đại học Y tế công cộng đã trang bị kiến thức, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi
trong suốt thời gian học tập tại trường và thực hiện luận văn.
TS. Đỗ Mai Hoa và TS. Trần Đình Vinh- những người thầy với đầy nhiệt huyết
đã tận tình hướng dẫn cho tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn này.
Lãnh đạo, cán bộ Sở Y tế thành phố Đà Nẵng là nơi tôi công tác đã tạo điều
kiện cho tôi trong thời gian đi học.
Lãnh đạo và cán bộ, viên chức Bệnh viện Phụ Sản - Nhi Đà Nẵng là nơi tôi
tiến hành nghiên cứu đã tạo điều kiện và tận tình giúp đỡ trong suốt quá trình
nghiên cứu.
Các anh chị lớp cao học Quản lý Bệnh viện khóa 5 đã cùng nhau trao đổi,
chia sẽ kinh nghiệm trong quá trình học tập.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, nơi là hậu phương vững chắc,
luôn động viên tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn này.
Trân trọng cảm ơn!
Ngô Thị Kiều My


ii

MỤC LỤC

Danh mục các bảng, biểu .........................................................................................v
Danh mục các chữ viết tắt ....................................................................................... vi
Tóm tắt nghiên cứu ............................................................................................... vii
Đặt vấn đề ..............................................................................................................01
Mục tiêu nghiên cứu ..............................................................................................03
Chƣơng 1: Tổng quan tài liệu ..............................................................................04
1.1. Giới thiệu về gánh nặng trong tâm thần ...........................................................04
1.2. Giới thiệu về stress, lo âu, trầm cảm ................................................................05
1.2.1. Khái niệm ......................................................................................................05
1.2.2. Triệu chứng ...................................................................................................07
1.2.3. Nguyên nhân .................................................................................................10
1.2.4. Hậu quả .........................................................................................................12
1.3. Giới thiệu về các thang đo sức khỏe tâm thần và bộ công cụ DASS 21của
Lovibond .................................................................................................................14
1.4. Một số nghiên cứu về stress, lo âu, trầm cảm trên thế giới và tại Việt Nam ...15
1.4.1. Một số nghiên cứu trên thế giới ....................................................................15
1.4.2. Một số nghiên cứu tại Việt Nam ...................................................................18
1.5. Giới thiệu về địa điểm nghiên cứu ...................................................................21
1.6. Khung lý thuyết ................................................................................................22
Chƣơng 2: Phƣơng pháp nghiên cứu ..................................................................24
2.1. Đối tượng nghiên cứu.......................................................................................24
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu ....................................................................24
2.3. Thiết kế nghiên cứu ..........................................................................................24
2.4. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu..................................................................24
2.5. Phương pháp thu thập số liệu ...........................................................................25
2.6. Xử lý và phân tích số liệu ................................................................................26
2.7. Biến số nghiên cứu ...........................................................................................27
2.8. Đạo đức trong nghiên cứu ................................................................................28



iii

Chƣơng 3: Kết quả nghiên cứu .............................................................................. 29
3.1. Các thông tin chung về đối tượng nghiên cứu ................................................... 29
3.1.1. Đặc điểm cá nhân của đối tượng nghiên cứu .................................................. 29
3.1.2. Các yếu tố về gia đình ..................................................................................... 31
3.1.3. Các yếu tố về môi trường xã hội ..................................................................... 32
3.1.4. Các yếu tố về nghề nghiệp .............................................................................. 33
3.2. Tình trạng stress, lo âu, trầm cảm của điều dưỡng, hộ sinh khối lâm sàng bệnh
viện Phụ Sản - Nhi Đà Nẵng .................................................................................... 40
3.2.1. Đánh giá độ tin cậy của Thang đo stress, lo âu, trầm cảm DASS 21 ............. 40
3.2.2. Tỷ lệ stress, lo âu, trầm cảm của điều dưỡng, hộ sinh khối lâm sàng bệnh viện
Phụ Sản - Nhi Đà Nẵng ............................................................................................ 41
3.3. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng stress, lo âu, trầm cảm của điều dưỡng,
hộ sinh khối lâm sàng bệnh viện Phụ Sản - Nhi Đà Nẵng ........................................ 44
3.3.1. Kết quả phân tích đơn biến: một số yếu tố liên quan đến tình trạng stress, lo
âu, trầm cảm ............................................................................................................. 44
3.3.2. Kết quả phân tích đa biến: một số yếu tố liên quan đến tình trạng stress, lo âu,
trầm cảm ................................................................................................................... 55
Chƣơng 4: Bàn luận ............................................................................................... 64
4.1. Mô tả thực trạng về tình trạng stress, lo âu, trầm cảm của điều dưỡng, hộ sinh
khối lâm sàng bệnh viện Phụ Sản - Nhi Đà Nẵng năm 2014 .................................... 64
4.2. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng stress, lo âu, trầm cảm của điều dưỡng,
hộ sinh khối lâm sàng bệnh viện Phụ Sản - Nhi Đà Nẵng năm 2014 ....................... 66
4.3. Ưu điểm và hạn chế của nghiên cứu .................................................................. 77
Kết luận .................................................................................................................... 80
Khuyến nghị ............................................................................................................. 81
Danh mục tài liệu tham khảo .................................................................................... 83
Phụ lục 1: Một số yếu tố liên quan đến tình trạng stress của điều dưỡng, hộ sinh
bệnh viện Phụ Sản - Nhi Đà Nẵng ............................................................................ 88

Phụ lục 2: Một số yếu tố liên quan đến tình trạng lo âu của điều dưỡng, hộ sinh
bệnh viện Phụ Sản - Nhi Đà Nẵng ............................................................................ 94


iv

Phụ lục 3: Một số yếu tố liên quan đến tình trạng trầm cảm của điều dưỡng, hộ sinh
bệnh viện Phụ Sản - Nhi Đà Nẵng .......................................................................... 100
Phụ lục 4: Bảng biến số nghiên cứu ....................................................................... 106
Phụ lục 5: Trang thông tin giới thiệu về nghiên cứu............................................... 114
Phụ lục 6: Phiếu đồng ý tham gia phát vấn nghiên cứu .......................................... 115
Phụ lục 7: Phiếu điều tra ......................................................................................... 117
Phụ lục 8: Nội dung hướng dẫn phỏng vấn sâu lãnh đạo bệnh viện, trưởng phòng
điều đưỡng ............................................................................................................... 125
Phụ lục 9: Nội dung hướng dẫn phỏng vấn sâu giữa các điều dưỡng trưởng khoa,
điều dưỡng, hộ sinh ................................................................................................. 128


v

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1. Thông tin chung về đặc điểm cá nhân của đối tượng nghiên cứu

