Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tiểu luận cao học, một số vấn đề lý luận và thực tiễn về cơ chế hoạt động của hệ thống chính trị XHCN trong thời kì quá độ lên CNXH ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.59 KB, 22 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối đổi mới toàn diện
đã tạo ra một bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước
ta, tạo tiền đề quan trọng cho các cải biến đời sống kinh tế- xã hội, từng bước
xóa bỏ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà
nước. Quá trình chuyển đổi mô hình kinh tế đã làm cho nền kinh tế - xã hội
thay đổi cơ bản, điều này đòi hỏi hệ thống chính trị của nước ta phải đổi mới
phù hợp với bối cảnh của đất nước và của thời đại.
Trong hơn 20 năm đổi mới Đảng ta đã có nhiều chủ trương, giải pháp
từng bước đổi mới cơ chế hoạt động của Đảng, Nhà nước, của Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị xã hội khác, tích cực khắc phục những thương
tích giữa đổi mới kinh tế với đổi mới hệ thống chính trị .Tuy nhiên trong giai
đoạn đổi mới của đất nước hệ thống chính trị đang tỏ ra không ít bất cập.Vấn
đề đặt ra là cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về
cơ cấu hoạt động của hệ thống chính trị nước ta hiện nay.Trên cơ sở đó xây
dựng giải pháp để đổi mới hoàn thiện hệ thống chính trị.
Xuất phát từ những lý do trên tác giả chọn đề tài tiểu luận: “ Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn về cơ chế hoạt động của hệ thống chính trị
XHCN trong thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam”.
2. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu:
Hệ thống chính trị Việt Nam mang tính chất XHCN và hoạt động dựa
trên nguyên tắc tập trung dân chủ.
Đề tài tập trung nghiên cứu hệ thống chính trị của Việt Nam trong quá
trình đi lên CNXH.Đặc biệt là từ sau Đai hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam
đến nay.
1


3. Tình hình nghiên cứu :


Liên quan đến đề tài có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu , tiêu
biểu là:
1. GS.VS Nguyễn Duy Uý, “ Hệ thống chính trị nước ta thời kì đổi
mới”, Nxb Chính trị quốc gia.Cuốn sách gồm 3 chương, tập trung tổng kết
đánh giá hiện trạng, những hạn chế thành tựu của hệ thống chính trị nước ta
hơn 20 năm qua , đồng thời dự báo cho sự vận động của hệ thống chính trị
nước ta trong giai đoạn mới.
2.PGS.TS Lê Minh Thông , “ Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động
của hệ thống chính trị trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam”, Nxb Chính trị quốc gia.Tác giả đã làm sáng rõ cơ sở lý luận và thực
tiễn về tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong điều kiện
xây dựng CNXH ở Việt Nam.
Ngoài ra còn có rất nhiều bài báo và tạp chí phân tích về cơ chế hoạt
động của hệ thống chính trị XHCN ở nước ta trong thời kì quá độ lên
CNXH.Đó cũng chính là thành tựu để tác giả kế thừa trong quá trình nghiên
cứu.
4. Nhiệm vụ và mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài này là làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn
về cơ chế hoạt động của hệ thống chính trị XHCN trong thời kì quá độ lên
CNXH ở Việt Nam.
Để thực hiện mục tiêu trên cần phải tiến hành những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ những quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh về hệ thống chính trị XHCN .
- Làm rõ thực tiễn về cơ chế hoạt động của hệ thống chính trị XHCN ở
nước ta hiện nay.
- Đề ra được phương hướng và giải pháp xây dựng hệ thống chính trị
nước ta trong thời kì quá độ lên CNXH.

2



5. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp luận: Vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin về hệ
thống chính trị xã hội chủ nghĩa vào việc xem xét và làm rõ đề tài.
- Phương pháp chung: Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp,
lôgic lịch sủ…
- Một số phương pháp cụ thể: Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các
phương pháp cụ thể như: phương pháp thu thập tài liệu,so sánh, trao đổi…

3


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CÁC NHÀ KINH ĐIỂN VỀ HỆ
THỐNG CHÍNH TRỊ XHCN
1.1 Các khái niệm cơ bản:
*Hệ thống chính trị :Là một tổ hợp có tính chỉnh thể bao gồm các thể
chế chính trị được xây dựng trên cơ sở các quyền và các chuẩn mực xã hội
(điều kiện kinh tế – xã hội). Kết cấu theo những quan hệ chức năng nhất định.
Vận hành theo những cơ chế và nguyên tắc cụ thể nhằm thực thi quyền lực
chính trị.
Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị trong xã hội,
bao gồm: các đảng chính trị, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội hợp
pháp được liên kết với nhau trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động vào
các quá trình của đời sống xã hội, để củng cố, duy trì và phát triển chế độ
đương thời phù hợp với lợi ích của chủ thể giai cấp cầm quyền. Hay chúng ta
còn có thể hiểu, hệ thống chính trị là tổ hợp có tính chỉnh thể các thể chế
chính trị (các cơ quan quyền lực Nhà nước, các Đảng chính trị, các tổ chức và
phong trào xã hội…) được xây dựng trên các quyền và các chuẩn mực xã hội,
phân bố theo một kết cấu chức năng nhất định, vận hành theo những nguyên