29

Bảng 3.2. Tình trạng sức khỏe và các yếu tố liên quan đến sức khỏe

30

Bảng 3.3. Các yếu tố về gia đình


31

Bảng 3.4. Các yếu tố về môi trường xã hội

32

Bảng 3.5. Các yếu tố về nội dung công việc

33

Bảng 3.6. Các yếu tố về môi trường làm việc

36

Bảng 3.7. Các yếu tố về mối quan hệ trong công việc

38

Bảng 3.8. Các yếu tố về động viên khuyến khích và phát triển nghề nghiệp

39

Bảng 3.9. Đánh giá độ tin cậy của Thang đo stress, lo âu, trầm cảm DASS 21

40

Bảng 3.10. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng stress của điều dưỡng, hộ sinh

44


Bảng 3.11. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng lo âu của điều dưỡng, hộ sinh

48

Bảng 3.12. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng trầm cảm của điều dưỡng, hộ sinh

51

Bảng 3.13. Các yếu tố liên quan đến tình trạng stress, lo âu, trầm cảm qua kết quả
phân tích đơn biến

54

Bảng 3.14. Mô hình hồi quy logistic tìm yếu tố liên quan đến tình trạng stress

56

Bảng 3.15. Mô hình hồi quy logistic tìm yếu tố liên quan đến tình trạng lo âu

57

Bảng 3.16. Mô hình hồi quy logistic tìm yếu tố liên quan đến tình trạng trầm cảm

58

Bảng 3.17. Các yếu tố liên quan đến tình trạng stress, lo âu, trầm cảm qua mô hình
hồi quy logistic

59


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1. Tỷ lệ stress, lo âu, trầm cảm của điều dưỡng, hộ sinh

41

Biểu đồ 3.2. Tỷ lê mức độ stress, lo âu, trầm cảm theo thang đo DASS 21

41

Biểu đồ 3.3. Tỷ lệ ĐTNC biểu hiện theo các nhóm stress, lo âu, trầm cảm

42

Biểu đồ 3.4. Tỷ lệ stress, lo âu, trầm cảm của các nhóm ĐTNC

42


vi

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BV

Bệnh viện

DASS

Thang đánh giá trầm cảm, lo âu, stress (Depression, Anxiety

and Stress Scale)

ĐTNC

Đối tượng nghiên cứu

ĐTV

Điều tra viên

ILO

Tổ chức lao động quốc tế (International Labour Organization)

N

Toàn bộ điều dưỡng, hộ sinh khối lâm sàng bệnh viện

NVYT

Nhân viên y tế

n

Toàn bộ đối tượng tham gia nghiên cứu

PTNN

Phát triển nghề nghiệp


RLTT

Rối loạn tâm thần

SKTT

Sức khỏe tâm thần

SAS

Thang tự đánh giá lo âu của Zung (Self-Rating Anxiety Scale)

SNN

Stress nghề nghiệp

UBND

Ủy ban Nhân dân

WHO

Tổ chức y tế thế giới (World health Organization)


vii

TÓM TẮT NGHIÊN CỨU
Trong bối cảnh hiện nay, việc chăm sóc sức khỏe tâm thần ngày càng được
quan tâm do sức khỏe tâm thần đang chiếm một tỷ lệ cao trong cơ cấu bệnh tật cũng

như trong chăm sóc sức khỏe ban đầu trong cộng đồng. Đối với ngành y tế, nhiều
nghiên cứu cho thấy nhân viên y tế có tỷ lệ lạm dụng thuốc và tự tử cao hơn so với
các ngành nghề khác và có tỷ lệ cao của stress, lo âu và trầm cảm liên quan đến
công việc căng thẳng.
Điều dưỡng là một nghề căng thẳng, phải làm việc cả ngày lẫn đêm, đối mặt
với các nguy cơ lây nhiễm, đối mặt với những phản ứng tiêu cực của người bệnh và
người nhà người bệnh, đối mặt với cái chết … do vậy họ dễ bị rối loạn tâm thần.
Nghiên cứu: “Đánh giá thực trạng stress, lo âu, trầm cảm của điều dưỡng,
hộ sinh khối lâm sàng bệnh viện Phụ Sản - Nhi Đà Nẵng năm 2014” nhằm mô tả
tình trạng stress, lo âu, trầm cảm và xác định những yếu tố liên quan đến tình trạng
này, từ đó đề xuất các giải pháp can thiệp nhằm giảm bớt các vấn đề sức khỏe tâm
thần của điều dưỡng, hộ sinh khối lâm sàng bệnh viện Phụ Sản - Nhi Đà Nẵng.
Nghiên cứu sử dụng phương pháp mô tả cắt ngang kết hợp nghiên cứu định
lượng và nghiên cứu định tính với sự tham gia của 370 điều dưỡng, hộ sinh khối
lâm sàng bệnh viện Phụ Sản - Nhi Đà Nẵng. Nghiên cứu đã sử dụng bộ công cụ
chuẩn DASS 21 của Lovibond để đánh giá tình trạng stress, lo âu, trầm cảm.
Kết quả cho thấy tỷ lệ điều dưỡng, hộ sinh khối lâm sàng bệnh viện bị stress,
lo âu, trầm cảm lần lượt là 18,1%; 33,2%; 18,4%. Kết quả phân tích hồi quy logistic
đa biến cho thấy một số yếu tố liên quan với stress là công việc hiện tại chưa ổn
định (OR=2,62), diện tích nơi làm việc chật chội (OR=2,48), quan hệ với cấp trên
chưa tốt (OR=2,69); Các yếu tố liên quan với lo âu gồm không luyện tập thể dục
(OR=1,73), gặp biến cố cá nhân (OR=2,21), tình trạng sức khỏe không tốt
(OR=2,74), chưa công bằng trong đánh giá công việc (OR=2,47); Các yếu tố liên
quan với trầm cảm gồm: tình trạng sức khỏe không tốt (OR=3,44), chưa tự chủ
trong công việc (OR=2,15), ít tham gia hoạt động văn thể mỹ tại bệnh viện
(OR=2,18), quan hệ với cấp trên không tốt (OR=2,95).


viii


Từ kết quả nghiên cứu chúng tôi đưa ra một số khuyến nghị như sau: Bệnh
viện cần tổ chức khám và phát hiện nhân viên thực sự bị stress, lo âu, trầm cảm để
đưa ra các biện pháp điều trị thích hợp; Để giảm bớt các yếu tố liên quan đến sức
khỏe tâm thần, bệnh viện nên cải tạo phòng làm việc cho nhân viên được rộng hơn,
tăng cường sự trao đổi giữa cán bộ quản lý cấp khoa phòng và điều dưỡng, hộ sinh;
Xây dựng các biện pháp đánh giá nhân viên và và có các chế độ đãi ngộ công bằng
và hợp lý hơn; Tăng cường các hoạt động văn nghệ, thể dục thể thao tại bệnh viện;
Tổ chức các lớp học về giao tiếp ứng xử và xây dựng văn hóa cơ quan để cải thiện
mối quan hệ giữa các nhân viên y tế với nhau; Đẩy mạnh triển khai Dự án xây dựng
Bệnh viện Phụ Sản - Nhi giai đoạn 02.


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Sức khỏe tâm thần đã được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đưa vào khái niệm
nổi tiếng về sức khỏe: “... là trạng thái hoàn toàn thoải mái về thể chất, tâm thần và
xã hội, chứ không đơn giản là không có bệnh tật hay đau yếu”. Định nghĩa này thể
hiện rất rõ rằng: sức khỏe tâm thần là một phần không thể tách rời của sức khỏe nói
chung; là một khái niệm rộng chứ không phải chỉ là không có bệnh tâm thần; và sức
khỏe tâm thần có mối liên hệ mật thiết với sức khỏe thể chất và hành vi [7]. Năm
2003, WHO đã đưa ra khái niệm về sức khỏe tâm thần “... là trạng thái khỏe mạnh
của mỗi cá nhân để họ nhận biết được các khả năng của bản thân, có thể đương đầu
với những căng thẳng thông thường trong cuộc sống, có thể học tập, làm việc một
cách hiệu quả và có thể tham gia, góp phần vào các hoạt động của cộng đồng” [46].
Trong bối cảnh hiện nay, việc chăm sóc sức khỏe tâm thần trên thế giới ngày
càng được quan tâm do sức khỏe tâm thần đang chiếm một tỷ lệ cao trong cơ cấu
bệnh tật cũng như trong chăm sóc sức khỏe ban đầu trong cộng đồng [10]. Theo
Liên hiệp quốc, ước tính khoảng 25% dân số thế giới bị gánh nặng về sức khỏe tâm
thần. Theo báo cáo của WHO, những đối tượng có vấn đề về sức khỏe tâm thần

trong thời gian dài sẽ bị một trong ba nguyên nhân gây ra tàn phế, cùng với bệnh
tim mạch và các tổn thương về cơ-xương khớp; là lý do chính làm tăng gánh nặng
kinh tế ở một số nước trên thế giới [2].
Vấn đề sức khỏe tâm thần ở Việt Nam không nằm ngoài tình hình chung của
toàn cầu. Kết quả điều tra quốc gia năm 1999-2000 cho thấy tỷ lệ mắc 10 bệnh tâm
thần phổ biến là 15%, trong đó có trầm cảm và lo âu [8]. Gần đây một số nghiên
cứu ở quy mô nhỏ hơn cho thấy tỷ lệ rối loạn tâm thần khoảng 20-30% [8]. Nghiên
cứu của trường Đại học Y tế công cộng về “Gánh nặng bệnh tật và chấn thương ở
Việt Nam 2008” cho kết quả nhóm bệnh tâm thần kinh và bệnh tim mạch là nguyên
nhân hàng đầu gây nên gánh nặng bệnh tật ở Việt Nam (17%)[5].
Hậu quả của rối loạn tâm thần không chỉ gây ảnh hưởng đến sức khỏe của
mỗi cá nhân mà còn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến toàn xã hội. Nghiên cứu của
Viện Sức khỏe tâm thần (2008) trên 9.201 người thuộc 10 nhóm ngành nghề lao
động đặc biệt chịu căng thẳng cho thấy 10,7% người lao động bị các rối loạn liên


2

quan đến sức khỏe tâm thần [12]. Đối với ngành y tế, nhiều nghiên cứu cho thấy
nhân viên y tế có tỷ lệ lạm dụng thuốc và tự tử cao hơn so với các ngành nghề khác
và có tỷ lệ cao của stress, lo âu, trầm cảm liên quan đến công việc căng thẳng. Các
rối loạn tâm thần của nhân viên y tế góp phần đưa đến các hậu quả như kiệt sức,
vắng mặt, nhân viên có ý định chuyển công tác, giảm sự hài lòng của người bệnh và
mắc nhiều lỗi trong quá trình chẩn đoán, điều trị, chăm sóc [29].
Bệnh viện Phụ Sản - Nhi Đà Nẵng là bệnh viện chuyên khoa hạng I. Bệnh
viện chính thức đi vào hoạt động từ tháng 4/2011 với quy mô 600 giường bệnh kế
hoạch. Qua khảo sát thực tế, chúng tôi nhận thấy có một số nguy cơ có thể tăng
gánh nặng tâm thần cho nhân viên y tế, đặc biệt đội ngũ điều dưỡng, hộ sinh. Từ khi
bắt đầu thành lập đến nay, tình trạng quá tải người bệnh tiếp tục duy trì ở mức cao
thể hiện ở chỉ số công suất sử dụng giường bệnh hàng năm (năm 2013:193%) [1].

Mặt khác, bệnh viện Phụ Sản - Nhi là bệnh viện chuyên khoa đầu ngành về Phụ Sản
- Nhi ở khu vực Nam Trung Bộ, chịu trách nhiệm khám chữa bệnh về chuyên ngành
Phụ Sản - Nhi không chỉ ở thành phố Đà Nẵng mà còn các tỉnh lân cận. Hằng năm,
có khoảng 30% người bệnh điều trị nội trú là người ngoại tỉnh [1]. Người bệnh được
chuyển đến thường trong giai đoạn nặng từ các đơn vị tuyến dưới. Điều này đồng
nghĩa với số lượng người bệnh đông, tăng gánh nặng công việc cho nhiều nhân viên
y tế. Điều dưỡng, hộ sinh là nhóm làm việc lớn nhất và đóng vai trò quan trọng
trong sự thành công của hệ thống chăm sóc sức khỏe. Điều dưỡng là một nghề căng
thẳng, phải làm việc cả ngày lẫn đêm, đối mặt với các nguy cơ lây nhiễm, đối mặt
với người bệnh và người nhà người bệnh có phản ứng không phù hợp, đối mặt với
cái chết … Thường xuyên phải làm việc trong môi trường như vậy, điều dưỡng, hộ
sinh có thể lâm vào trạng thái rối loạn tâm thần.
Từ những lý do trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Đánh giá tình trạng
stress, lo âu, trầm cảm của điều dưỡng, hộ sinh khối lâm sàng bệnh viện Phụ Sản
- Nhi Đà Nẵng năm 2014” nhằm xác định tỷ lệ stress, lo âu, trầm cảm của điều
dưỡng, hộ sinh, từ đó tìm những giải pháp dự phòng thiết thực giúp giảm các vấn đề
sức khỏe tâm thần cho điều dưỡng, hộ sinh, nâng cao chất lượng quản lý nhân lực
của bệnh viện.