tắc, cơ chế và quan hệ cụ thể, nhằm thực thi quyền lực chính trị.
Thời kỳ quá độ
Trước đây, đã có một thời gian dài chúng ta hiểu không đúng về thời kỳ
quá độ nên đã bỏ qua hình thái kinh tế - xã hội Tư bản chủ nghĩa, bỏ qua quan
hệ sản xuất Tư bản chủ nghĩa. Nhưng kể từ khi đổi mới đến nay, theo nhận
thức mới, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được hiểu: quá độ lên chủ nghĩa
xã hội là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng Tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà
nhân loại đã đạt được dưới chế độ Tư bản chủ nghĩa. Đó là thời kỳ đấu tranh
gay gắt, phức tạp giữa cái cũ và cái mới, cái tiến bộ và cái lạc hậu, là thời kỳ
4


vẫn còn đấu tranh giai cấp giữa một bên là giai cấp Vô sản và một bên là giai
cấp Tư sản, giữa con đường phát triển đất nước lên chủ nghĩa xã hội hay lên
chủ nghĩa Tư bản. Song đây là cuộc đấu tranh diễn ra trong điều kiện mới
(giai cấp công nhân đã trở thành giai cấp cầm quyền) với nôị dung mới (mà
trung tâm là xây dựng toàn diện xã hội mới, trong đó, xây dựng nền kinh tế xã
hội chủ nghĩa là nhiệm vụ cơ bản nhất) và hình thức mới (cơ bản là hoà bình
và tổ chức xây dựng). Cùng với những bước tiến trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội, các thành phần, nhân tố mang tính chất xã hội chủ nghĩa sẽ ngày
càng phát triển và vươn lên vị trí chi phối trên mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội; con đường xã hội chủ nghĩa sẽ ngày càng giữ vai trò chủ đạo. Như vậy,
xét trên mọi phương diện, có thể nói, thời kỳ quá độ là còn tồn tại nhiều yếu
tố khác nhau, thậm trí trái ngược nhau cùng tồn tại đan xen, thâm nhập vào
nhau và ảnh hưởng lẫn nhau. Trong quá trình đó, sự phát triển tiến bộ có thể
đan xen với những sự thoái lui tạm thời; những tìm tòi thử nghiệm đôi khi
phải làm đi làm lại nhiều lần mới thành công. Khi đề cập đến khía cạnh này,
Lênin đã viết: “còn chúng ta thì biết rằng việc chuyển từ chủ nghĩa Tư bản
lên chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh vô cùng khó khăn. Nhưng chúng

ta sẵn sàng chịu đựng hàng nghìn khó khăn, thực hiện hàng nghìn lần thử, và
khi chúng ta đã thực hiện được một nghìn lần thử rồi, thì chúng ta sẽ thực
hiện cái lần thử thứ một nghìn lẻ một” [6; 505]
Như vậy, xét về bản chất, mục tiêu nhất quán của các chế độ từ khi có
Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo thì thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
nằm trong giai đoạn thấp của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
1.2 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về hệ thống chính trị:
Trong qua trình hoạt động của mình các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác- Lênin không dùng thuật ngữ “ hệ thống chính trị” theo cách hiểu hiện
nay của chúng ta, mà Mác, Ăngghen thường dùng những thuật ngữ sau: hình
thức chính trị, thiết chế chính trị, thể chế xã hội và chính trị, cơ cấu chính trị,
cơ cấu chính quyền, thể chế nhà nước,…Lênin dùng nhiều khái niệm “ hệ
5


thống chuyên chính vô sản” là khí niệm có nhiều nội dung liên quan đến khái
niệm hệ thống chính trị của chúng ta hiện nay.
Qua di sản lý luận của Lênin, khi nói đến chuyên chính vô sản, Lênin
chưa vạch ra đầy đủ nội dung của khái niệm này.Nhưng qua những lần đề cập
đến hệ thống chuyên chính vô sản có thể hiểu rằng Lênin muốn nói đến hệ
thống ấy của nước Nga khi bắt đầu bước vào thời kì quá độ về cơ bản chỉ mới
xác định ba tổ chức cấu thành nên tổ chức ấy là đảng cộng sản, chính quyền
nhà nước, công đoàn…
Tư tưởng của Lênin được coi là nền tảng chính trị trong sự nghiệp cách
mạng XHCN nói chung, trong thời kỳ quá độ nói riêng. Những tư tưởng của
Lênin nhằm củng cố hệ thống chính trị vô sản rất nhiều.Song những bài học
mà chúng ta rút ra được từ trong tác phẩm cuả Người là làm sao khắc phục
được những gì đã làm cho hệ thống ấy không sử dụng được đầy đủ tiềm lực
của nó.Phải gạt bỏ lớp hoen rỉ quan liêu chủ nghĩa, chủ quan chủ nghĩa và tự
mãn đang bám vào hệ thống ấy.