3

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

1. Mô tả tình trạng stress, lo âu, trầm cảm của điều dưỡng, hộ sinh khối lâm sàng
bệnh viện Phụ Sản - Nhi Đà Nẵng năm 2014.
2. Xác định những yếu tố liên quan đến tình trạng stress, lo âu, trầm cảm của điều
dưỡng, hộ sinh khối lâm sàng bệnh viện Phụ Sản - Nhi Đà Nẵng.



4

Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1.

Giới thiệu về gánh nặng tâm thần trong lao động
Gánh nặng tâm thần là sự mất cân bằng giữa nhu cầu và khả năng đáp ứng

của con người trong một điều kiện nhất định [2].
Gánh nặng tâm thần trong lao động xảy ra khi các yêu cầu của công việc mà
người lao động không đủ khả năng thực hiện. Gánh nặng tâm thần trong lao động có
thể dẫn đến tổn hại sức khỏe người lao động và thậm chí còn là nguyên nhân gây ra
tai nạn lao động [2].
Gánh nặng tâm thần trong lao động ảnh hưởng đến các chức năng, chức phận
của một cá thể và khả năng làm việc trong tập thể lớn. Nó phụ thuộc vào tuổi của cá
thể khi bùng phát vấn đề sức khỏe tâm thần và khả năng làm việc của những đối
tượng đó giảm sút [2].
Những người bị gánh nặng tâm thần thường bị các rào cản về môi trường, xã
hội và đối xử trong tìm việc làm hoặc quay lại vị trí làm việc cũ sau khi điều trị.
Rào cản về đối xử và bị loại ra ngoài xã hội thường là cản trở lớn nhất khó có thể
vượt qua và họ thường cảm thấy hổ thẹn, sợ hãi và bị cự tuyệt. Theo nhiều báo cáo,
nhiều người lao động sau khi nghỉ việc hoặc phải sử dụng thuốc điều trị họ thường
cảm thấy buồn chán, khả năng duy trì kỹ năng làm việc giảm và không muốn tiếp
xúc với bạn đồng nghiệp, nhất là những người lãnh đạo trong nhà máy, phân
xưởng… Một số người sau khi trở lại làm việc thì làm việc không như trước và
thường thay đổi hành vi, đây là những rào cản của họ đối với công việc [2,47].
Trong các vấn đề về gánh nặng tâm thần thì stress, lo âu, trầm cảm là nhóm
phổ biến hiện nay [39]. Cũng theo WHO thì hiện có đến hơn 20% dân số bị lo âu;
có gần 10% nam giới và 20% nữ giới từng có triệu chứng trầm cảm khá rõ rệt trong

cuộc đời và hiện có hơn 350 triệu người đang mắc bệnh trầm cảm (khoảng 5% dân
số). Còn theo thống kê của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) cho biết hiện có khoảng
20% người lao động trên thế giới bị stress trong công việc và tỷ lệ này đang không
ngừng gia tăng [4,34].


5

1.2. Giới thiệu về stress, lo âu, trầm cảm
1.2.1. Khái niệm
1.2.1.1. Stress
Stress là một thuật ngữ tiếng Anh bắt nguồn từ chữ La tinh “stringi”, có
nghĩa là “bị kéo căng ra”, được dùng trong vật lý học để chỉ một sức nén mà vật liệu
phải chịu đựng. Đến thế kỷ thứ 17 từ ý nghĩa sức ép trên vật liệu, stress được
chuyển sang dùng cho người với ý nghĩa một sức ép hay một xâm phạm nào đó tác
động vào con người gây ra một phản ứng căng thẳng [30].
Trong nghiên cứu lý luận và thực tiễn có rất nhiều khái niệm khác nhau về
stress tùy theo từng cách nhìn vấn đề của mỗi tác giả mà họ đưa ra những quan
niệm khác nhau.
- Theo Hans Selye - người đầu tiên phát triển khái niệm stress hiện đại: Stress
là hội chứng thích nghi toàn thân bao gồm những phản ứng không đặc hiệu của cơ
thể trước tác nhân kích thích (aggression) [9].
- Theo J. Delay: Stress là trạng thái căng thẳng cấp diễn của cơ thể buộc phải
huy động các khả năng phòng vệ để đối phó với một tình huống đang đe dọa [9].
-

Theo Humphrey: Về bản chất, stress có thể được coi là bất kỳ yếu tố, tác

động bên trong hay bên ngoài làm cho cơ thể khó để thích nghi và làm gia tăng nỗ
lực lên một phần của con người để duy trì một trạng thái cân bằng cả bên trong và

với môi trường bên ngoài [31].
Như vậy, chúng ta có thể xem stress như sự đáp ứng của con người trước một
nhu cầu hoặc như sự tương tác trong mối quan hệ giữa con người và môi trường
xung quanh. Trong điều kiện bình thường, stress là một đáp ứng thích nghi về mặt
tâm lý, sinh học và tập tính. Stress đặt con người vào quá trình dàn xếp thích ứng
với môi trường xung quanh, tạo cho cơ thể một cân bằng mới sau khi chịu đựng
những tác động của môi trường. Nói cách khác, stress bình thường đã góp phần làm
cho cơ thể thích nghi. Nếu đáp ứng của cá nhân với stress không đầy đủ, không
thích hợp và cơ thể không tạo ra được một cân bằng mới thì những chức năng của


6

cơ thể ít nhiều sẽ bị rối loạn, những dấu hiệu bệnh lý cơ thể, tâm lý, tập tính sẽ xuất
hiện và sẽ tạo ra những stress bệnh lý cấp tính hoặc kéo dài [11].
Trong môi trường làm việc không lành mạnh có thể tăng các nguy cơ stress
cho người lao động. Theo Viện Quốc gia về An toàn lao động và Sức khỏe
(NIOSH), stress nghề nghiệp (SNN) là “các phản ứng thể chất và cảm xúc có hại
xảy ra khi các yêu cầu của công việc không phù hợp với khả năng, nguồn lực và
nhu cầu của người lao động” [29]. SNN ảnh hưởng tiêu cực cho tổ chức lẫn người
lao động. SNN không phải là vấn đề riêng tư của người lao động phải đối phó một
mình và trong hoàn cảnh biệt lập. Đối với người lao động, hậu quả về ba mặt: sức
khỏe bị ảnh hưởng, tinh thần sa sút, ứng xử thay đổi. Đối với tổ chức, hậu quả là nề
nếp hư hỏng, phá vỡ các thao tác chuẩn mực, năng suất thấp kém, lợi nhuận giảm.
Việc loại bỏ SNN đòi hỏi các giải pháp cả về mặt tổ chức cơ quan lẫn cá nhân [9].
1.2.1.2. Lo âu
Lo âu là một phản ứng cảm xúc tự nhiên của con người, là cảm giác sợ hãi,
mơ hồ, khó chịu lan tỏa cùng các rối loạn cơ thể ở một hay nhiều bộ phận nào đó.
Lo âu thực chất là tín hiệu báo động, báo trước cho cá thể biết rằng sẽ có sự đe dọa
từ bên trong hoặc bên ngoài cơ thể (những khó khăn, thử thách, đe dọa của tự nhiên

hoặc xã hội), từ đó giúp con người tìm ra được các giải pháp phù hợp để tồn tại và
phát triển [17]. Ernest Jones đã đưa ra các trạng thái lo âu khác nhau: sợ và lo âu.
Ông mô tả 2 nét khác nhau giữa sợ và lo âu như sau:
- Sợ nói chung được coi như sự đáp ứng với kích thích đe dọa từ bên ngoài
nguy hiểm có thực đang đến, vì vậy có tính chất sống còn.
- Ngược lại lo âu giống như sợ nhưng lại không có sự đe dọa rõ ràng.
Không cân xứng giữa kích thích bên ngoài, biểu hiện tâm thần và cơ thể.
Lo âu trở thành vấn đề sức khỏe đáng quan tâm khi xuất hiện không liên
quan tới một sự đe dọa nào, mức độ lo âu không cân xứng với bất kỳ một đe dọa
nào và tồn tại kéo dài. Khi mà mức độ lo âu dẫn đến gây trở ngại rõ rệt các hoạt
động lúc đó được gọi là lo âu bệnh lý.


7

1.2.1.3. Trầm cảm
Trầm cảm là một dạng rối loạn tâm thần (RLTT) thường gặp nhất trong các
dạng RLTT, bao gồm nhiều triệu chứng nhưng hay gặp nhất là sự buồn bã sâu sắc
và người bệnh không còn quan tâm hay thích thú đối với những gì xảy ra xung
quanh hoặc đối với bản thân mình. Người bệnh luôn cảm thấy mệt mỏi, mất hi vọng
vào tương lai, nghĩ rằng thế giới xung quanh dường như lúc nào cũng u ám [22].
Trầm cảm có thể xuất hiện với góc độ là một phản ứng đáp lại tác động gây
stress nào đó hoặc một tình huống cuộc sống nặng nề, thường là sự mất mát của bản
thân: mất người thân, li hôn, …; khủng hoảng tài chính hoặc mất vai trò đã có (nghề
nghiệp, gia đình, …). Trầm cảm thường xuất hiện dưới dạng phàn nàn cơ thể. Nếu
phiền muộn và buồn bã là những phản ứng bình thường với một sự mất mát nào đó
thì trầm cảm lại không phải như vậy. Người có nỗi phiền muộn thì mong muốn tạo
ra sự thông cảm và chia sẽ của người khác. Ngược lại, trầm cảm tạo ra sự thất vọng
và kích thích. Phiền muộn kèm theo tính tự trọng còn nguyên vẹn, trong khi đó trầm
cảm lại nổi lên cảm giác tội lỗi và không xứng đáng [15].

1.2.2. Triệu chứng
1.2.2.1.

Triệu chứng của stress

Stress bình thường là một tình huống stress nhẹ, đối tượng chịu đựng được
và là phản ứng thích nghi tốt. Stress bệnh lý thường được hình thành từ những stress
quen thuộc, lặp đi lặp lại như trong trường hợp người bệnh có những xung đột hoặc
gặp những phiền nhiễu, không toại nguyện trong đời sống hằng ngày… Stress bệnh
lý có biểu hiện rất đa dạng và thay đổi tùy theo sự ưu thế về mặt tâm lý, cơ thể hay
về mặt tập tính [9,11].
- Các biểu hiện biến đổi tâm lý, tâm thần, bao gồm: chủ thể phản ứng quá
mức với hoàn cảnh như dễ nổi cáu, có cảm giác khó chịu, căng thẳng về tâm lý, mệt
mỏi về trí tuệ và không thư giãn được; rối loạn giấc ngủ như khó ngủ, hay thức giấc
và không có cảm giác hồi phục sau giấc ngủ.
- Các biểu hiện về cơ thể: chủ thể thường có những rối loạn về thần kinh thực
vật ở mức độ vừa. Những rối loạn này tăng lên khi chủ thể hồi tưởng về các tình


8

huống stress mà mình đã phải chịu đựng. Một số biểu hiện rối loạn tâm thần và
chức năng cơ thể như: trạng thái suy nhược kéo dài; căng cơ bắp (chuột rút), run tay
chân, đổ mồ hôi; nhức đầu, đau nữa đầu, đau cột sống kéo dài, dai dẳng; đánh trống
ngực, đau vùng trước tim và huyết áp tăng không ổn định; có biểu hiện bệnh lý đại
tràng chức năng và đau bàng quang với nước tiểu trong…
- Các biểu hiện về tập tính: tình huống stress có thể ức chế hoặc kích thích
tập tính của người bệnh. Những rối loạn chức năng thích nghi của tập tính được
biểu hiện trong rối loạn hành vi. Các rối loạn hành vi xảy ra do thái độ rút lui, tránh
né các quan hệ xã hội hoặc ngược lại, do những xung động, mức kiềm chế, dẫn đến

sự khó khăn trong giao tiếp của người bệnh. Có người thay đổi hẳn tính cách, làm
cho người khác không nhận ra hoặc có những băn khoăn, suy nghĩ về nhân cách của
họ. Các rối loạn tập tính lúc đầu chỉ gây ra khó chịu, về sau nó phát triển và gây ra
những tổn thương, làm trở ngại cho công việc của người bệnh. Có một số người
dùng chất kích thích như rượu, thuốc để làm dịu những căng thẳng, lo âu nhưng sau
đó do bản thân chất kích thích lại là chất gây lo âu nên bắt buộc họ phải tăng dần
liều sử dụng. Hành vi cứ như vậy lặp đi lặp lại, tăng dần, đưa chủ thể vào một vòng
xoáy đáng sợ của nghiện rượu, nghiện thuốc. Những rối loạn tập tính nghiện này
không thể không ảnh hưởng đến các quan hệ xã hội của chủ thể [9,11].
1.2.2.2.