Lênin đã đề cập đến hệ thống ấy với tính cách là một cơ cấu chính
trị.Do thực tiễn đặt ra Lênin có đề cập đến ba tổ chức nằm trong hệ thống đó:
đảng, nhà nước, công đoàn.Lênin đã vạch ra những mối quan hệ giữa các tổ
chức này.Thực hiện đúng những mối quan hệ ấy sé tạo ra sự vận hành thông
suốt của toàn bộ hệ thống.
Qua những tác phẩm cuối cùng của mình , Lênin muốn bổ sung và thay
đổi nhiều quan đỉêm trước đây.Những tác phẩm này đã thể hiện những suy
nghĩ của Lênin nhằm củng cố hệ thống chuyên chính vô sản dựa trên tình
hình mới.
1.3 Tư tưởng Hồ Chí Minh về hệ thống chính trị:
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà hoạt động cáh mạng thực tiễn, đồng thời
là nhà tư tưởng, nhà lý luận xuất sắc của cách mạng Việt Nam.Tư tưởng Hồ
Chí Minh về hệ thống chính trị là toàn bộ những quan điểm lý luận mang bản

6


chất cách mạng khoa học về mục tiêu, nhiệm vụ, phương thức hoạt động của
các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Khi chủ tịch Hồ Chí Minh nói : “ Đảng ta là đảng cầm quyền” có nghĩa
là Người khẳng định bước ngoặt vĩ đại đánh dấu sự chuyển biến về chất trong
vị thế của Đảng từ chưa có chính quyền trở thành có chính quyền, đồng thời
là bước ngoặt trong đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo , xác định
nhiệm vụ của Đảng trước dân tộc và Tổ quốc: Đảng vừa là người lãnh đạo
vừa là đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Cùng với Tuyên ngôn độc lập, sự ra đời Hiến pháp năm 1946 trực tiếp
thể chế hoá chương trình Việt Minh (10 điểm) hợp thành chỉnh thể pháp lý ở
tầm chiến dịch thể hiện một Nhà nước độc lập, tự chủ, cộng hoà, một nhà
nước thực sự của dân, do dân, vì dân.
Hồ Chí Minh thường nói: “ Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất

là nhân dân, vì dân là chủ” [3,515] .Khi dân là chủ và dân làm chủ, địa vị cao
nhất trong xã hội là dân, quyền lực nhà nước thuộc về dân, thì mọi nhân viên
nhà nước phải là công bộc của dân.Là người làm chủ nhà nước nhân dân có
quyền thông qua cơ chế dân chủ thực thi quyền lực, nhưng đồng thời nhân
dân phải có nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ nhà nước, làm cho nhà nước ngày
càng trong sạch , vững mạnh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về hệ thống chính trị là những bài học quý giá
về sự lãnh đạo của Đảng, về Nhà nước pháp quyền và Mặt trận đại đoàn kết
dân tộc, về dân chủ. Tư tưởng đó là định hướng lý luận cho Đảng ta trong
việc nghiên cứu đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị của nước ta hiện nay,
vì thế chúng ta cần học tập nghiên cứu và vận dụng những tư tưởng của
Người cho phù hợp với tình hình mới.

7


CHƯƠNG 2- THỰC TIỄN VỀ CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ
THỐNG CHÍNH TRỊ XHCN Ở NƯỚC TA
2.1 Đặc điểm hệ thống chính trị ở Viêt Nam:
* Các bộ phận cấu thành nên hệ thống chính trị XHCN ở Việt Nam:
ở nước ta hiện nay, giai cấp công nhân và nhân dân lao động đang là
chủ thể chân chính của quyền lực. Vì vậy, hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo
của Đảng là công cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động. Hệ
thống chính trị của nước ta gồm nhiều tổ chức, mỗi tổ chức có vị trí, vai trò
khác nhau do chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức, nhưng cùng tác động
vào các quá trình phát triển kinh tế - xã hội nhằm đảm bảo quyền lực của
nhân dân.
Đảng Cộng sản Việt Nam:
Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại
biểu trung thành lợi ích giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân

tộc. Đảng là một bộ phận của hệ thống chính trị nhưng lại là hạt nhân lãnh
đạo của toàn bộ hệ thống chính trị. Vai trò lãnh đạo của Đảng thể hiện trên
những nội dung chủ yếu sau:
Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược, những quan
điểm, chủ trương phát triển kinh tế-xã hội; đồng thời Đảng là người lãnh đạo
và tổ chức thực hiện Cương lĩnh, đường lối của Đảng.
Đảng lãnh đạo xã hội chủ yếu thông qua Nhà nước và các đoàn thể
quần chúng. Đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng được Nhà nước tiếp
nhận, thể chế hoá cụ thể bằng pháp luật và những chủ trương, chính sách, kế
hoạch, chương trình cụ thể. Vì vậy, Đảng luôn quan tâm đến việc xây dựng
Nhà nước và bộ máy của Nhà nước, đồng thời kiểm tra việc Nhà nước thực
hiện các Nghị quyết của Đảng.
Đảng lãnh đạo xã hội thông qua hệ thống tổ chức Đảng các cấp và đội
ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Đảng lãnh đạo công tác cán bộ bằng việc
xác định đường lối, chính sách cán bộ, lựa chọn, bố trí, giới thiệu cán bộ có
8


đủ tiêu chuẩn vào các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước và các đoàn thể quần
chúng và các tổ chức chính trị - xã hội.
Ngoài ra, Đảng lãnh đạo bằng phương pháp giáo dục, thuyết phục và
nêu gương, làm công tác vận động quần chúng, lãnh đạo thực hiện tốt quy chế
dân chủ...
Nhà nước:
Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị ở nước ta, là công cụ tổ chức
thực hiện ý chí và quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách
nhiệm trước nhân dân để quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Đó
chính là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Mặt khác, Nhà
nước chịu sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, thực hiện đường lối chính trị
của Đảng. Đảng lãnh đạo Nhà nước thực hiện và đảm bảo đầy đủ quyền làm

chủ của nhân dân.
Như vậy, Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là cơ quan quyền lực, vừa là
bộ máy chính trị, hành chính, vừa là tổ chức quản lý kinh tế, văn hoá, xã hội
của nhân dân. Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối
hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp.
Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực
Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội
do nhân dân trực tiếp bầu ra, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập ra
Hiến pháp và luật pháp (lập hiến và lập pháp). Quốc hội quyết định những
chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội,
những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về
quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao với toàn bộ hoạt động của
Nhà nước.

9


Với ý nghĩa đó, Quốc hội được gọi là cơ quan lập pháp. Chính phủ là
cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị,
kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của Nhà nước.
Chính phủ là cơ quan chấp hành, chịu trách nhiệm trước Quốc hội và phải báo
cáo công tác với Quốc hội. Trên ý nghĩa đó, Chính phủ được gọi là cơ quan
hành pháp.
Cơ quan tư pháp gồm: Toà án, Viện kiểm sát và các cơ quan điều tra.
Đây là những cơ quan được lập ra trong hệ thống tổ chức Nhà nước để xử lý
những tổ chức và cá nhân vi phạm pháp luật, đảm bảo việc thực thi pháp luật

một cách nghiêm minh, chính xác.
Toà án các cấp là cơ quan nhân danh Nhà nước, thể hiện thái độ và ý
chí của Nhà nước trước các vụ án thông qua hoạt động độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật. Toà án là cơ quan duy nhất có quyền áp dụng chế tài hình sự,
không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của
toà án đã có hiệu lực pháp luật.
Để đảm bảo pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, đảm bảo việc xét
xử đúng người đúng tội, Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức thành hệ thống,
tập trung thống nhất và độc lập thực hiện thẩm quyền của mình đối với các cơ
quan khác của Nhà nước. Thực hiện các quyền khởi tố, kiểm sát các hoạt
động điều tra, truy tố...Với ý nghĩa đó, các tổ chức Toà án, Viện kiểm sát được
gọi là cơ quan tư pháp.
Nhà nước thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng
giáo dục nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân. Vì vậy, cần tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội.
Đây là những tổ chức chính trị-xã hội hợp pháp được tổ chức để
tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân theo nguyên tắc tự nguyện, tự
10


quản đại diện cho lợi ích của nhân dân, tham gia vào hệ thống chính trị,
tuỳ theo tính chất, tôn chỉ, mục đích của mình nhằm bảo vệ quyền lợi
dân chủ của nhân dân.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan
trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ đất
nước; phát huy dân chủ, nâng cao trách nhiệm công dân của các hội viên,
đoàn viên, giữ gìn kỷ cương phép nước, thúc đẩy công cuộc đổi mới, thắt chặt
mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân là cơ sở chính trị