Triệu chứng của lo âu

Lo âu là một nhóm triệu chứng liên quan đến nhiều trạng thái khác nhau và
ban đầu người bệnh thường đi khám ở những chuyên khoa khác nhau như tim mạch,
hô hấp, thần kinh… chứ ít khi người bệnh đến thẳng chuyên khoa tâm thần. Biểu
hiện của lo âu có thể diễn ra một cách từ từ hoặc là đột ngột với nhiều biểu hiện lâm
sàng khác nhau. Có thể được nhận biết qua 2 nhóm biểu hiện sau [6,37]:
- Biểu hiện về cảm xúc: sợ và lo lắng một cách quá mức trước những sự việc
không đáng lo, cảm giác rất sợ chết, khiếp sợ cái chết, có vấn đề về tập trung, chú ý
vào công việc, dễ bị kích thích, cảm thấy đứng ngồi không yên, cảm giác căng
thẳng, hay giật mình, hay nghĩ đến những điều nguy hiểm xảy ra với mình, cảm
thấy đầu óc mình trống rỗng, cảm thấy điều gì đó xấu sẽ xảy ra với mình.


9

- Biểu hiện về triệu chứng cơ thể: lo âu không chỉ là triệu chứng của cảm xúc
mà của tất cả các cơ quan, bộ phận trong cơ thể đều có thể bị ảnh hưởng và làm cho
cơ thể có những biểu hiện về triệu chứng cơ thể khác nhau. Lo âu gồm các triệu

chứng như: cơn nhịp tim nhanh, vã mồ hôi, khó chịu ở dạ dày hoặc cảm giác hoa
mắt, chóng mặt, hay phải đi tiểu hoặc hay phải đi ngoài, thở nhanh và nông, run tay
chân và co quắp tay chân, căng cơ, đau đầu, mệt mỏi và mất ngủ. Chính vì các triệu
chứng này mà người bệnh dễ bị chẩn đoán nhầm với những bệnh lý khác và không
được điều trị đúng chuyên khoa, hoặc phải mất thời gian dài mới có thể gặp được
đúng thầy thuốc chuyên khoa tâm thần [6,37].
1.2.2.3. Triệu chứng của trầm cảm
Các triệu chứng của trầm cảm hết sức đa dạng cả về thực thể, tâm thần và
hành vi. Người bị trầm cảm có nhiều biểu hiện khác nhau về mức độ nghiêm trọng,
tần số và thời gian của các triệu chứng tùy thuộc vào từng cá nhân, bệnh tật cụ thể
[18,38]:
- Buồn dai dẳng, lo lắng hoặc cảm giác “trống rỗng”.
- Cảm giác tuyệt vọng hay bi quan.
- Cảm giác tội lỗi, vô dụng hoặc bất lực.
- Dễ bị kích thích, bồn chồn.
- Mất quan tâm trong các hoạt động hoặc sở thích bao gồm hoạt động tình dục.
- Mệt mỏi, giảm năng lượng.
- Khó tập trung, ghi nhớ chi tiết và ra quyết định.
- Mất ngủ, tỉnh táo vào buổi sáng sớm hoặc ngủ quá nhiều.
- Ăn quá nhiều hoặc mất cảm giác ngon miệng.
- Ý nghĩ tự tử hay tự tử.
- Đau đầu, đau bụng hoặc rối loạn tiêu hóa.
- Đối với những người bệnh nặng hơn còn gặp khó khăn hay không thể thực
hiện những việc bình thường như đi ra ngoài, đi chợ hay đi học, gặp gỡ bạn bè,
thăm người thân, tiếp xúc với người khác, đặt biệt là với người khác giới [18,38].


10

1.2.3. Nguyên nhân

1.2.3.1.

Nguyên nhân gây ra rối loạn tâm thần

Giống như các rối loạn tâm thần khác, mặc dù nhiều nghiên cứu đã cung cấp
một số dữ liệu nhưng cho đến nay khoa học vẫn chưa tìm ra được nguyên nhân
chính xác gây ra stress, lo âu, trầm cảm. Tuy nhiên nhiều nghiên cứu đã chỉ ra được
các yếu tố liên quan đến các rối loạn đó. Gồm các nhóm yếu tố sau [4,23,38]:
- Các đặc điểm cá nhân: tuổi, giới tính, cân nặng, tình trạng bệnh tật, tính
cách, suy nghĩ, trình độ học vấn, lối sống…
- Gia đình: di truyền, số người trong gia đình, mối quan hệ giữa các thành
viên, tình trạng về kinh tế, vật chất…
- Môi trƣờng xã hội: an ninh trật tự, tình hình chính trị, văn hóa, kinh tế…
- Nơi làm việc: các mối quan hệ trong công việc, văn hóa tổ chức, môi trường
làm việc, cơ sở vật chất, trang thiết bị, khối lượng công việc, các nguy cơ gặp phải
trong công việc, vị trí, chức danh …
- Môi trƣờng tự nhiên: thiên tai, thời tiết, tiếng ồn, nhiệt độ, giao thông, bụi,
sự ô nhiễm…
1.2.3.2.

Những điều kiện gây ra rối loạn tâm thần trong lao động

Các rối loạn tâm thần trong lao động là kết quả của sự ảnh hưởng lẫn nhau
giữa người lao động và điều kiện lao động. Trong một nghiên cứu của Viện Y học
lao động và An toàn của Mỹ đã nhận thấy tuy vai trò cá nhân đóng vai trò quan
trọng trong nguyên nhân gây ra RLTT thì điều kiện lao động cũng là một yếu tố
không thể thiếu. Một số điều kiện gây ra RLTT trong lao động như [2,45]:
- Nhiệm vụ: làm việc nặng nhọc, không được giải lao thường xuyên, thời gian
làm việc kéo dài và làm việc ca kíp; công việc đòi hỏi trách nhiệm cao nhưng quyền
lợi thấp, không sử dụng đúng kỹ năng…

- Quản lý: thiếu sự tham gia của người lao động trong giải quyết công việc,
giáo dục truyền thông nghèo nàn, thiếu chính sách gia đình-tình bạn…
- Quan hệ cá nhân với cá nhân: môi trường xã hội nghèo nàn và thiếu sự
giúp đỡ hỗ trợ lẫn nhau hoặc giúp đỡ của đồng nghiệp và lãnh đạo.


11

- Vai trò công việc: có mâu thuẫn hoặc không hiểu rõ tính chất của công việc,
trách nhiệm quá lớn, chịu áp lực chỉ đạo của nhiều người.
- Công việc: công việc thiếu an toàn, không có cơ hội tiến thủ, thay đổi quy
trình làm việc mà người lao động không được chuẩn bị từ trước.
- Môi trƣờng lao động: điều kiện vi khí hậu nơi làm việc xấu, nguy hại đến
sức khỏe như quá đông người, ồn, ô nhiễm không khí hoặc có những vấn đề về
ecgônômi.
1.2.3.3. Những điều kiện gây ra rối loạn tâm thần trong ngành y tế
Trong những thập kỷ vừa qua, các công đoàn ngành nghề, các tổ chức khoa
học, bao gồm cả Văn phòng Lao động quốc tế có mối quan tâm ngày càng tăng về
tác động của RLTT đối với NVYT, trong đó có điều dưỡng [30,46]. Nhiều nghiên
cứu cho thấy NVYT có tỷ lệ lạm dụng thuốc và tự tử cao hơn so với các ngành nghề
khác và có tỷ lệ stress, trầm cảm và lo âu cao liên quan đến công việc căng thẳng.
Các RLTT của NVYT góp phần đưa đến các hậu quả như kiệt sức, vắng mặt, nhân
viên có ý định chuyển công tác, giảm sự hài lòng của người bệnh và mắc nhiều lỗi
trong quá trình chẩn đoán, điều trị, chăm sóc [29].
Một số điều kiện phổ biến liên quan đến đặc thù ngành góp phần gây ra
RLTT cho NVYT như [29]:
- Mức biên chế đầy đủ.
- Khối lượng công việc quá nhiều.
- Thời gian làm việc kéo dài.
- Mức độ ổn định của công việc.

- Mức độ rõ ràng của công việc.
- Mối quan hệ với người bệnh: thái độ của người bệnh và người nhà người
bệnh, sự mong đợi của người bệnh, …
- Tiếp xúc với các chất lây nhiễm và độc hại.
- Sự căng thẳng khác nhau giữa các ngành nghề chăm sóc sức khỏe, thậm chí
trong cùng một ngành nghề lại tùy thuộc vào nhiệm vụ.
Nhiều nghiên cứu đã tìm thấy những yếu tố sau đây liên quan đến tình trạng
RLTT của điều dưỡng [29,45]:


12

- Thiết kế công việc và khối lượng công việc: phân công công việc mơ hồ,
nhập nhằng; tình trạng quá tải công việc; thiếu kiểm soát trong công việc; áp lực
thời gian; đối phó với cái chết của người bệnh; …
- Mối quan hệ giữa các cá nhân tại nơi làm việc: xung đột với đồng nghiệp;
xung đột với bác sỹ; hành vi của bác sỹ; …
- Đối phó với những phản ứng tiêu cực của người bệnh, người nhà người bệnh.
- Thiếu sự hỗ trợ tại nơi làm việc (từ điều dưỡng trưởng, bác sỹ điều trị trực
tiếp hay người quản lý cao hơn).
- Mối quan tâm về kiến thức và kỹ năng của cá nhân.
- Tiếp xúc với các bệnh truyền nhiễm.
- Nguy cơ tổn thương do các vật sắc nhọn.
- Vấn đề phát triển sự nghiệp.
Chất lượng chăm sóc người bệnh được cung cấp bởi một bệnh viện cũng có
thể ảnh hưởng đến SKTT của điều dưỡng. Niềm tin về bệnh viện cung cấp dịch vụ
chăm sóc chất lượng có thể làm tăng sự căng thẳng, cảm nhận áp lực công việc và
khối lượng công việc [29].
1.2.4. Hậu quả
1.2.4.1.


Rối loạn tâm thần và sức khỏe

Tổng hợp từ nhiều nghiên cứu cho thấy, các RLTT nói chung và tình trạng
căng thẳng, lo âu, trầm cảm nói riêng không những tác động xấu cho cá nhân mà
còn ảnh hưởng bất lợi cho người xung quanh và xã hội nói chung. Sau đây là những
tác động chính mà chúng có thể gây ra:
Chúng được xem là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất của nhiều
căn bệnh như [3]:
- Bệnh tâm thần kinh: mất ngủ, đau đầu, hoa mắt, chóng mặt, buồn phiền,
cáu gắt, loạn trí nhớ, ...
- Bệnh tim mạch: tăng huyết áp, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não,
loạn nhịp tim, hồi hộp đánh trống ngực...


13

- Các bệnh về da: ví dụ như mụn sưng đỏ, phồng rộp lên hay là bệnh zona.
Da dễ bị mẩn ngứa, phát ban, chàm... hay các chứng bệnh về da có tính kinh niên,
mãn tính rất khó chữa trị.
- Bệnh tiêu hóa: viêm loét dạ dày - tá tràng, chảy máu tiêu hóa, thủng dạ dày,
tiêu chảy, khô miệng, chán ăn, ăn không tiêu, rối loạn chức năng đại tràng...
- Bệnh tình dục: giảm ham muốn, di tinh, mộng tinh, xuất tinh sớm…
- Bệnh phụ khoa: rối loạn kinh nguyệt, rối loạn nội tiết...
- Bệnh cơ khớp: co cứng cơ, đau lưng, đau khớp, cảm giác kiến bò ở ngón
tay, máy mắt, chuột rút, run rẩy...
- Toàn thân: suy sụp, mệt mỏi, dễ mắc các bệnh dị ứng hay truyền nhiễm.
Tình trạng stress, lo âu, trầm cảm còn gây nên các thay đổi về hành vi, mà
phổ biến là việc lạm dụng rượu bia, thuốc lá, chất gây nghiện. Điều này càng làm
suy giảm đáng kể tình trạng thể chất, đồng thời làm tinh thần thêm bấn loạn dẫn đến

các mối quan hệ cá nhân căng thẳng, cả trong gia đình lẫn nơi làm việc. Nếu không
được điều trị kịp thời thì người bệnh sẽ mất dần sự tự tin, mất khả năng đưa ra các
quyết định chính xác và xuất hiện các hành vi bất thường. Từ đó dẫn đến việc bị
đồng nghiệp, bạn bè và người thân xa lánh, hoặc gây ra các tổn thất về tài chính, vật
chất, thậm chí xâm hại đến sức khỏe, tính mạng của bản thân và những người xung
quanh [14].
1.2.4.2.