của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí và nguyện vọng; phát huy khả
năng tham gia bầu cử Quốc hội và Hội đồng Nhân dân; tuyên truyền vận động
nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; thực hiện
giám sát của nhân dân với cán bộ, công chức và giải quyết những mâu thuẫn
trong nội bộ nhân dân.
Các tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân có nhiệm vụ giáo dục chính
trị tư tưởng, động viên và phát huy tính tích cực xã hội của các tầng lớp nhân
dân, góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị; chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng
và hợp pháp của nhân dân; tham gia vào công việc quản lý Nhà nước, quản lý
xã hội, giữ vững và tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và
nhân dân, góp phần thực hiện và thúc đẩy quá trình dân chủ hoá và đổi mới xã
hội, thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Hệ thống chính trị ở nước ta được tổ chức theo một hệ thống từ Trung
ương đến cơ sở. Cơ sở phân cấp theo quản lý hành chính gồm có xã, phường,
thị trấn. Hệ thống chính trị ở cơ sở bao gồm: Tổ chức cơ sở Đảng, Hội đồng
Nhân dân xã, phường; Uỷ ban Nhân dân xã, phường; Mặt trận Tổ quốc xã,
phường và các tổ chức chính trị-xã hội khác như: Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh xã, phường, thị
trấn… Tất cả các tổ chức trên đều có vị trí, vai trò và nhiệm vụ được quy định
trong Luật Tổ chức của hệ thống chính trị ở nước ta.
11


Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức
và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc
sống của cộng đồng dân cư.
* Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay có những đặc điểm cơ bản sau:
Một là, các tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta đều lấy chủ

nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho hành động. Các quan điểm và nguyên tắc của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đều được tổ chức trong hệ thống chính trị ở
nước ta vận dụng, ghi rõ trong hoạt động của từng tổ chức.
Hai là, hệ thống chính trị ở nước ta đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Đảng là một tổ chức trong hệ thống chính trị nhưng có
vai trò lãnh đạo các tổ chức trong hệ thống chính trị. Trong điều kiện cụ thể ở
nước ta, do những phẩm chất của mình - Đảng là đại biểu cho ý chí và lợi ích
thống nhất của các dân tộc; do truyền thống lịch sử mang lại và do những
thành tựu rất to lớn đạt được trong hoạt động thực tiễn cách mạng Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng... làm cho Đảng ta trở thành Đảng chính trị duy
nhất có khả năng tập hợp quần chúng lao động đông đảo để thực hiện lý
tưởng của Đảng, nhân dân tự nguyện đi theo Đảng, thừa nhận vai trò lãnh đạo
của Đảng trong thực tế. Đây là đặc trưng cơ bản của hệ thống chính trị ở nước
ta.
Ba là, hệ thống chính trị ở nước ta được tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc tập trung dân chủ. Nguyên tắc này được tất cả các tổ chức trong hệ
thống chính trị ở nước ta thực hiện.
Việc quán triệt và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ là nhân tố cơ
bản đảm bảo cho hệ thống chính trị có được sự thống nhất về tổ chức và hành
động nhằm phát huy sức mạnh đồng bộ của toàn hệ thống cũng như của mỗi
tổ chức trong hệ thống chính trị.
12


Bốn là, hệ thống chính trị bảo đảm sự thống nhất giữa bản chất giai cấp
công nhân và tính nhân dân, tính dân tộc rộng rãi.
Đây là đặc điểm khác biệt căn bản của hệ thống chính trị ở nước ta với
hệ thống chính trị của các nước tư bản chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của chế
độ xã hội chủ nghĩa, sự thống nhất lợi ích giữa giai cấp công nhân, nhân dân
lao động cũng như cả dân tộc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công

bằng, dân chủ, văn minh.
* Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân đã thực sự là cơ
sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí và nguyện vọng;
phát huy khả năng tham gia bầu cử Quốc hội và Hội đồng Nhân dân; tuyên
truyền vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước; thực hiện giám sát của nhân dân với cán bộ, công chức và giải quyết
những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân.
Các tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân đã thực hiện tốt nhiệm vụ
giáo dục chính trị - tư tưởng, động viên và phát huy tính tích cực xã hội của
các tầng lớp nhân dân, góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị; chăm lo bảo vệ
lợi ích chính đáng và hợp pháp của nhân dân; tham gia vào công việc quản lý
Nhà nước, quản lý xã hội, giữ vững và tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa
Đảng, Nhà nước và nhân dân, góp phần thực hiện và thúc đẩy quá trình dân
chủ hoá và đổi mới xã hội, thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, nhân dân làm chủ.
2.2 Quá trình hoạt động của hệ thống chính trị XHCN của nước
ta trong thời kì quá độ lên CNXH:
Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền;
Hệ thống chính trị hiện nay ra đời từ khi thiết lập Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, gồm các cấu thành quyền lực chính trị sau:
Đảng Cộng sản Việt Nam: Là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại
biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả
13


dân tộc, vừa là lực lượng hợp thành, vừa là lực lượng lãnh đạo hệ thống chính
trị XHCN, bảo đảm cho hệ thống chính trị giữ được bản chất giai cấp công
nhân và bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân.
Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa: Là tổ chức trung tâm và là trụ cột
của hệ thống chính trị, thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân

dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống
Xã hội và thực hiện chức năng đối nội, đối ngoại.
Cho đến nay, sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã đi được chặng đường 20
năm. Nước ta đã chuyển hướng theo con đường chung của thời đại, con
đường “ thị trường và dân chủ” Vì vậy, trước những yêu cầu của quá trình đổi
mới toàn diện đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với đổi mới kinh tế,
từng bước đổi mới .
Trong các văn kiện của Đảng, kể từ Văn kiện Đai hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI (1986) đến nay, vấn đề đổi mới hệ thống chính trị ở
nước ta luôn là một vấn đề được quan tâm và đề cập đến. Nói đến hệ
thống chính trị nói chung là nói tới tổng thể các quan hệ và các tổ chức
hợp pháp, mang chức năng thực hiện quyền lực chính trị, bao gồm
quyền lãnh đạo, quyền quản lý xã hội, quản lý nhà nước và các quyền
quyết định công việc hệ trọng của đất nước.
Đối với nước ta, khi nói tới hệ thống chính trị là nói tới hệ thống gồm:
Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các
tổ chức chính trị xã hội khác ( Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn thanh niên
cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn lao
động Việt Nam,…)
Về bản chất, hệ thống chính trị ở nước ta có những bản chất sau:
Một là, hệ thống chính trị ở nước ta mang bản chất của giai cấp công
nhân, nghĩa là các tổ chức trong hệ thống chính trị đều đứng vững trên lập
trường quan điểm của giai cấp công nhân. Từ đó đã quy định chức năng,
14


nhiệm vụ, phương hướng hoạt động của toàn bộ hệ thống chính trị, đảm bảo
quyền làm chủ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Hai là, bản chất dân chủ của hệ thống chính trị ở nước ta thể hiện trước
hết ở chỗ: Quyền lực thuộc về nhân dân với việc Nhà nước của nhân dân, do

nhân dân và vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng - đội tiên phong của giai
cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của cả dân tộc, thiết lập sự thống trị của đa số nhân dân với thiểu
số bóc lột.
Ba là, bản chất thống nhất không đối kháng của hệ thống chính trị ở
nước ta. Bản chất đó dựa trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ
yếu, về sự thống nhất giữa những lợi ích căn bản của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và toàn thể dân tộc.
Về cơ chế hoạt động của hệ thống chính trị nước ta, hệ thống chính trị
nước ta hoạt động theo nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ. Đảng vừa là thành viên của hệ thống chính trị, vừa là hạt nhân
lãnh đạo của hệ thống ấy. Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và
pháp luật.
Các tổ chức trong hệ thống chính trị hoạt động theo nguyên tắc tập
trung dân chủ. Nguyên tắc tập trung dân chủ được Đảng ta lấy làm nguyên tắc
hoạt động của Đảng, nguyên tắc này được triển khai và áp dụng cho các tổ
chức trong hệ thống chính trị nước ta hiện nay.Việc quán triệt nguyên tắc tập
trung dân chủ trong hệ thống chính trị nước ta là nhân tố cơ bản đảm bảo cho
hệ thống chính trị có sự thống nhất về tổ chức và hành động nhằm phát huy
sức mạnh đồng bộ của toàn bộ hệ thống cũng như của mỗi tổ chức trong hệ
thống ấy.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã đứng
lên làm cách mạng, giành lấy quyền lực và tổ chức ra hệ thống chính trị của
mình. Đảng lấy chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Vì vậy, các tổ chức trong hệ thống
15


chính trị ở nước ta đều lấy chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng. Các quan điểm nguyên tắc của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư

tưởng Hồ Chí Minh đều được các tổ chức chính trị ở nước ta vận dụng và ghi
rõ trong cương lĩnh hoạt động của từng tổ chức.
Đến Hội nghị Trug ương 6 khoá VI ( tháng 3 -1989), Đảng ta mới dùng
khái niệm hệ thống chính trị và xác định nhu cầu mới về tổ chức và phương
hướng hoạt động của hệ thống chính trị.
Đến Đại hội VIII ( 1996), khi tổng kết 10 năm đổi mới toàn diện đất
nước, Đảng ta nhận định chúng ta đã “ thực hiện có kết quả một số đổi mới
quan trọng về hệ thống chính trị” [ 1, 61]
Qua thực tiễn đổi mới hệ thống chính trị , Đại hội VIII của Đảng đã
phát triển thêm một bước mới về quan điểm chỉ đạo và rút ra được bài học
kinh nghiệm quý báu là “ kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với
đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm đồng thời từng bước đổi
mời chính trị” [1; 66,67]. Mục tiêu chủ yếu của đổi mới hệ thống chính trị là
nhằm thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, chống lại mọi mưu đồ lợi dụng dân chủ, nhân quyền gây rối về
chính trị chống phá chế độ hoặc can thiệp nội bộ nước ta.
Đại hội IX (2001), trên cơ sở đánh giá một cách toàn diện những thành
tựu và yếu kém, chỉ rõ nguyên nhân và xác định hệ thống quan điểm chỉ đạo,
Đảng ta đưa ra những giải pháp nhằm xây dựng Nhà nước trong sạch vững
mạnh , phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế.
Tại Đại hội X vừa qua, Đảng đã thông qua nội dung cơ bản của đổi mới
hệ thống chính trị. Đảng xác định, Đảng là then chốt, cần đẩy mạnh đổi mới
phương thức tổ chức, phương thức hoạt động và cơ chế vận hành của hệ
thống chính trị cùng các bộ phận cấu thành nên hệ thống đó.
Một hệ thống chính trị tốt phải thể hiện 4 tiêu chí cơ bản sau: Một là:
Vạch được mục tiêu đúng. Hai là: tổ chức thực hiện được các mục tiêu. Ba là:

16



đảm bảo được dân chủ. Bốn là: đảm bảo được ổn định chính trị - xã hội, đất
nước phát triển, tự thích nghi, tự hoàn thiện và đổi mới.
Hệ thống chính trị nước ta, nhất là trong 20 năm đổi mới đã đáp ứng
khá tốt các tiêu chí trên. Qua đây, chúng ta có thể tự đánh giá chính mình và
so sánh được hệ thống chính trị nước ta với hệ thống chính trị các nước trong
khu vực và trên thế giới.
Chúng ta đã có đường lối đổi mới và các chính sách kinh tế - xã hội
đúng, hợp lòng dân, hợp với xu thế phát triển của thời đại, được cộng đồng
quốc tế thừa nhận và đánh giá cao; tổ chức hiện thực hoá chúng với tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt; đạt
đựơc nhiều thành tựu và tiến bộ trong xây dựng nhà nước pháp quyền, dân
chủ hoá xã hội, phát huy quyền dân chủ của nhân dân; chính trị ổn định…
Trong hệ thống chính trị Việt Nam, có một tổ chức rất đặc biệt là Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội thành viên của Mặt trận Tổ quốc
như Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Liên
hiệp phụ nữ Việt Nam, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh Việt
Nam. Vai trò của các tổ chức này trong xã hội công dân là hết sức quan trọng,
không thể thiếu được. Khách quan mà nói chúng ta đang có một xã hội công
dân đang hình thành và phát triển tốt, làm cơ sở cho hệ thống chính trị dân
chủ và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tính đặc biệt, đặc sắc ở đây là
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt của xã hội
công dân đó.
Chúng ta cũng tích cực khắc phục những yếu kém, trì trệ, bằng nổ lực
cải cách hành chính, quyết tâm chống tham nhũng, đã và đang nghiên cứu,
tiến hành nhiều đổi mới quan trọng nhằm làm cho hệ thống chính trị hoạt
động tốt hơn, hiệu lực, hiệu quả hơn. Trong lúc đó, nhiều nước, đặc biệt là các
nước đang phát triển đang rơi vào các cuộc chiến tranh, nội chiến, xung đột,
nợ nần, nạn khủng bố, khủng hoảng chính trị…

17



Chúng ta đang ở thế thuận lợi. Vấn đề là biết tận dụng những lợi thế
này để phát triển nhanh và bền vững đất nước, tạo các yếu tố thuận lợi hơn để
tiếp tục chủ động đổi mới toàn diện đất nước, trong đó có đổi mới hệ thống
chính trị.
Từ vị thế này, chúng ta rất có khả năng, xứng đáng và rất đáng tích cực
tham gia vào các quá trình quản lý toàn cầu nói chung và khu vực nói riêng.

18


CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG ĐỔI MỚI VÀ KIỆN TOÀN HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở VIỆT NAM
Những vấn đề đặt ra đối với đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay:
Thứ nhất, Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay là lực lượng lãnh đạo duy
nhất.Do đo, trong sự lãnh đạo của Đảng không thể tránh khỏi biểu hiện đặc
quyền đặc lợi, thiếu dân chủ.Để khắc phục hạn chế này, chúng ta cần phải xây
dựng và hoàn thiện hiến pháp và pháp luật thay cho “văn bản quy định”
chung chung về nguyên tắc, nội dung, cơ chế lãnh đạo của Đảng với Nhà
nước trong các lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp ở từng cấp, từng loại
hình tổ chức nhà nước.
Hai là, đổi mới chỉnh đốn Đảng được coi là nhiệm vụ then chốt và có ý
nghĩa quyết định.Đổi mới hệ thống chính trị là nhằm phát triển kinh tế- xã
hội, dựa trên tiền đề của sự phát triển này, đồng thời bảo vệ thành quả của nó.
Ba là, đổi mới thể chế Nhà nước hiện nay.Đảng ta xác định việc đổi
mới chính trị phải trên cơ sở kinh tế, gắn liền với đổi mới kinh tế, thay đổi cả
thể chế kinh tế và thể chế Nhà nước.
Để Nhà nước làm nhiệm vụ quản lý và lãnh đạo xã hội, cần làm tốt một
số vấn đề sau:

Một là, Phát huy mạnh mẽ vai trò của hệ thống chính quyền Nhà nước
trong việc mở rộng và thực hiện dân chủ, hoàn thiện cơ chế dân chủ, thực
hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, cụ thể hoá phương châm dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra.
Hai là, Chăm lo xây dựng, kiện toàn bộ máy của Nhà nước từ Trung
ương đến cơ sở, có cơ cấu gọn nhẹ, hoạt động có hiệu quả, đội ngũ cán bộ có
phẩm chất và năng lực với tinh thần trách nhiệm cao. Hoạt động của cơ quan
Nhà nước phải đặt nhiệm vụ phục vụ nhân dân lên trên hết, giải quyết đúng
đắn và nhanh chóng các công việc có liên quan trực tiếp đến đời sống của
nhân dân. Giáo dục cán bộ, công chức Nhà nước xây dựng và thực hành

19


phong cách "Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với
dân", "Nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin"...
Ba là, Xây dựng cơ chế và biện pháp để kiểm tra, kiểm soát, ngăn ngừa
và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lộng quyền, xâm phạm quyền làm chủ
của nhân dân; ngăn chặn và khắc phục tình trạng dân chủ hình thức, dân chủ
cực đoan, đồng thời nghiêm trị những hoạt động phá hoại gây rối...
Bốn là, Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ
chức và trong sinh hoạt của bộ máy Nhà nước.
Những năm qua, các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể quần chúng
nhân dân đã phát huy vai trò của mình trong công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thời kỳ phát triển mới,
các tổ chức chính trị - xã hội cần được đổi mới toàn diện theo hướng sau đây:
Một là, Nâng cao hơn nữa nhận thức của toàn xã hội về vị trí, vai trò
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và các đoàn thể quần chúng. Đẩy
mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động của các đoàn thể nhân dân, các tổ
chức xã hội nghề nghiệp... các tổ chức quần chúng.

Hai là, Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội theo hướng mở rộng và đa
dạng hoá các hình thức tập hợp quần chúng nhân dân, đáp ứng yêu cầu và
chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng và hợp pháp của nhân dân.
Ba là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân tập trung hướng
mạnh về cơ sở. Lãnh đạo thực hiện tốt quy chế dân chủ, đảm bảo quyền làm chủ của
nhân dân, ngăn chặn và chống mọi hành động vi phạm quyền làm chủ của nhân dân.
Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đổi mới hình thức tuyên truyền, vận
động nhân dân; gắn hoạt động của các tổ chức đoàn thể quần chúng trong việc thực
hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng... với việc nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.Ở nước ta hiện nay, giai cấp công nhân và
nhân dân lao động đang là chủ thể chân chính của quyền lực. Vì vậy, hệ thống chính
trị dưới sự lãnh đạo của Đảng là công cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao
động.

20


KẾT LUẬN
Hệ thống chính trị nước ta cũng như tất cả các nước khác đều có những
thách thức, vừa do những nguyên nhân nội tại vừa do những nguyên nhân bên
ngoài. Đó là do những đặc điểm đặc thù của mình mà mỗi nước vẫn có những
“vấn đề” riêng chưa tương thích với những yêu cầu chung, những chuẩn mực
chung; mặt khác lại có những nước muốn áp đặt cách nhìn nhận, lợi ích,
chuẩn mực của riêng mình cho cộng đồng quốc tế.
Yêu cầu tương thích của hệ thống chính trị của chúng ta với đời sống
chính trị thế giới cũng đang đặt ra một số vấn đề. Mô hình nhà nước của
chúng ta là nhà nước pháp quyền nhưng tàn dư của mô hình tập trung quan
liêu bao cấp còn khá nặng nề. Việc đảm bảo và và thực hiện đầy đủ các quyền
dân chủ của người dân, tình trạng quan liêu tham nhũng đang là những vấn đề

cấp bách cần được giải quyết.
Chúng ta cũng đang tìm tòi để đổi mới hệ thống và hoàn thiện hệ thống
chính trị. Thời gian qua chúng ta đã đảm bảo được sự ổn định. Điều đó nói lên
sự thích hợp, hiệu lực, hiệu quả của hệ thống chính trị. Bên cạnh đó, chúng ta
đang nghiên cứu, tìm hướng khắc phục khuyết điểm của hệ thống chính trị và
tìm cách đổi mới.

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đai biểu toàn quốc lần
VIII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 1996.
2. Đại học tổng hợp Hà Nội, “ Hệ thống chính trị Việt Nam thời kì đổi
mới” - Tạp chí khoa học, 6/1993
3. Hồ Chí Minh( 2000), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,Hà Nội , Toàn
tập , tập 6.
4. Hội đồng lý luận Trung ương ( 2002) , Giáo trình CNXH KH, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Vũ Mạnh Toàn, “ Đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta : Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn” , Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
6. V.I.Lênin (2005),

22



×