Rối loạn tâm thần, sức khỏe và sản phẩm lao động

Trước đây, một số lãnh đạo của các cơ quan, doanh nghiệp đã thừa nhận rằng
điều kiện làm việc có nhiều áp lực là một điều kiện không mong muốn nhưng phải
chấp nhận mà các cơ quan, doanh nghiệp đã chuyển hướng áp lực lên người lao
động và đặt các vấn đề sức khỏe liên quan sang một bên để duy trì sản xuất và lợi
ích kinh tế. Nhưng hiện nay, các tổ chức, doanh nghiệp càng quan tâm đến vấn đề
SKTT của người lao động vì SKTT có liên quan với năng suất cao hơn, hiệu suất tốt
hơn, tham gia công việc phù hợp hơn và tai nạn lao động ít hơn. SKTT tăng hiệu
quả của công ty, năng lực sản xuất, chất lượng hàng hoá và dịch vụ [2,42].


14

1.3.

Giới thiệu về các thang đo sức khỏe tâm thần và bộ công cụ DASS 21

của Lovibond
Hiện nay, trên thế giới có nhiều bộ công cụ được sử dụng để đánh giá các
vấn đề SKTT. Có thể kể đến một số bộ công cụ được dùng nhiều trong các nghiên
cứu khoa học cũng như được ứng dụng trong lâm sàng giúp hỗ trợ chẩn đoán như:

bộ câu hỏi đánh giá stress nghề nghiệp (JSQ); thang đánh giá lo âu của Spielberger
(STAI), thang tự đánh giá lo âu của Zung (SAS), thang đánh giá lo âu của Beck
(BID-A); thang đánh giá trầm cảm của Hamilton (HAM-D), thang đánh giá trầm
cảm của Beck (BID-D); thang đánh giá lo âu và trầm cảm AKUADS; thang đánh
giá stress, lo âu, trầm cảm của Lovibond (DASS 42 và DASS 21)… [21].
Năm 1995, Lovibond S.H và Lovibond P.F tại khoa Tâm lý học, đại học
New South Wales (Australia) đã thiết kế nên thang đánh giá ba rối loạn tâm thần
phổ biến là stress, lo âu, trầm cảm ký hiệu là DASS 42. Đến năm 1997, cũng chính
nhóm các nhà khoa học này lại cho ra đời thang đo DASS 21, đây là phiên bản rút
gọn của DASS 42 nhằm tạo sự tiện lợi hơn cho người dùng. DASS 42 thích hợp
trong lâm sàng, còn DASS 21 lại thích hợp cho nghiên cứu. Các nghiên cứu cần
thiết đã được tiến hành và khẳng định sự nhất quán giữa phiên bản DASS 42 và
DASS 21 [25,33,35].
Thang đo DASS 42 và DASS 21 kết hợp được cả hai yếu tố lâm sàng và xã
hội, là những yếu tố cần thiết cho một nghiên cứu. Các nội dung được đề cập trong
DASS không hẳn có ý nghĩa chẩn đoán phân biệt người bệnh như các triệu chứng
được đưa ra trong hướng dẫn phân loại quốc tế bệnh tật lần thứ 10 (ICD 10), mà
mục đích của nó là đưa ra một thực trạng trong quần thể nghiên cứu giúp cho nhà
quản lý nhân lực có những chính sách để cải thiện, nâng cao hiệu suất nguồn nhân
lực. Đồng thời khuyến cáo những đối tượng nghiên cứu nếu gặp phải những vấn đề
được liệt kê trong DASS một cách thường xuyên và ở mức độ nặng thì nên tìm sự
giúp đỡ từ các chuyên gia tâm lý [41].
Thang đo DASS 21 đã được Viện Sức khỏe tâm thần Quốc gia biên dịch, thử
nghiệm trên một số đối tượng nghề nghiệp khác nhau. Thang đo DASS 21 đã được


15

nhiều nghiên cứu đánh giá về tính giá trị và độ tin cậy và khẳng định có thể thể áp
dụng tại Việt Nam, không có sự khác biệt về mặt văn hóa [44].

Từ những lý do trên chúng tôi đã chọn thang đo DASS 21 để sử dụng cho
nghiên cứu của mình. DASS 21 gồm 21 tiểu mục chia thành 03 nhóm, mỗi nhóm
gồm 07 tiểu mục. Mỗi tiểu mục là một mô tả về triệu chứng thực thể hoặc tinh thần.
Điểm cho mỗi tiểu mục là từ 0 đến 03 điểm, tùy thuộc mức độ và thời gian xuất
hiện triệu chứng: 0 điểm - không đúng chút nào cả; 01 điểm - đúng phần nào, hoặc
thỉnh thoảng mới đúng; 02 điểm - đúng phần nhiều, hoặc phần lớn thời gian là
đúng; 03 điểm - hoàn toàn đúng hoặc hầu hết thời gian là đúng. Sau khi cộng tổng
điểm của từng nhóm 07 tiểu mục, kết quả thu được sẽ nhân với 02, khi đó DASS 21
sử dụng bảng đánh giá mức độ dưới đây:
Mức độ

Trầm cảm

Lo âu

Stress

Bình thƣờng

0–9

0–7

0 – 14

Nhẹ

10 – 13

8–9


15 – 18

Vừa

14 – 20

10 – 14

19 – 25

Nặng

21 – 27

15 – 19

26 – 33

Rất nặng

≥ 28

≥ 20

≥ 34

Sau khi đối chiếu điểm số thu được với bảng trên, kết quả sẽ cho biết tình
trạng stress, lo âu, trầm cảm đang ở mức độ nào: bình thường, nhẹ, vừa, nặng, rất
nặng [16].

1.4. Một số nghiên cứu về stress, lo âu, trầm cảm trên thế giới và tại Việt Nam
1.4.1. Một số nghiên cứu trên thế giới
Hiện nay, các vấn đề sức khỏe tâm thần đang càng ngày càng được quan tâm
nhiều hơn. Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về stress, lo âu, trầm cảm theo
nhiều hướng và trên nhiều đối tượng khác nhau như: công nhân, học sinh-sinh viên,
nhân viên lái xe buýt, cựu chiến binh… [24,26,32,40].
Đối với ngành y tế, nghiên cứu của Khalid S. Al-Gelban (2006) sử dụng
thang đo DASS 42 để đánh giá tình trạng stress, lo âu, trầm cảm trên đối tượng là


×